Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Tư tưởng duy vật, vô thần trong triết hoc tuân tử luận văn t; phan quốc khánh hướng dẫnhạc sĩ 60 22 03 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.55 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

PHẠM ĐÌNH NAM

TƯ TƯỞNG DUY VẬT, VÔ THẦN
TRONG TRIẾT HỌC TUÂN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

PHẠM ĐÌNH NAM

TƯ TƯỞNG DUY VẬT, VÔ THẦN
TRONG TRIẾT HỌC TUÂN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.03.01

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHAN QUỐC KHÁNH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2016




LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng tri ân chân thành và sâu sắc đến TS. Phan Quốc Khánh,
người đã tận tâm, trực tiếp hướng dẫn, truyền đạt và chia sẻ những kiến thức, những
kinh nghiệm quý báu giúp tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý Thầy, Cô giảng dạy Sau đại học chuyên ngành
Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh đã cho tôi những kiến thức nền tảng quý báu trong quá trình học tập.
Xin cảm ơn đội ngũ cán bộ Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp cho
tơi nhiều nguồn tư liệu quý giá.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình, thân hữu và đồng nghiệp ln bên
cạnh động viên, khích lệ tơi trong q trình học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2016
Tác giả

Phạm Đình Nam


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của
TS. Phan Quốc Khánh. Đề tài luận văn không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào
nghiên cứu trước đây.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2016
Tác giả

PHẠM ĐÌNH NAM



Trang 1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
1. Tính cấp thiết của luận văn ................................................................................ 3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... 6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......... 10
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ................................ 11
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ........................................................ 12
6. Kết cấu của luận văn.......................................................................................... 12
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................ 13
Chương 1: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, KHOA HỌC VÀ
XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI KỲ XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DUY VẬT, VÔ THẦN CỦA TUÂN TỬ
1.1. Tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc với việc
hình thành tư tưởng duy vật, vơ thần của Tn Tử .................................................. 13
1.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến quốc ....................... 13
1.1.2. Tình hình chính trị - xã hội thời Xuân Thu - Chiến quốc .................... 18
1.2. Tiền đề khoa học và lý luận thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc với việc hình
thành tư tưởng duy vật, vô thần của Tuân Tử ........................................................... 27
1.2.1. Những thành tựu của khoa học thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc ........ 27
1.2.2. Sự phát triển tư tưởng, lý luận thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc ......... 30
1.3. Sơ lược về tiểu sử và tác phẩm của triết gia Tuân Tử ................................. 44
1.3.1. Đôi nét khái quát về cuộc đời, sự nghiệp của triết gia Tuân Tử .......... 44
1.3.2. Đôi nét khái quát về tác phẩm “Tuân Tử” của triết gia Tuân Tử ...... 48
Kết luận chương 1 .................................................................................................. 53



Trang 2

Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG DUY VẬT , VÔ THẦN CỦA
TUÂN TỬ
2.1. Tư tưởng duy vật, vô thần về bản thể luận .................................................. 58
2.1.1. Những quan niệm của Tuân Tử trong vấn đề “thiên – địa – nhân”. .. 58
2.1.2. Tuân Tử giải quyết mối quan hệ “thiên – địa – nhân” trên lập trường
duy vật, vô thần, nhấn mạnh tư tưởng “nhân định thắng thiên”. ............................ 60
2.2. Tư tưởng duy vật, vô thần trong nhận thức luận và logic .......................... 66
2.2.1. Nhận thức luận trên lập trường duy vật, vô thần ................................. 66
2.2.2. Logic học trên lập trường duy vật, vô thần ........................................... 69
2.3. Tư tưởng duy vật, vô thần về con người, xã hội ........................................... 76
2.3.1. Quan niệm về nguồn gốc và phương pháp cải biến con người trên lập
trường duy vật, vô thần ................................................................................................ 76
2.3.2. Quan niệm về nguồn gốc và phương pháp ổn định, xây dựng xã hội lý
tưởng trên lập trường duy vật, vô thần ...................................................................... 86

2.4. Những giá trị, hạn chế trong tư tưởng duy vật, vô thần ......................... 94
2.4.1. Giá trị lịch sử tư tưởng duy vật, vô thần ............................................... 94
2.4.2. Hạn chế trong tư tưởng duy vật, vô thần ............................................. 104
Kết luận chương 2 ................................................................................................ 106
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................... 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 111


