Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.53 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

---------

THỜI ĐIỂM CĨ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2010 - 2014

GVHD: ThS. LÊ THỊ HỒNG VÂN
SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN
MSSV: 1055020107

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản
thân, tác giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, ủng hộ từ gia đình, q thầy cơ và bạn bè.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học Luật Tp.HCM đã
giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu trong thời gian tác giả theo học tại
trường.
Cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè luôn bên cạnh, động viên và giúp đỡ tác
giả trong q trình học tập, cũng như thời gian làm khóa luận.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô Lê Thị Hồng Vân. Cảm ơn cô đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian viết khóa luận
Xin chân thành cảm ơn!



BẢNG VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự

BLDS

Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại
quốc tế

Bộ nguyên tắc Unidroit

Công ước Viên về mua bán hàng hóa
quốc tế 1980

CISG

Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10
tháng 08 năm 2004 hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án

Nghị quyết 02/2004

dân sự, hôn nhân và gia đình

Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm

Nghị định 163/2006


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC
CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM
2005 ...................................................................................................... 5
1.1.

Khái niệm thời điểm có hiệu lực của hợp đồng ......................................... 5

1.2. Các thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005 ................................................................................................................ 7
1.3.

So sánh thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của BLDS năm

1995 với BLDS năm 2005 ..................................................................................... 22
1.4. So sánh thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân
sự năm 2005 với pháp luật nƣớc ngoài ................................................................. 26
1.5. Ý nghĩa của việc quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự năm 2005 ................................................................................................... 36

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ THỜI
ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2005 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................ 38
2.1.

Thực tiễn áp dụng quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo

BLDS năm 2005 ..................................................................................................... 38
2.2. Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định
pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng ................................................. 53

2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 ............................................................ 59

KẾT LUẬN ........................................................................................... 69


LỜI NĨI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý có ý nghĩa quan

trọng đối với quan hệ hợp đồng. Bởi vì kể từ thời điểm này, quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ hợp đồng mới phát sinh và được pháp luật bảo vệ. Do đó, khi xây
dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng thì thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng luôn được quy định ở những Điều luật cụ thể. Tuy nhiên, quy định về thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng trong các văn bản này ln có sự thay đổi. Đầu tiên, trong
Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, nhà làm luật đã dành Điều 14 của Pháp lệnh để
quy định về thời điểm mà hợp đồng có hiệu lực. Sau đó, BLDS năm 1995, thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng được quy định cụ thể tại hai điều luật là Điều 403 và Điều 404
với nhiều nội dung được đề cập hơn. Đến BLDS năm 2005, dù vẫn dành Điều 404 và
Điều 405 và một số điều luật ở phần hợp đồng thông dụng để quy định về thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng nhưng về hình thức và nội dung đã có sự thay đổi nhất định. Sau
gần 9 năm BLDS năm 2005 được áp dụng, thì trong dự thảo sửa đổi BLDS gần đây,
quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng lại tiếp tục có sự thay đổi.
Xem xét những quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong BLDS
hiện hành sẽ thấy được nhiều quy định khơng rõ ràng và thiếu tính nhất qn. Bên cạnh
đó, một số vấn đề vẫn để ngỏ. Hơn nữa, quy định trong BLDS năm 2005 đã không thể
hiện hết vai trò trong việc xây dựng một quy định mang tính nền tảng cho các luật
chuyên ngành. Hiện nay, khi các tranh chấp về hợp đồng ở Tòa án ngày càng tăng, tính

chất của các tranh chấp ngày càng phức tạp thì vai trị của những quy định về thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng trong BLDS hiện hành quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì, để
có thể giải quyết những tranh chấp về hợp đồng thì việc đầu tiên cần phải xác định
được hợp đồng của các bên đã có hiệu lực hay chưa? Hiệu lực đó phát sinh từ thời
điểm nào? Kể từ thời điểm đó quyền và nghĩa vụ của các chủ thể ra sao? Do đó, Tịa án
cần phải có những căn cứ pháp lý vững chắc để có thể đưa ra hướng giải quyết phù
hợp. Vì vậy, những bất cập trên của BLDS năm 2005 đã dẫn đến những khó khăn cho
cơng tác xét xử, Tịa án có nhiều hướng giải quyết khác nhau trong cùng một vấn đề,
không đảm bảo được quyền và lợi ích cho các chủ thể.
Từ những phân tích trên, tác giả nhận thấy được tầm quan trọng của thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng và mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu một cách tổng thể về
vấn đề trên để trang bị thêm kiến thức cho bản thân cũng như đưa ra một số kiến nghị
Trang 1


nhằm góp phần hồn thiện quy định này trong BLDS sửa đổi sắp tới. Do đó, tác giả đã
chọn đề tài “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự
năm 2005” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp cử nhân tại trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh.
2.

Tình hình nghiên cứu
Do những quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng rất quan trọng nên

vấn đề này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đề cập tới trong các cơng trình
nghiên cứu của mình. Sau đây là cơng trình nghiên cứu của một số tác giả có liên quan
đến đề tài “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2005”:
Trong Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án của tác giả Đỗ Văn
Đại đã nghiên cứu những quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dựa trên sự

phân tích từ thực tiễn xét xử thông qua các bản án. Đồng thời, tác giả cịn có bài viết
trên tạp chí về “Thời điểm hợp đồng tặng cho có hiệu lực ở Việt Nam” đăng trên tạp
chí Tịa án nhân dân năm 2009. Bài viết đưa ra những vấn đề còn vướng mắc liên quan
đến quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho.
Bài viết “Hiệu lực của chấp nhận giao kết hợp đồng theo BLDS năm 2005-Nhìn
từ góc độ so sánh” của tác giả Ngô Huy Chương được đăng trên tạp chí nghiên cứu lập
pháp số 24/2010. Một phần trong bài viết này, tác giả đã tiến hành phân tích quy định
thời điểm giao kết của BLDS năm 2005 so với quy định của pháp luật một số nước để
đưa ra một số nhận định và đánh giá đối với quy định tại Điều 404 năm BLDS Việt
Nam.
Năm 2011, luận án của NCS Lê Minh Hùng với đề tài: “Hiệu lực của hợp đồng
theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Trong luận án này, tác giả đã dành một
chương để đề cập đến thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của BLDS
năm 2005. Có thể nói, đây là một cơng trình nghiên cứu phân tích một cách rất chi tiết
về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Đồng thời, tác giả đã đưa ra giải pháp cụ thể để hoàn thiện Điều 404 và Điều 405
BLDS năm 2005.
Với luận văn cử nhân “Giao kết hợp đồng bằng văn bản theo quy định của pháp
luật hiện hành- những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả Đặng Thị Diệu Vân đã có
những phân tích về quy định thời điểm giao kết hợp đồng thơng qua hình thức giao kết
hợp đồng bằng văn bản.
Trang 2


Tác giả Phạm Văn Tuyết có bài viết “Các thời điểm trong hợp đồng dân sự”
đăng trên Tạp chí Luật học số 5/2011. Với bài viết này, tác giả đã lý giải một số vấn đề
lý luận cơ bản liên quan đến thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Từ đó, đưa ra một số đóng góp nhằm hồn thiện các quy định trên.
Mặc dù có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng theo quy định của BLDS năm 2005”, nhưng có thể thấy, những

cơng trình này chưa phân tích đề tài trên như một cơng trình nghiên cứu độc lập. Các
tác giả đều tập trung nghiên cứu ở một khía cạnh hoặc theo một loại hợp đồng cụ thể
hay đề cập về đề tài thơng qua một phần trong cơng trình nghiên cứu của mình. Hơn
nữa, vẫn cịn rất nhiều quan điểm tồn tại xung quanh quy định của BLDS năm 2005 về
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Vì thế, tác giả thực sự muốn tìm hiểu, nghiên cứu
một cách hệ thống về đề tài này, để có thể đưa ra những đánh giá cũng như giải pháp
của bản thân góp phần hoàn thiện một trong những chế định quan trọng của pháp luật
hợp đồng.
3.

Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của BLDS năm 2005 liên quan

đến thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Đồng thời, có sự liên hệ với những quy định
của pháp luật chuyên ngành và pháp luật nước ngoài.
Tác giả tập trung nghiên cứu đề tài trong phạm vi xem xét những bất cập phát
sinh trên thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu tác giả mong muốn đạt được thơng qua nghiên cứu đề tài “thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của BLDS năm 2005” là:
Phân tích những quy định của BLDS năm 2005 liên quan đến thời điểm có hiệu
4.

lực của hợp đồng. Qua đó, thấy được những bất cập cịn tồn tại trong những quy định
này.
Tìm hiểu về thực tiễn xét xử thông qua các bản án cũng như báo cáo trong
cơng tác ngành Tư pháp để dưới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật, nhận thấy những
vướng mắc đang tồn tại.
Nêu lên được nguyên nhân của những bất cập trên. Từ đó, kiến nghị những giải
pháp phù hợp.

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Trang 3


Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
như phương pháp phân tích, tổng hợp, sưu tầm, bình luận, so sánh,… Tuy nhiên, để đạt
được kết quả tốt nhất, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phối hợp các
phương pháp trên. Chẳng hạn, tác giả kết hợp phương pháp phân tích, bình luận và so
sánh để đưa ra những nhận định, đánh giá các quy định của BLDS về thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng.
6.

Bố cục của đề tài
Đề tài gồm có hai chương:

Chƣơng 1: Khái quát về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định
của BLDS năm 2005
Chương này tác giả tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận về thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng theo quy định của BLDS như khái niệm, căn cứ xác định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng và ý nghĩa. Đồng thời, tác giả cịn tiến hành so sánh
quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo BLDS năm 2005 với BLDS năm
1995 và pháp luật nước ngồi để có cái nhìn khái quát nhất về mặt lý luận của đề tài
đang nghiên cứu.
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng theo BLDS năm 2005 và một số kiến nghị
Từ những vấn đề lý luận ở chương 1, tác giả nêu những bất cập còn tồn tại trong
quy định của BLDS năm 2005 về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, tiến hành phân

tích chúng trên cơ sở thực tiễn giải quyết tranh chấp. Qua đó, đưa ra một số kiến nghị
nhằm hồn thiện quy định của BLDS về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.

Trang 4


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC
CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNHCỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2005
1.1.

Khái niệm thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự. Trong cuộc sống, chúng ta thường

thực hiện rất nhiều loại giao dịch này, từ những hợp đồng có giá trị rất nhỏ như mua
một bó rau hay bán một con vịt đến những hợp đồng có giá trị lớn như hợp đồng mua,
bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Có thể nói, hợp đồng là cơng cụ hữu hiệu
giúp các chủ thể đạt được những lợi ích mà họ mong muốn. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ
đáp ứng nguyện vọng của chủ thể một cách đầy đủ nhất khi và chỉ khi thỏa thuận trong
hợp đồng được thực hiện trên thực tế. Ví dụ, người bán hàng nhận được tiền từ việc
bán hàng cho khách, người mua thì có thể sở hữu được món hàng mình mong muốn.
Để đạt được điều này thì trước tiên, hợp đồng phải có hiệu lực. Hiệu lực của hợp đồng
sẽ bắt đầu tại một thời điểm hay gọi là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
BLDS năm 2005 không đưa ra khái niệm thế nào là thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng. Điều 405 BLDS chỉ quy định “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu
lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác”. Điều luật này cho biết các thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhưng
không thể hiện một cách khái quát nội dung thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Vì vậy,
một ý kiến đã nhận xét “sự ngắn gọn quá mức của điều luật đã làm nó thiếu những
thơng tin cần thiết”1.

Theo Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Thời điểm là khoảng thời gian cực ngắn
được hạn định một cách chính xác, coi như một điểm trên trục thời gian, ví dụ ở thời
điểm 9 giờ 30 phút”2. Hợp đồng có hiệu lực được định nghĩa “là giá trị pháp lý của hợp
đồng làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên và giá trị
pháp lý ràng buộc các bên phải tuân thủ và nghiêm túc thực hiện hợp đồng” 3. Bên cạnh
đó, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
1

Lê Minh Hùng, Nghiên cứu tổng quát về những bất cập và định hướng hoàn thiện các quy định chung về hợp
đồng trong Bộ luật dân sự năm 2005, tài liệu Hội thảo quốc tế sửa đổi Bộ luật dân sự Việt nam năm 2005 và kinh
nghiệm nước ngoài, 2013, tr.174.
2
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr. 956.
3
Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình pháp luật Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, 2013, tr.246.

Trang 5


như “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là mốc để xác định thời điểm khởi lưu của
hiệu lực hợp đồng.”4 hay “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm mà kể từ
đó các bên trong hợp đồng buộc phải thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết” 5. Những ý
kiến này đều có điểm chung là khi xem xét thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chính
là lúc các bên trong hợp đồng chịu sự ràng buộc với những thỏa thuận mà họ đã thống
nhất.
Về mặt pháp lý, để một hợp đồng được xác lập, thỏa thuận của các bên phải
tuân thủ những quy định của pháp luật về hợp đồng. Vì thế, thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng cũng chính là thời điểm pháp luật thừa nhận hợp đồng đó. Đồng thời, đánh
dấu sự ràng buộc của hợp đồng đối với các bên. Có thể dẫn một ví dụ như sau: Ngày

15/01/2014, A và B thỏa thuận về việc A sẽ chuyển nhượng cho B 500m2 quyền sử
dụng đất. Hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng bằng văn bản và cùng thỏa thuận
ngày 01/02/2014 là ngày hợp đồng có hiệu lực. Theo đó, ngày 01/02/2014, A giao giấy
tờ về quyền sử dụng 500m2 đất của mình cho B. B cũng tiến hành trồng hoa màu trên
mảnh đất đã nhận chuyển nhượng được từ A. Tuy nhiên, Điều 692 Bộ luật Dân sự quy
định: “Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai”. Khoản 3 Điều 188 của Luật Đất đai
2013 quy định: “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ
quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”. Xét ví
dụ trên thấy rằng, hợp đồng của A và B chỉ được lập bằng văn bản, chưa công chứng,
chứng thực và cũng khơng đăng ký vào sổ địa chính. Đối chiếu với quy định tại Điều
122 BLDS năm 2005 thì hợp đồng của A và B chưa đáp ứng đủ điều kiện để hợp đồng
có hiệu lực. Mặc dù trên thực tế, A và B đã thực hiện đúng như thỏa thuận với nhau từ
ngày 01/02/2014. Hai bên đã ràng buộc mình vào thỏa thuận để thực hiện hợp đồng,
nhưng pháp luật vẫn chưa thừa nhận thời điểm hai bên đã thỏa thuận là thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng. Vì thế, hợp đồng chưa có hiệu lực do nó chưa tạo ra sự ràng
buộc pháp lý.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời
điểm hợp đồng có giá trị pháp lý, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự và ràng buộc các bên phải tuân thủ và nghiêm túc thực hiện hợp đồng.
4

Lê Minh Hùng, Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sỹ, năm 2011, tr.85.

5

Phạm Văn Tuyết, “Các thời điểm trong hợp đồng dân sự”, Tạp chí Luật học số 5/2011, tr.50.