Trang 3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Cùng với Ấn Độ, Trung Quốc được đánh giá là một trong những nước có nền

văn minh rực rỡ, phong phú và đa dạng của phương Đơng nói riêng và của nhân loại
nói chung. Bên cạnh thành tựu của khoa học tự nhiên, của y học, của văn học…
Trung Quốc còn là một trong những trung tâm của nền triết học. Đặc biệt Trung
Quốc thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc xét trong lĩnh vực triết học phát triển rất
mạnh mẽ, có rất nhiều tư tưởng sâu sắc của các trường phái gắn liền với nhiều triết
gia tên tuổi cùng những tác phẩm mang tính chất kinh điển, đặt cơ sở lý luận vững
chắc cho sự phát triển khoa học tư nhiên và khoa học xã hội, trong đó có khơng ít
tác phẩm được lưu truyền tới ngày nay.
Triết học Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc được đánh giá ở vào
thời hoàng kim, tạo thành thời kỳ “trăm nhà đua tiếng”, mỗi học phái, mỗi triết gia
đều có một cách tiếp cận đặc thù, có những phương pháp khám phá và giải quyết
vấn đề riêng. Chẳng hạn, Đạo gia tập trung chú ý tới các quy luật của vũ trụ; Nho
gia lại bắt đầu mối quan hệ từ con người với con người; Mặc gia chủ trương nguyên
tắc bác ái và công lợi; Pháp gia chú trọng việc tập trung quyền lực và cải cách kinh
tế, chính trị xã hội; Danh gia quan tâm đến vấn đề logic học; Âm dương gia lại giải
thích tự nhiên, xã hội và lịch sử bằng thuyết âm dương ngũ hành. Trong các vấn đề
triết học, trọng tâm giải quyết của các triết gia cũng khác nhau. Điển hình trong mối
quan hệ giữa người với trời Lão Tử nhấn mạnh đạo trời tự nhiên, ông chú ý đến sự
vận động và vai trị của quy luật khách quan, ơng chủ trương vơ vi, cịn Khổng Tử,
Mặc Tử thì coi trọng tính năng động chủ quan của con người. Trong quan hệ giữa
danh và thực Lão Tử chủ trương “vô danh” cho rằng khơng thể phản ánh thực,
Khổng Tử đề ra “chính danh”, đòi hỏi lấy danh chỉ thực, Mặc Tử chứng minh phải
lấy thực chỉ danh, cho rằng nhận thức phải tuân thủ với tình hình hình thực tế, Danh
gia Cơng Tơn Long chỉ rõ danh và thực phải tương đương – cho rằng khái niệm tên
gọi phải bắt chước thực tại, Tuân Tử nêu ra “chế danh chỉ thực” nghĩa là đặt cái


Trang 4

danh để chỉ cái thực… vv. Trong quan niệm bản chất con người ta thấy có thuyết

“tính tương cận, tập tương viễn” của Khổng Tử, thuyết “tính thiện” của Mạnh Tử,
thuyết “tính ác” của Tn Tử, thuyết “khơng ác, không thiện” của Cáo Tử. Trong
quan hệ giữa lễ trị và pháp trị, Nho gia chủ trương đức trị, nhân trị, lễ trị, Pháp gia
chủ trương trọng pháp trị. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng các trường phái triết
học tùy theo cách tiếp cận và góc nhìn của mình mà khai thác theo chiều hướng đa
dạng, một mặt làm phong phú lý luận triết học Trung Quốc, mặt khác đã làm ảnh
hưởng trong tập đoàn thống trị, trong giới trí thức và trong tồn bộ xã hội.
Q trình phát sinh, phát triển của triết học gắn liền với điều kiện kinh tế - xã
hội, với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, giữa các lực lượng tiến bộ và bảo thủ, gắn
liền với các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Trong cuộc đấu tranh chống tư tưởng thần bí và chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo
làm cho con người tin vào “số mạng”, tin vào mệnh trời, đã xuất hiện nhà duy vật,
vô thần Tuân Tử. với Tuân Tử “mưu sự tại nhân, thành sự tại nhân”, là nhân định
thắng thiên, ông không tin có số mạng, mệnh trời, khơng có một lực lượng siêu
nhiên nào có thể quyết định cuộc sống con người, chỉ con người mới quyết định
phúc họa, tốt xấu… vì thế tư tưởng triết học của Tuân Tử tuy ra đời cách nay trên
2000 năm, nhưng vẫn chứa đựng những giá trị to lớn về tư tưởng duy vật, vô thần
trong kho tàng tri thức loài người.
Tuy nhiên một vấn đề ta thấy rõ về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay
nỗi bật một số nội dung cần phải giải quyết sau: Thứ nhất, đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ lý luận chưa toàn diện, hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ mơn khoa học
Mác – Lênin, ít coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp nhận những
thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là một số đông cán bộ lý luận thiếu hiểu
biết rộng rãi về kho tàng tri thức của lồi người, do đó khả năng phát triển bị hạn
chế. Điều này đã phản ánh đúng thực trạng của công tác nghiên cứu và giảng dạy
môn khoa học trước đây. Trong lĩnh vực triết học, chúng ta chỉ tập trung vào triết
học Mác – Lênin, còn với những trào lưu tư tưởng triết học khác nói chung, triết