Trang 6



Qua định nghĩa trên, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng thể về khái niệm thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, khi muốn xác định thời điểm có hiệu lực của những
hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể thì cần phải dựa vào các thời điểm được quy
định trong BLDS năm 2005.
1.2. Các thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005
Theo Điều 405 BLDS năm 2005 thì: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có
hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác”. Điều luật này đã thể hiện khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác định dựa trên ba thời điểm sau đây:
+Thời điểm hợp đồng được giao kết;
+ Thời điểm do các bên thỏa thuận;
+ Thời điểm theo quy định của pháp luật.
1.2.1. Thời điểm giao kết
Thời điểm giao kết là một trong ba thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Để xác
định thời điểm giao kết là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì cần có hai điều kiện.
Điều kiện thứ nhất, các bên khơng có thỏa thuận khác hay pháp luật khơng có quy định
khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mà các bên đã giao kết 6. Điều kiện thứ hai,
là hợp đồng phải được giao kết hợp pháp. Hiện nay, BLDS năm 2005 chưa có một quy
định rõ ràng về hợp đồng được giao kết hợp pháp. Về mặt pháp lý, hợp đồng là một
dạng của giao dịch dân sự. Vì vậy, khi xem xét hợp đồng có được giao kết hợp pháp có
thể dựa vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 122
BLDS năm 20057: “1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:a)
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của
giao dịch khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người
tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”.
Để hợp đồng có hiệu lực thì cần đáp ứng những điều kiện về năng lực chủ thể

giao kết hợp đồng là phải có năng lực hành vi dân sự; mục đích, nội dung của hợp
6

Đối với vấn đề này, tác giả sẽ đi nghiên cứu sâu ở những phần 1.2.1 và 1.2.3.
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia
TP.HCM, 2007, tr.341: “Tuy nhiên, thế nào là hợp đồng được giao kết hợp pháp? Các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng đã đề cập trong BLDS lần đầu trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và được phân tích
dưới đây”.
7

Trang 7


đồng không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội; người tham gia hợp đồng tự
nguyện trong giao kết và đáp ứng yêu cầu hình thức khi pháp luật quy định và khi đáp
ứng những điều kiện này thì hợp đồng được giao kết hợp pháp. Như vậy, “kể từ thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng giao kết và nếu vào thời điểm đó mà hợp đồng thỏa
mãn các điều kiện về hiệu lực hợp đồng, thì hợp đồng có giá trị ràng buộc các bên nếu
khơng có thỏa thuận khác”.8
Giao kết hợp đồng là bước đầu tiên trong quá trình xác lập quan hệ hợp đồng.
BLDS năm 2005 không đưa ra định nghĩa về giao kết hợp đồng, nên có thể xem xét
định nghĩa này theo Từ điển luật học “Giao kết hợp đồng là việc các bên chủ thể bày tỏ
ý chí với nhau để cùng xác lập hợp đồng thông qua sự bàn bạc, trao đổi, thương lượng
với nhau theo các nguyên tắc và trình tự do luật định nhằm xác lập, thay đổi chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự” 9. Để hợp đồng được giao kết thì cần trải qua hai bước: đề
nghị giao kết và chấp thuận đề nghị giao kết. Việc giao kết hợp đồng sẽ được xác định
ở thời điểm cụ thể “là thời điểm hợp đồng được coi là đã giao kết xong. Tức là vào
thời điểm hợp đồng được giao kết, các bên đã hoàn thành các trình tự của quá trình
giao kết hợp đồng và đi đến những thỏa thuận thống nhất”.10 Điều 404 BLDS năm
2005 đã quy định các thời điểm hợp đồng được giao kết như sau: “1. Hợp đồng dân sự

được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết; 2. Hợp
đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề
nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết; 3. Thời
điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung
của hợp đồng; 4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng
ký vào văn bản”.
1.2.2.1. Thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết
Theo như quy định khoản 1 Điều 404 BLDS năm 2005 thì thời điểm giao kết
hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết. Tuy
nhiên, nội dung của trả lời chấp nhận giao kết này phải là sự chấp nhận toàn bộ nội
8

Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng, Sdđ, tr.388.
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb. Khoa học pháp lý- Nxb. Từ điển bách khoa, 2006,
tr.276.
10
Đặng Thị Diệu Vân, Giao kết hợp đồng bằng văn bản theo quy định của pháp luật hiện hành- những vấn đề lý
luận và thực tiễn- khóa luận tốt nghiệp cử nhân, năm 2012, tr.11.
9

Trang 8


dung đề nghị của bên đề nghị. Quy định về thời điểm giao kết đã thể hiện, BLDS Việt
Nam cũng như một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu âu lục địa, xem hợp đồng
được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết.
Trong khi đó, các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh-Mỹ theo “thuyết tống phát”- coi
thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng gửi
chấp nhận đề nghị đi. Chẳng hạn, Điều 526 BLDS Nhật Bản quy định: “Hợp đồng
được ký kết giữa những người vắng mặt có hiệu lực từ thời điểm thông báo chấp nhận

đã được gửi đi”. Ví dụ, ngày 5/1/2014, A gửi đề nghị bán cho B một lô hàng. Ngày
10/1/2014, B gửi thư qua bưu điện cho A về việc đồng ý mua lô hàng mà A đã đề nghị.
Ngày 13/1/2014, A mới nhận được thư chấp nhận của B. Theo quy định của BLDS
năm 2005 thì thời điểm giao kết là ngày 13/1/2014, đây là một quy định phù hợp vì
việc áp dụng nguyên tắc “nhận” thích hợp hơn so với nguyên tắc “gửi” là do rủi ro
trong quá trình truyền đạt thông tin thường xảy ra đối với người nhận hơn là người đưa
ra đề nghị. Đối với vấn đề này, một chuyên gia đã nhận định về quy định thời điểm
giao kết này “BLDS năm 2005 xác định thời điểm giao kết hợp đồng trên cơ sở công
nhận hiệu lực của cam kết, thỏa thuận giữa các bên, không phụ thuộc vào hình thức,
thủ tục của hợp đồng. Xuất phát từ đó, BLDS quy định nguyên tắc chung đó là hợp
đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết”.11
Như vậy, các bên giao kết có quyền lựa chọn bất kỳ hình thức giao kết nào xem là phù
hợp để tiến hành giao kết hợp đồng vì “hình thức của hợp đồng được hiểu là phương
thức ký kết, phương tiện ghi nhận nội dung thỏa thuận của các bên. Nó có thể là thủ tục
ký kết hợp đồng hoặc hình thức thể hiện thỏa thuận của các bên”.12 Tuy nhiên, quy
định thời điểm giao kết hợp đồng dựa trên hình thức đơi khi đem lại kết quả không như
mong muốn.
1.2.2.2. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói
Khoản 3 Điều 404 đã quy định thời điểm giao kết bằng lời nói là thời điểm các
bên đã thỏa thuận về nội dung hợp đồng. Tuy nhiên, khi nào thì đã thỏa thuận nội dung
của hợp đồng. Điều 402 BLDS năm 2005 đã đưa ra bảy nội dung cơ bản của hợp đồng.
Ngoài bảy nội dung này, hợp đồng có thể thỏa thuận thêm những nội dung khác,
“nhưng có điều lưu ý là, quy định tại Điều 402 BLDS năm 2005 chỉ mang tính hướng
11
12

Đinh Trung Tụng (chủ biên), Bình luận những nội dung mới của BLDS năm 2005, Nxb. Tư pháp, 2005, tr. 62.
Phạm Hồng Giang, “Ảnh hưởng điều kiện hình thức hợp đồng đến hiệu lực hợp đồng”, Tạp chí Nhà nước &

Pháp luật số 3/2007, tr.47.


Trang 9


dẫn thuần túy mà thôi”13. Như vậy, khi thỏa thuận xong tất cả các nội dung thì hợp
đồng mới có hiệu lực hay chỉ khi đã thỏa thuận các nội dung các bên cho là cần thiết.
Cách diễn đạt ở khoản 3 Điều 404 sẽ khó thống nhất về cách hiểu. Nhìn lại khoản 2
Điều 14 của Pháp lệnh hợp đồng 1991 đã quy định cụ thể hơn BLDS năm 2005: “Thời
điểm giao kết hợp đồng miệng là thời điểm các bên thoả thuận về nội dung chủ yếu của
hợp đồng”. Pháp lệnh này đưa ra thời điểm giao kết hợp đồng là khi thỏa thuận về nội
dung chủ yếu chứ không phải thỏa thuận nội dung một cách chung chung như BLDS
năm 2005. Có thể làm rõ vấn đề này thơng qua ví dụ sau: Bình có ý định bán một con
bị, Nam biết được và hẹn Bình gặp để xem bò và thỏa thuận. Ngày 1/2/2014, hai bên
gặp nhau, Nam đồng ý mua con bị của Bình với giá 15 triệu đồng. Ngày 5/2/2014,
Nam gọi điện cho Bình để hỏi chi tiết về việc giao tiền và nhận bò. Trong trường hợp
này thời điểm giao kết hợp đồng là ngày 1/2/2014 khi các bên thống nhất mua bán con
bò hay ngày 5/2/2014 khi các bên trao đổi chi tiết về vấn đề thực hiện hợp đồng. Thiết
nghĩ, thời điểm giao kết hợp đồng giữa Bình và Nam là ngày 1/2/2014. Ngày các bên
thỏa thuận xong những nội dung cần thiết đối với các bên để giao kết hợp đồng. Theo
như một quan điểm nhận định về sự quan trọng của nội dung chủ yếu: “Nếu như chỉ
thiếu một vài điều khoản tại Điều 402 BLDS năm 2005 nhưng điều khoản đó là thuộc
nội dung chủ yếu của hợp đồng (như điều khoản về đối tượng hợp đồng chẳng hạn) thì
khơng thể hình thành hoặc giao kết hợp đồng”14. Vì vậy, thời điểm giao kết hợp đồng
bằng lời nói nên được xem là thời điểm các bên thỏa thuận nội dung chủ yếu của hợp
đồng theo ý kiến của một chuyên gia “khi các bên chưa nói chi tiết về phương thức cụ
thể của việc thực hiện hợp đồng và các phương thức này có pháp luật quy định thì coi
như hợp đồng đã được giao kết tại thời điểm các bên đã thỏa thuận những nội dung cơ
bản của hợp đồng chứ không phụ thuộc vào thời điểm các bên nêu chi tiết các phương
thức thực hiện hợp đồng”15.
1.2.2.3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản

Khi giao kết hợp đồng bằng văn bản thì thời điểm giao kết là thời điểm bên sau
cùng ký vào văn bản (khoản 4 Điều 404). Tuy nhiên, quy định tại khoản 4 Điều 404 là
không rõ ràng dẫn đến khi áp dụng sẽ có hai cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thứ
13

Nguyễn Ngọc Khánh, “Những điểm mới cơ bản về hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2005”, Tạp chí Kiểm
sát số/2006, tr.22.
14
Nguyễn Ngọc Khánh, Sdđ, tr.22.
15

Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. CTQG, 2011, tr.22.

Trang 10


nhất, thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản chỉ được áp dụng với trường hợp mà
quy định pháp luật bắt buộc loại hợp đồng đó phải lập thành văn bản. Điều này có
nghĩa các loại hợp đồng mà hình thức khơng bắt buộc lập thành văn bản thì không
dùng điều khoản này để xác định thời điểm giao kết hợp đồng. Ví dụ, hợp đồng thuê
nhà ở dưới 6 tháng phải lập thành văn bản. Trong trường hợp này, thời điểm nào bên
sau cùng ký vào hợp đồng thuê nhà sẽ được xem là thời điểm giao kết hợp đồng. Cách
hiểu thứ hai, không phân biệt loại hợp đồng có bắt buộc bằng văn bản hay khơng, mà
phụ thuộc vào hình thức của lời đề nghị do người đề nghị đưa ra. Nếu người đề nghị
đưa ra đề nghị bằng văn bản cho người được đề nghị, thì hợp đồng được giao kết vào
thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. Tuy nhiên, xét với thực tế thì cách hiểu này
khơng hợp lý. Bởi vì, đơi khi bên đưa ra đề nghị bằng văn bản. Ngược lại, người nhận
được đề nghị có thể vì sự thuận tiện đã thể hiện sự chấp nhận bằng một cuộc điện thoại
thể hiện sự chấp nhận giao kết của mình mà không phải trả lời bằng văn bản cho bên
đề nghị. Hơn nữa, có thể bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị dưới hình thức

bằng văn bản như qua email hay tin nhắn trên điện thoại mà không phải là ký vào văn
bản do bên đề nghị đưa ra. Nếu đối chiếu với khoản 4 Điều 404 thì trong trường hợp
này, hợp đồng chưa được giao kết. Mặc dù, ý chí của hai bên đã thống nhất trong việc
giao kết hợp đồng. Trong khi khoản 1 Điều 404 khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp
nhận đề nghị thì từ thời điểm đó hợp đồng được giao kết. Điều này sẽ tạo nên sự mâu
thuẫn trong cùng một Điều luật.
Hiện nay, việc đề nghị, trao đổi, thỏa thuận giữa các chủ thể thường thông qua
các phương tiện điện tử hiện đại như fax, email, tin nhắn,… Bởi vì, có thể khoảng cách
các bên rất xa nhau, để tiết kiệm chi phí và thời gian việc giao kết thông qua các
phương tiện điện tử này là rất phổ biến. Loại giao kết hợp đồng này rất đặc thù theo
quy định của luật chuyên ngành là Luật giao dịch điện tử 2005. Tuy nhiên, Điều 404
BLDS năm 2005 lại không đề cập đến thời điểm giao kết của hợp đồng được giao kết
bằng phương tiện điện tử. Điều 36 Luật Giao dịch điệu tử 2005 quy định: “trong giao
kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và
chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thơng qua thông điệp dữ liệu”.
Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu
có giá trị pháp lý như thơng báo bằng phương pháp truyền thống. Thời điểm nhận
thông điệp dữ liệu được quy định: “Trường hợp người nhận đã chỉ định một hệ thống
thơng tin để nhận thơng điệp dữ liệu thì thời điểm nhận là thời điểm thông điệp dữ liệu
Trang 11


nhập vào hệ thống thông tin được chỉ định; nếu người nhận không chỉ định một hệ
thống thông tin để nhận thơng điệp dữ liệu thì thời điểm nhận thơng điệp dữ liệu là thời
điểm thơng điệp dữ liệu đó nhập vào bất kỳ hệ thống thông tin nào của người nhận” 16.
Do đó, thời điểm nhận thơng điệp dữ liệu về đồng ý giao kết hợp đồng thì thời điểm
nhận thơng điệp dữ liệu đó là thời điểm thơng điệp dữ liệu nhập vào hệ thống thông tin
do người nhận chỉ định hoặc thời điểm nhập vào bất kỳ hệ thống thơng tin nào của
người nhận khi khơng có chỉ định.
1.2.2.4. Thời điểm giao kết trong trường hợp khác