Trang 5


học Tn Tử nói riêng thì có một bộ phận có thái độ khơng đúng, mang tinh thần
biệt phái, không nghiên cứu, phủ nhận tất cả cho dù trong đó có thể chứa đựng
những nhân tố hợp lý, những giá trị chung cho toàn nhân loại.
Thứ hai, một bộ phận khơng nhỏ có cách nhìn phiến diện, cục bộ về Tuân Tử.
Thông thường khi nhắc tới triết gia Tuân Tử thì nội dung “bản tính con người vốn
ác” là nổi bật, đã làm mất thiện cảm cho những ai muốn nghiên cứu sâu về tư tưởng
của ông, bởi con người suy nghĩ sẽ tạo ra hành động, hành động sẽ tạo ra tính cách,
tính cách tạo ra số phận, nên khi nói con người là ác thì làm gì cịn tính nhân văn,
như học giả Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê khi biên soạn tập Tuân Tử đã nói “một cơ
quan văn hóa nhờ cụ cử viết về Tuân Tử, cụ đáp: “Viết về con người đó làm gì ?”
[5, Tr. 6]. Ngược lại trong tác phẩm Khổng Học Đăng của Sào Nam Phan Bội Châu
lại nhận định “học không tới nơi mà trở lại chửi mắng thầy Tuân, nên nổi học
thuyết của thầy Tuân bị chết oan” [4, tr. 804]. Rõ ràng là ta thấy hai cách nhìn nhận
về một triết gia hoàn toàn khác. Riêng tác giả nhận thấy Triết học Tuân Tử ra đời
trong hoàn cảnh lịch sử khốc liệt của xã hội thời Chiến quốc, một mặt Tuân Tử đã
phản ánh đậm nét khía cạnh sinh lý, con người có nguồn gốc từ động vật, nên bản
năng thường là tranh giành, chiếm đoạt. Nhưng quan trọng hơn: Mặc dù bản tính
con người ác vẫn có thể cải biến được, mỗi người có thể trở nên thiện được nếu cố
gắng học tập, chuyên tâm, không ngừng tích chứa điều thiện, có thể đứng ngang với
trời đất “thánh nhân chỉ là người thường nhờ cơng phu tích ngụy mà thành” [5, Tr.
362].
Thứ ba, chúng ta đang xây dựng một nhà nước nước pháp quyền, vì vậy
khơng thể không nghiên cứu tư tưởng pháp trị của Hàn Phi – tập đại thành của Pháp
gia, mà Hàn Phi lại chính là học trị của Tn Tử, ơng đã đặt nền móng, cơ sở cho
phái Pháp gia, vì vậy chúng ta cần phải nghiên cứu rõ.
Đặc biệt, quán triệt Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày 28 tháng 03 năm 1992
của Bộ chính trị đã khẳng định: “Đối với những học thuyết khác – ngoài Chủ nghĩa
Mác – Lênin về xã hội cần được nghiên cứu trên cơ sở khách quan, biện chứng”.