Khoản 2 Điều 404 cũng chấp nhận hợp đồng được giao kết, khi hết thời hạn trả
lời mà bên được đề nghị giao kết vẫn im lặng thì sự im lặng này cũng là thể hiện đồng
ý giao kết hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận im lặng là đồng ý. Vấn đề đặt ra trong
trường hợp này thời điểm giao kết hợp đồng là khi nào? Khoản 1 Điều 460 BLDS năm
2005 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên mua được dùng thử vật mua
trong một thời hạn gọi là thời hạn dùng thử, trong thời hạn dùng thử, bên mua có thể
lời mua hoặc không mua; nếu hết thời hạn dùng thử mà bên mua khơng trả lời thì coi
như đã chấp nhận mua theo các điều kiện đã thỏa thuận trước khi nhận vật dùng thử”.
Như vậy, có thể suy luận nếu hai bên thỏa thuận thì khi hết thời hạn trả lời mà bên
được đề nghị im lặng coi như là hợp đồng được giao kết. Thời điểm kết thúc trả lời
chấp nhận là thời điểm giao kết hợp đồng. Ngược lại, hai bên khơng có thỏa thuận thì
khi hết thời hạn trả lời chấp nhận mà bên đề nghị vẫn im lặng thì hợp đồng khơng được
giao kết.
Trên thực tế, có trường hợp khi được đề nghị việc giao kết hợp đồng, bên nhận
được đề nghị vẫn im lặng, nhưng vẫn thể hiện ý định giao kết của mình qua việc thực
hiện hành vi cụ thể như gửi hàng, thanh toán tiền… theo lời đề nghị đưa ra. Nếu xem
xét quy định của Điều 404 BLDS năm 2005 thì trong trường hợp này, không thể xem
hợp đồng được giao kết, do không phải là một trong các thời điểm giao kết hợp đồng.
Đây thực sự là thiếu sót của BLDS năm 2005 bởi giao kết hợp đồng là phương tiện
giúp các bên trao đổi lợi ích. Các bên có thể thơng qua bất cứ hình thức gì để đạt được
sự thống nhất trong thỏa thuận mà khơng xâm phạm lợi ích của bên nào. Quy định thời
điểm giao kết trong trường hợp thể hiện sự giao kết thông qua hành vi của bên nhận đề
nghị sẽ giúp ghi nhận giá trị pháp lý trong giao kết của các bên. Ví dụ: A đưa ra đề
nghị qua mail cho B về việc đặt mua của B 5 tấn cà chua với giá 8 triệu đồng/ tấn. B
16

Điều 19 Luật Giao dịch điện tử 2005.

Trang 12



nhận được lời đề nghị của A nhưng vẫn im lặng không trả lời cho A biết đồng ý hay
không. Tuy nhiên, vẫn tiến hành chở đến trước cho B 1 tấn cà chua theo địa điểm mà A
đã yêu cầu. Sau đó, giá thị trường thay đổi, cà chua tăng đến 16 triệu/ tấn. Vì thế, khi A
yêu cầu B giao 4 tấn cà chua cịn lại thì B từ chối, với lý do hợp đồng chưa được giao
kết. B khơng có trách nhiệm giao hàng cho A. Bởi vì, B chưa từng thơng báo cho A về
việc đồng ý giao kết với đề nghị của A đưa ra. Trong trường hợp này, nếu căn cứ vào
Điều 404 BLDS năm 2005 sẽ thiếu cơ sở pháp lý xác định thời điểm giao kết hợp đồng
giữa A và B do Điều 404 không dự liệu thời điểm giao kết của hợp đồng khi việc giao
kết được thực hiện bằng hành vi cụ thể. Như vậy, việc giao kết hợp đồng của A và B
khơng tồn tại. B khơng có nghĩa vụ giao 4 tấn cà chua còn lại cho A. Giữa A và B
không tồn tại một hợp đồng nào để ràng buộc trách nhiệm của B. Từ đó, quyền lợi cho
A sẽ không được đảm bảo trong khi việc giao hàng của B đã chứng tỏ B muốn giao kết
hợp đồng với A nhưng sau đó thay đổi ý định vì giá mặt hàng thay đổi. Nếu xem xét
Điều 401 khi quy định về hình thức hợp đồng, Điều luật này cho phép hợp đồng có thể
được giao kết bằng lời nói, văn bản và trong đó có hành vi cụ thể. Điều 404 quy định
về thời điểm giao kết, lại khơng quy định thời điểm đối với hình thức giao kết này
trong khi vẫn quy định thời điểm giao kết của các hình thức như giao kết bằng lời nói,
văn bản. Từ đó cho thấy, tính thiếu chặt chẽ giữa các Điều luật trong BLDS năm 2005.
Thiết nghĩ, Điều 404 BLDS nên bổ sung quy định này để phù hợp với thực tiễn cuộc
sống và với thông lệ quốc tế.17
Với BLDS năm 2005, thời điểm hợp đồng có hiệu lực bị ràng buộc bởi điều
kiện là hợp đồng “được giao kết hợp pháp” và như đã phân tích ở trên thì hợp đồng
giao kết đáp ứng những điều kiện tại Điều 122. BLDS năm 2005 không quy định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng đối với hợp đồng giao kết nhưng chưa hợp pháp, sau
đó, lại đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định. Như vậy, thời điểm
hợp đồng có hiệu lực là vào thời điểm giao kết hay vào thời điểm đáp ứng đủ điều kiện
của một giao dịch hợp pháp. Chẳng hạn, với hợp đồng cần tuân thủ những điều kiện
bắt buộc như khoản 2 Điều 464 BLDS năm 2005: “Hợp đồng trao đổi tài sản phải lập
thành văn bản có cơng chứng, chứng thực hoặc đăng ký nếu pháp luật có quy định

khác”. Hiện nay, có hai quan điểm về vấn đề này: Theo quan điểm thứ nhất, sau khi
đáp ứng điều kiện để hợp đồng hợp pháp “hợp đồng có hiệu lực một cách “hồi tố” từ
17

Quy định về thể hiện sự chấp nhận thông qua hành vi cụ thể đã được quy định trong Bộ nguyên tắc Unidroit,
Công ước Viên 1980.

Trang 13


thời điểm giao kết: ví dụ, các bên ký hợp đồng văn bản tay ngày 1-4 và công chứng
theo yêu cầu của pháp luật ngày 8-4 thì từ ngày 8-4 hợp đồng được giao kết hợp pháp
nhưng một khi được giao kết hợp pháp thì hợp đồng có hiệu lực ngày 1-4”18. Quan
điểm thứ hai cho rằng, “Đối với dạng hợp đồng này mà các bên thỏa thuận sẽ yêu cầu
cơng chứng chứng nhận vào hợp đồng thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sẽ được
xác định theo khoản 3 Điều 4 Luật Công chứng (...) theo khoản 3 Điều 4 Luật Cơng
chứng thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán nhà ở không phát sinh từ thời
điểm giao kết hợp đồng mà được xác định kể từ khi các bên hoàn thành thủ tục cơng
chứng”19. Theo quan điểm này, dù hợp đồng đó là của các bên tự thỏa thuận về việc
công chứng, chứng thực hay pháp luật bắt buộc việc giao kết phải cơng chứng, chứng
thực thì thời điểm giao kết hợp đồng không “hồi tố” về thời điểm giao kết như quan
điểm thứ nhất mà hiệu lực hợp đồng sẽ phát sinh theo khoản 3 Điều 4 Luật Công
chứng. Với quy định của khoản 3 Điều 4 Luật Cơng chứng thì ngày cơng chứng viên
ký và đóng dấu vào hợp đồng là ngày hợp đồng đó có hiệu lực nhưng một vấn đề cần
được làm rõ đó là hiệu lực ở đây là hiệu lực gì? Hiệu lực pháp lý của một văn bản công
chứng hay là hiệu lực của một hợp đồng tạo nên sự ràng buộc pháp lý cho các bên. Qua
đó cho thấy, quy định của pháp luật khơng rõ ràng dẫn đến những quan điểm khác
nhau trên thực tế. Vì vậy, để thống nhất trong việc đưa ra thời điểm trong trường hợp
này cần có quy định mang tính bao quát cao và cụ thể hơn.
Như vậy, BLDS năm 2005 đã dành riêng một Điều luật để quy định về thời

điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, qua những phân tích trên đây, có thể thấy, những
quy định về thời điểm giao kết- là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vẫn cịn nhiều
thiếu sót. Điển hình như chưa dự liệu được thời điểm giao kết, trong trường hợp trả lời
chấp nhận giao kết bằng hành vi cụ thể hoặc thời điểm giao kết là lúc nào khi điều kiện
của hợp đồng giao kết hợp pháp xảy ra sau khi các bên đi đến thống nhất, bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận đề nghị từ bên được đề nghị. Ngoài ra, sự chưa rõ ràng
trong quy định về thời điểm của hợp đồng giao kết bằng lời nói hay bằng văn bản dẫn
đến những cách hiểu không được nhất quán. Từ những bất cập này nên yêu cầu sửa
đổi, bổ sung Điều 404 BLDS là thật sự cần thiết.

18

Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013,
tr.243.
19
Huỳnh Văn Nơng, “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng”, dần nguồn từ
ngày truy cập 20/5/2014.

Trang 14


Ngoài thời điểm giao kết hợp đồng, thời điểm do các bên thỏa thuận cũng là
một thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy, việc xem xét, tìm hiểu về thời điểm
này là một phần rất quan trọng.
1.2.2. Thời điểm do các bên thỏa thuận
Một trong những nguyên tắc được BLDS đưa ra là các bên có thể tự do thỏa
thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Dựa trên nguyên
tắc này, Điều 405 BLDS năm 2005 đã quy định các bên có thể thỏa thuận thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng, chỉ trừ một số trường hợp không được thỏa thuận mà phải tuân
theo quy định của pháp luật. Thơng thường các bên thỏa thuận hợp đồng có hiệu lực ở

những thời điểm sau tùy từng trường hợp:


Hợp đồng có hiệu lực ở một thời điểm nhất định. Trong trường hợp này,

các bên có thể thỏa thuận với nhau một thời điểm cụ thể để hợp đồng có hiệu lực và
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ. Ví dụ: A bán cho B một cái máy tính với giá 15 triệu
đồng. A và B thỏa thuận hợp đồng sẽ có hiệu lực vào ngày 8/8/2014. Từ thời điểm này,
A và B sẽ chịu sự ràng buộc của hợp đồng. A sẽ phải giao máy tính cho B, đồng thời,
B phải thanh tốn 15 triệu đồng cho A.

Hợp đồng có hiệu lực vào một thời điểm sau thời điểm giao kết. Các bên
có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sau thời điểm giao kết. Theo nội
dung của Điều 405 BLDS quy định thì thời điểm do các bên thỏa thuận sẽ là thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng. Có thể làm rõ qua ví dụ sau: Ngày 9/6/2014, Hoa gửi thư
qua đường bưu điện cho Lan với đề nghị chào bán một lô hàng mỹ phẩm Hàn Quốc,
Lan nhận được thư và gửi thư phản hồi cho Hoa về việc chấp nhận mua lô hàng mỹ
phẩm của Hoa đã chào bán. Ngày 20/6/2014, Hoa nhận được thư của Lan. Tuy nhiên,
vì một số lý do trong vấn đề kinh doanh, nên Lan gọi điện trao đổi với Hoa. Hai bên
thống nhất với nhau hợp đồng hai bên đã giao kết sẽ có hiệu lực vào ngày 28/6/2014.
Qua đó, ngày 20/6/2014 là thời điểm Hoa và Lan đã giao kết hợp đồng, nhưng ngày
28/6/2014 mới là ngày hợp đồng có hiệu lực. Khi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
và thời điểm giao kết khác nhau thì sự khác nhau đó có thể là thời điểm có hiệu lực sau
thời điểm giao kết hoặc thời điểm có hiệu lực trước thời điểm giao kết. Tuy nhiên, sự
thỏa thuận này sẽ dẫn đến nhiều vấn đề. Vấn đề thứ nhất, nếu thỏa thuận sau thời điểm
giao kết thì từ thời điểm hợp đồng giao kết đến trước thời điểm hợp đồng có hiệu lực,
trong khoảng thời gian này hợp đồng chưa có hiệu lực. Như vậy, trách nhiệm ràng
buộc của hợp đồng đối với các bên sẽ như thế nào nếu như có một bên khơng muốn
Trang 15



tiếp tục hợp đồng. BLDS năm 2005 chưa dự liệu vấn đề này. Thiết nghĩ, khi hai bên đã
giao kết hợp đồng là đã cùng nhau trải qua quá trình thương lượng đi đến thống nhất
những nội dung của hợp đồng. Vấn đề còn lại chỉ là chưa tới thời điểm hợp đồng có
hiệu lực. Nguyên tắc chung của giao dịch dân sự là phải thiện chí trong việc xác lập
quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 6 BLDS năm 2005) nên theo quan điểm tác giả đây có
thể là cơ sở để giải quyết trong trường hợp này. Bởi vì, nguyên tắc thiện chí là “buộc
một bên phải quan tâm tới lợi ích của đối tác và nếu chỉ quan tâm đến lợi ích của mình
mà bỏ qua lợi ích của đối tác là không xử sự phù hợp với yêu cầu của thiện chí” 20. Một
số hệ thống luật đã có quy định về trường hợp đối tác tham gia thương lượng hợp đồng
nhưng khơng có ý thức xác lập hợp đồng, trong khi pháp luật nước ta chưa có quy
định, nên chúng ta cần có cơ sở pháp lý giải quyết và nguyên tắc thiện chí là một cơ sở
phù hợp để vận dụng giải quyết trong hoàn cảnh này. Vấn đề thứ hai, thỏa thuận thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm giao kết hợp đồng. Để xác lập một hợp
đồng các bên phải tiến hành thỏa thuận đi đến thống nhất và giao kết hợp đồng, đây là
tiến trình “nguyên thủy” của bất cứ hợp đồng nào. Nếu thỏa thuận thời điểm có hiệu
lực hợp đồng trước thời điểm giao kết sẽ đi ngược lại quá trình này. Bởi vì, hợp đồng
chưa được giao kết thì sao lại kể đến thời điểm hợp đồng có hiệu lực, cụ thể kể từ thời
điểm giao kết hợp đồng thì các bên đã thỏa thuận xong nội dung hợp đồng bao gồm
quyền và nghĩa vụ của các bên đối với hợp đồng đó. Như vậy, khi hiệu lực hợp đồng
xảy ra trước thời điểm giao kết thì cơ sở nào hợp đồng tạo nên sự ràng buộc, bởi nội
dung hợp đồng không tồn tại. Từ sự phân tích trên, thiết nghĩ khơng nên chấp nhận
thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm giao kết. Hiện nay, thực
tế xảy ra một số trường hợp là hợp đồng thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
sau thời điểm thực hiện hợp đồng. Về bản chất, trường hợp này khá tương tự với với
việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm giao kết. Thực hiện
hợp đồng là thực hiện những thỏa thuận đã thống nhất, qua đó mang lại lợi ích cho
nhau. Tuy nhiên, khi hợp đồng có hiệu lực thì mới tạo nên giá trị pháp lý, buộc các bên
trong hợp đồng chịu trách nhiệm cho thỏa thuận của mình. Vậy thì khi hợp đồng có
hiệu lực sau thời điểm thực hiện hợp đồng cơ chế nào sẽ đảm bảo việc thực thi đó. Đặc

biệt, trong trường hợp có một bên trong hợp đồng yếu thế hơn.

Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi có một sự kiện pháp lý xảy ra. Điều này có
nghĩa là ràng buộc hiệu lực của hợp đồng vào những sự kiện pháp lý trong tương lai,
20

Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. CTQG, 2013, tr.162.