Trang 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người đã tiếp thu những thành tựu của triết học Trung
Hoa cổ đại một cách biện chứng, người luôn ý thức, thực hiện trên tinh thần “gạn
đục, khơi trong”, “đãi cát, tìm vàng”, người chỉ rõ:“đời sống mới khơng phải cái gì
cũ cũng bỏ hết, khơng phải cái gì mới cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải
bỏ… cái gì cũ mà khơng xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm…” [71, tr. 112 – 113]. Có như vậy, chúng
ta mới khắc phục được tình trạng mất cân đối và phiến diện trước đây. Đồng thời,
còn khai thác được những “nhân tố hợp lý”, “những giá trị chung toàn nhân loại”
trong học thuyết ấy. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đó là: Những nhân tố ấy (những
nhân tố hợp lý, những giá trị chung toàn nhân loại – tác giả luận văn nhấn mạnh),
nếu biết gạn lọc, biết tiếp thu một cách có phê phán sẽ làm giàu thêm kho tàng lý
luận cho dân tộc.
Quá khứ, hiện tại, tương lai là dòng chảy liên tục, chưa bao giờ ngừng lại,
hiện tại là chứa đựng trong nó những giá trị của truyền thống, truyền thống là cơ sở
vững mạnh của hiện tại. Phát huy tinh thần sáng tạo dưới sự soi sáng của phương
pháp luận mácxít, chúng ta cần khách quan nhìn nhận, đánh giá những giá trị, hạn
chế của một học thuyết cụ thể, để làm phong phú hơn kho tàng trí tri thức. Vì vậy,
với luận văn này tác giả mạnh dạn đi vào nghiên cứu một lĩnh vực trong triết học về
Tuân Tử là “tư tưởng duy vật, vô thần trong triết học Tuân Tử”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cuộc đấu tranh giữa tư tưởng duy vật, vô thần với tư tưởng duy tâm, tôn giáo
không chỉ diễn ra giữa các trào lưu chủ đạo của triết học Trung Quốc cổ đại mà còn
diễn ra giữa các tập đoàn, giữa các triết gia thuộc nội bộ các trào lưu đó. Cuộc đấu
tranh diễn ra trên tất cả các mặt về bản thể luận, cũng như nhận thức luận, xã hội và
con người, qua đó đưa ra một cách giải thích mới. Triết gia Tuân Tử đã tiếp thu một
cách có phê phán quan điểm duy vật của nhiều trường phái triết học trước như Nho

gia, Đạo gia, Mặc gia… và phát triển triết học duy vật cổ đại lên một giai đoạn tổng


Trang 7

hợp cao hơn. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến Tuân Tử trên các
phương diện khác nhau như:
Về phương diện văn hóa
Quyển “Tuân Tử”, do Nxb. Văn Hóa ấn hành năm 1994 của tác giả Giản Chi
– Nguyễn Hiến Lê biên soạn. Đây là một công trình nghiên cứu khá cơng phu về
Tn Tử, trong sách tác giả đã chia ra hai phần: Phần I, tác giả trình bày khái quát
về thân thế, sự nghiệp và học thuyết của Tuân Tử; Phần II tác giả đi vào trích dịch
văn bản, trước mỗi thiên tác giả tóm tắt các ý chính của tồn thiên – có ý nghĩa giúp
cho đọc giả hiểu nhanh hơn khi đọc nội dung trích dịch.
Quyển “Nho giáo” của nhà văn hóa, nhà sử học Trần Trọng Kim biên soạn,
do Nxb. Thời đại ấn hành năm 2012. Tác giả đã nghiên cứu một cách nghiêm túc
với một trí thức uyên bác đã cho đọc giả thấy được quá trình phát sinh, phát triển
của Nho giáo. Đặc biệt từ trang 246 đến trang 320 tác giả đã đề cập đến học thuyết
của Tuân Tử một cách phổ quát nhất, tác giả đã chia học thuyết Tuân Tử ra các nội
dung cơ bản: I. Quan niệm về trời và người, II. Tâm lý học, III. Chính danh học, IV.
Giáo dục triết lý, V. Chính trị đạo đức.
Quyển “Lịch sử văn hóa Trung Quốc” của Đàm Gia Kiện (Chủ biên), do
Nxb. Khoa học xã hội ấn hành năm 1993. Tác giả đã trình bày một cách hệ thống
q trình hình thành, phát triển văn hóa của Trung Quốc nói chung và triết học
Trung Quốc nói riêng. Từ trang 449 đến trang 452 Đàm Gia Kiện tuy không phân
chia rõ ràng hệ thống triết học của Tuân Tử về bản thể luận, nhận thức luận, chính
danh và logic học… nhưng tác giả vẫn đề cập đến những nội dung trên. Tác giả
cuốn sách cũng đưa ra nhận định “Tuân Tử được liệt vào Nho gia, song trên thực tế
ông là tử Nho mà đến người duy vật chủ nghĩa của Pháp gia” [42, tr.450]
Quyển “Khổng Học Đăng” của Sào Nam Phan Bội Châu, do Nxb. Văn hóa

thơng tin ấn hành năm 1998. Từ trang 801 đến trang 815 tác giả đã giải thích từ và ý
nghĩa tư tưởng của Tuân Tử về “tính ác luận”, thuyết “Phi mệnh”, thuyết “Phi thập
nhị tử”, học giả Sào Nam Phan Bội Châu đưa ra kết luận cơ bản về Tuân Tử có