Trang 16


để đảm bảo một bên chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình, bên cịn lại thường đưa ra
u cầu hợp đồng chỉ có hiệu lực khi có sự kiện pháp lý xảy ra và thời điểm xảy ra sự
kiện pháp lý đó cũng chính là thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Ví dụ, một hợp đồng thi
cơng cơng trình cho một chủ xây dựng chỉ có hiệu lực nếu chủ xây dựng được ngân
hàng cấp bảo lãnh, trong trường hợp này thời điểm chủ xây dựng được ngân hàng cấp
bảo lãnh cũng là lúc hợp đồng thi công có hiệu lực. 21

Hợp đồng chỉ có hiệu lực tại thời điểm thực hiện điều kiện của bên yêu
cầu. Để hợp đồng có điều kiện phát sinh thì các bên phải thống nhất với nhau về hợp
đồng nhưng sự hình thành hợp đồng còn phụ thuộc vào điều kiện xảy ra trong tương
lai. Ở đây, tất cả đã sẵn sàng nhưng hợp đồng chưa phát sinh vì sự phát sinh của hợp
đồng lệ thuộc vào một yếu tố chưa xảy ra. Theo quy định khoản 1 Điều 125: “Trong
trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự
thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ” và khoản 6 Điều
406 BLDS: “Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định” 22. Đây là những quy định
điển hình của BLDS năm 2005 về hợp đồng có điều kiện. Tuy nhiên, Điều 125 và Điều
406 BLDS có sự mâu thuẫn. Trong khi tiêu đề giao dịch dân sự có điều kiện (hợp đồng
cũng là dạng giao dịch) là giống nhau nhưng nội dung không tương ứng với nhau.

Khoản 1 Điều 125 đề cập giao dịch có điều kiện liên quan đến việc thỏa thuận điều
kiện phát sinh hay hủy bỏ giao dịch. Cịn Điều 406 thì quy định hợp đồng có điều kiện
là điều kiện liên quan đến việc thực hiện hợp đồng mà không phải là điều kiện phát
sinh hay hủy bỏ hợp đồng. Trong khi, hợp đồng phát sinh và thực hiện hợp đồng là
khác nhau. Đối với hợp đồng có điều kiện, đơi khi rất khó xác định thời điểm có hiệu
lực. Chẳng hạn, xác định điều kiện thực hiện hay chưa? Thực hiện thời điểm nào để đi
đến kết luận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng? Hơn nữa, khi điều kiện đã được thực
hiện nhưng giao dịch vẫn phải xem xét đến yếu tố giao kết hợp pháp. Đó là những vấn
đề cần phải đặt ra. Có thể dẫn một ví dụ làm rõ vấn đề này 23: Bà Tao ký hợp đồng mua
bán nhà với vợ chồng ông Phương với thỏa thuận vợ chồng ơng Phương phải nộp tiền
hóa giá nhà, lệ phí trước bạ,… và đồng thời các bên thỏa thuận “khi bà Tao đã làm thủ
tục mua bán cho bên B tại văn phịng cơng chứng nhà nước”. Hội đồng thẩm phán xét
21

Trương Anh Tuấn, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự - phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự-Nxb. Lao
động, 2009, tr.171.
22
Điều 125 quy định gồm có điều kiện làm phát sinh và điều kiện hủy bỏ. Trong phần này tác giả chỉ đề cập tới
điều kiện làm phát sinh hợp đồng.
23
Theo Quyết định số 26/2007/DS-GĐT ngày 12/7/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Trang 17


trường hợp này là hợp đồng có điều kiện. Điều kiện ở đây là bên bán phải được công
nhận là chủ sở hữu tài sản. Tuy nhiên, khi điều kiện xảy ra, bà Tao được Ủy ban nhân
dân thành phố cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thì bà Tao
khơng thực hiện. Cụ thể, bà Tao khơng đến phịng cơng chứng, chứng thực theo thỏa
thuận. Do đó, hợp đồng đã khơng đáp ứng quy định về mặt hình thức nên trong vụ án

này, hợp đồng bị tun vơ hiệu. Qua ví dụ cho thấy, thời điểm điều kiện phát sinh cũng
là lúc xác định hợp đồng các bên bắt đầu tồn tại, nhưng thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng khơng phải lúc nào cũng đồng nhất với thời điểm xảy ra điều kiện. Vì cịn phải
tùy vào hợp đồng của các bên có đáp ứng những quy định của pháp luật yêu cầu về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hay chưa.
Mặc dù, BLDS năm 2005 khi quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng,
đã cho các bên có thể lựa chọn thời điểm mà hợp đồng có hiệu lực. Tuy nhiên, BLDS
khơng dự liệu hết những tình huống có thể xảy ra nên khi các bên có thỏa thuận về vấn
đề này đã dẫn đến một số khó khăn nhất định. Bởi vì, quy định của Điều luật thiếu tính
bao quát cho các trường hợp sẽ xảy ra nên nhiều trường hợp thiếu cơ sở giải quyết.
Chẳng hạn, như “khoảng trống” khi có sự thỏa thuận khác thời điểm giao kết hay các
bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nhưng với loại hợp đồng đó pháp
luật cũng đã có quy định thời điểm hợp đồng có hiệu lực.24
1.2.3. Thời điểm theo quy định của pháp luật
Pháp luật tôn trọng sự tự do trong đời sống dân sự của các chủ thể. Do đó, các
bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tùy theo mong muốn. Tuy
nhiên, “tôn trọng sự tự do của hợp đồng đúng chỗ và giới hạn sự tự do của hợp đồng
cũng đúng chỗ”25. Vì vậy, để đảm bảo lợi ích chung và sự trật tự trong giao lưu dân sự
có một số trường hợp các bên bị giới hạn thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng. Nhìn chung, thời điểm hợp đồng có hiệu lực theo quy định của pháp luật được
xác định tại hai thời điểm sau đây:
Thứ nhất, thời điểm một bên nhận được đối tượng hợp đồng hoặc đối tượng hợp
đồng được chuyển giao. Đối với những hợp đồng được pháp luật quy định một cách
minh thị tại thời điểm một bên trong hợp đồng nhận tài sản từ bên kia hoặc đối tượng
của hợp đồng được chuyển giao thì hợp đồng phát sinh hiệu lực. Có thể thấy, trường
24
25

Vấn đề này sẽ đi sâu ở phần 1.2.3. Thời điểm theo quy định của pháp luật.
Dương Anh Sơn, “Những yêu cầu cần phải được đặt ra khi xây dựng chế định hợp đồng trong BLDS”, Tạp chí


Khoa học pháp lý, số 2/2013, tr.51.

Trang 18


hợp này trong quy định Điều 466 BLDS với hợp đồng tặng cho là động sản thì có hiệu
lực vào thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản. Trong khoản 2 Điều 467 thì đối với
hợp đồng tặng cho bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng có
hiệu lực từ thời điểm chuyển giao tài sản. Bởi vì hợp đồng tặng cho là loại hợp đồng
khơng có tính đền bù nên pháp luật quy định thời điểm có hiệu lực hợp đồng trùng với
thời điểm chuyển giao tài sản hoặc nhận tài sản, để bên tặng cho tài sản có nhiều thời
gian cho quyết định tặng cho tài sản của mình cho người khác. Ngồi ra, BLDS năm
2005 cũng quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực bảo đảm nghĩa
vụ dân sự. Chẳng hạn, hợp đồng cầm cố, Điều 328 BLDS quy định: “Cầm cố tài sản có
hiệu lực từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố”. Điều này có nghĩa là
hợp đồng cầm cố cũng phát sinh hiệu lực từ thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thứ hai, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là khi hoàn tất một thủ tục bắt
buộc. Với trường hợp này, hợp đồng sẽ có hiệu lực tại thời điểm mà các bên trong hợp
đồng hoàn tất một thủ tục do pháp luật quy định. Trong BLDS, có quy định nhiều loại
hợp đồng phải cơng chứng, chứng thực và phải đăng ký như hợp đồng cho thuê nhà ở
trên 6 tháng (Điều 492 Bộ luật Dân sự); Hợp đồng thế chấp các tài sản như: Quyền sử
dụng đất, Quyền sử dụng rừng, Quyền sở hữu rừng trồng, Tàu bay, Tàu biển và các tài
sản khác thế chấp bảo đảm nhiều nghĩa vụ 26; hợp đồng tặng cho bất động sản mà pháp
luật yêu cầu phải đăng ký quyền sở hữu (Điều 467 BLDS) và các hợp đồng khác.
Những hợp đồng có điều kiện hình thức là phải đăng ký, nghĩa là hợp đồng đó chỉ
được xem là hồn thiện về hình thức khi được lập bằng văn bản, được công chứng và
đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. BLDS cũng như Luật Nhà ở và các quy phạm
pháp luật khác khơng có quy định nào trực tiếp xác định thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng dạng này (ngoại trừ quy định tại Điều 692 BLDS). Vì vậy, việc xác định thời

điểm có hiệu lực cho hợp đồng trong các trường hợp trên sẽ gặp nhiều khó khăn khi
khơng biết áp dụng thời điểm do các bên thỏa thuận, công chứng, chứng thực hay là
thời điểm đăng ký. Xem xét trường hợp BLDS quy định cụ thể thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng là thời điểm hoàn tất thủ tục bắt buộc. Chẳng hạn, Điều 467 BLDS năm
26

Khoản 1 Điều 10 của Nghị định 163/2006/NĐ-CP: Giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể
từ thời điểm giao kết, trừ các trường hợp sau đây:
a) Các bên có thoả thuận khác;
b) Cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố;
c) Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu
biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp;
d) Giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng hoặc chứng thực trong trường hợp pháp luật có quy
định.

Trang 19


2005 là một quy định điển hình cho thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật
quy định. Có thể dẫn ví dụ như sau: A lập hợp đồng tặng cho B quyền sử dụng đất với
diện tích 100m2. Hai bên đã lập thành một văn bản, có công chứng, chứng thực. Do hai
bên đã ký vào hợp đồng và hợp đồng đã được công chứng xem như hợp đồng đã được
giao kết, nhưng sau đó, A và B phát sinh mâu thuẫn. A không cho B quyền sử dụng đất
nói trên nữa. B cho rằng mình có quyền nhận tài sản vì hợp đồng đã được ký kết. Tuy
nhiên, theo quy định của BLDS năm 2005 về thời điểm tặng cho động sản, bất động
sản phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm
đăng ký. Cụ thể tại khoản 3 Điều 188 của Luật Đất đai 2013: “Việc chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”. Như vậy, hợp đồng giữa A và B vẫn chưa phát

sinh hiệu lực. Bởi vì, thời điểm đăng ký vào sổ địa chính mới là thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng khơng phải thời điểm ký kết hay thời điểm cơng chứng.
Có thể thấy rằng, hợp đồng có hiệu lực vào những thời điểm khác nhau tùy
thuộc vào từng trường hợp trong những hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, trong ba loại thời
điểm mà hợp đồng có hiệu lực được quy định tại Điều 405 BLDS năm 2005 thì khi có
thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng hay pháp luật có quy định riêng thì
việc xác định thời điểm phải dựa trên hai thời điểm này mà không dựa vào thời điểm
giao kết. Vấn đề đặt ra trong trường hợp các bên vừa thỏa thuận thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng và pháp luật cũng có quy định, thì dựa vào căn cứ nào để xác định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ, A thỏa thuận sẽ cho B 20 triệu đồng vào ngày
sinh nhật của B. Hai bên lập hợp đồng bằng văn bản và thỏa thuận hợp đồng có hiệu
lực vào ngày ký. Sau đó, A và B phát sinh mâu thuẫn, A tun bố khơng cho B 20 triệu
nữa. Trong tình huống này, pháp luật cũng có quy định là hợp đồng tặng cho động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu thì có hiệu lực vào thời điểm bên được tặng cho
nhận tài sản. Như vậy, giữa thời điểm hai bên thỏa thuận là ngày ký hợp đồng và thời
điểm pháp luật quy định là bên được tặng cho nhận tài sản thì thời điểm nào được áp
dụng giải quyết trường hợp này. Hiện nay, có ba quan điểm về vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất, cần phải căn cứ vào thỏa thuận trước bởi nguyên tắc của
BLDS là tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, chỉ khi các bên không thỏa thuận mới áp
dụng quy định của pháp luật. Bởi vì hiện nay, trong BLDS cũng khơng có quy định nào
cấm các bên trong hợp đồng thỏa thuận như vậy.
Trang 20


Quan điểm thứ hai, cần xác định thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
là trước hay sau thời điểm do pháp luật quy định. “Thiết nghĩ, nên cho phép các bên
được thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nhưng không được lùi ngược
về trước, sớm hơn thời điểm giao kết hoặc sớm hơn thời điểm có hiệu lực do pháp luật
quy định”27. Theo quan điểm này, nếu thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
là sau thời điểm pháp luật quy định thì chấp nhận sự thỏa thuận và dựa vào thời điểm

do các bên thỏa thuận để xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Ngược lại, thời
điểm do các bên thỏa thuận trước thời điểm do pháp luật quy định thì xem thỏa thuận
này là vơ hiệu và dựa vào quy định của pháp luật để xác định thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng.
Quan điểm thứ ba, căn cứ vào quy định của pháp luật khi pháp luật có quy định
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dù các bên có thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng là ở một thời điểm khác vì thỏa thuận trong trường hợp này là trái pháp luật
nên không được thừa nhận, bởi lẽ “không cho phép các chủ thể có thỏa thuận khác nên
chỉ trong trường hợp pháp luật vừa có quy định cách xử sự vừa cho phép các bên có
thể thỏa thuận khác thì sự thỏa thuận của các bên mới được thừa nhận” 28.
Về phía tác giả, tác giả cho rằng cả ba quan điểm trên đều dựa trên những cơ sở
lý luận nhất định. Tuy nhiên, để có hiểu đúng vấn đề cần phải xem xét trong tổng thể
các quy định của pháp luật. Vì vậy, tác giả ủng hộ quan điểm thứ ba. Bởi vì Điều 11
BLDS quy định: “xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải tuân theo quy định
của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật”. Mặc dù tôn trọng thỏa thuận của các
chủ thể là nguyên tắc của pháp luật dân sự nhưng chỉ tôn trọng những thỏa thuận tuân
thủ đúng theo quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, khi
pháp luật đã quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng như thời điểm đăng ký
hoặc thời điểm chuyển giao tài sản thì khơng có một quy định nào thể hiện “trừ khi các
bên có thỏa thuận khác”. Điều này có nghĩa là pháp luật đã quy định một cách cụ thể
và cố định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Có thể xem xét khoản 2 Điều 397
BLDS năm 2005 quy định: “khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường
hợp qua điện thoại hoặc qua các phương tiện thơng tin khác thì bên được đề nghị phải
trả lời ngay có chấp nhận hoặc khơng chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác”. Đây là một ví dụ cho trường hợp pháp luật vừa quy định cách xử sự vừa cho
27

Lê Minh Hùng, Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luận án tiến sỹ, 2011,
tr.112.
28

Phạm Văn Tuyết, “Các thời điểm trong hợp đồng dân sự”, Tạp chí Luật học, số 5/2011, tr.53.

Trang 21


×