Trang 8

những điểm tương đồng và khác biệt với học thuyết Khổng Mạnh. Đáng chú ý tác
giả đánh giá học thuyết Tuân Tử là “học thuyết rất mới mẻ, thường chủ trương một
lý tưởng độc lập và một lý luận tự do, không chịu nương tựa vào tường vách người
đời xưa. Chúng ta đối với Tuân, sở dĩ đáng kính phục, đáng sùng bái là vì chốn ấy.
Nhưng hậu nho sở dĩ cơng kích thầy Tn cũng vì chốn ấy” [4, tr.801]
Về phương diện lịch sử
Quyển “Lịch sử thế giới cổ đại” tập 1 của Chiêm Tế, do Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội ấn hành năm 2000. Tác giả cùng với tri thức uyên bác về văn hóa và
đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, Ông đã đem đến cho đọc giả một
cái nhìn có hệ thống về lịch sử thế giới cổ đại ở phương Đông và phương Tây.
Trong trang 315 đến trang 316 tác giả cho chúng ta thấy được những vấn đề cơ bản
trong học thuyết Tuân Tử như quan điểm về trời và người, về xã hội. Tác giả cũng
nhận định rằng học thuyết Tuân Tử “tiếp thu một cách có phê phán quan điểm duy
vật của nhiều môn phái trước và nâng sự phát triển của triết học duy vật cổ đại lên
một giai đoạn tổng hợp cao hơn” [107, tr.315].
Quyển “Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê do Nxb. Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh ấn hành năm 2006. Tác phẩm là sự kết hợp của niềm đam mê nghiên
cứu với vốn tri thức uyên thâm, tác giả đã đem lại cho đọc giả một cách nhìn cơ bản
về tồn bộ lịch sử Trung Quốc từ thời Nguyên thủy và Phong kiến, sang thời Quân
chủ (từ nhà Hán tới cách mạng Tân Hợi (1911), đến thời Dân chủ (từ cách mạng
Tân Hợi tới ngày nay-1982). Trong khi trình bày những tư tưởng chính trị thời Tiên
Tần tác giả đã đề cập đến Tuân Tử, tác giả khái quát Tuân Tử có những điểm tương
đồng theo Khổng Mạnh: tơn nhân quyền, trọng tơn ti, lễ nghĩa, ơng ghét chính sách

quyền mưu của phái Pháp gia, ông cũng phân biệt vương đạo và bá đạo. Nhưng
Tuân Tử lại chủ trương tính ác, ngược hẳn với Mạnh Tử. Tuy vậy bằng con đường
giáo dục thì con người có thể trở thành thiện. Do đó, tác giả Nguyễn Hiến Lê xếp
ơng vào “phái Nhân trị - Hữu vi” [56, tr. 115].
Về phương diện quản lý


Trang 9

Trong quyển “Khoa học quản lý” do Nhà xuất bản Lý luận chính trị (2005) ở
trang 12 khi trình bày lược sử những tư tưởng về quản lý đã đánh giá Tuân Tử là
nhà triết học có tư tưởng duy vật, nhấn mạnh lý thuyết của ông về bản tính con
người là ác, “theo ơng quản lý xã hội vị pháp chứ không phải vị đức” [129, tr.12].
Trong quyển “Vấn đề quản lý nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại”
của Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên), do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh ấn hành năm 2002. Cùng với việc trình bày những nội dung tư tưởng
quản lý nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại từ, tác giả đã đề cập đến tư
tưởng của Tuân Tử về nguồn gốc hoạt động quản lý nhà nước, chính sách dưỡng
dân, tiêu chuẩn của quan chức nhà nước, nghệ thuật tuyển chọn và sử dụng nhân sự
trong quản lý nhà nước. Tác giả đánh giá “Đặt Tn Tử vào thời đại của ơng thì
ơng cũng là người có tư tưởng cấp tiến” [102, tr.43].
Về phương diện triết học
Quyển “Lịch sử triết học” do GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên, được Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2008. Tác giả đã khái quát học thuyết
triết học của Tuân Tử trên các phương diện: Về bản thể luận, nhận thức luận, quan
niệm về xã hội và nhà nước, về quan điểm luân lý. Tác giả đánh giá Tuân Tử “là
nhà triết học duy vật kiệt xuất trong lịch sử triết học trung quốc cổ đại” [125, tr.59]
Quyển “Lịch sử triết học Trung Quốc”, Tập 1 của tác giả Hà Thúc Minh do
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1998. Từ trang 67 đến trang 75
tác giả đã khái quát học thuyết của Tuân Tử trong các nội dung cơ bản sau: Quan

điểm chính trị. Phê phán quan niệm mệnh trời. Học thuyết về tính ác. Tác giả kết
luận “Triết học Tuân Tử là triết học duy vật tiến bộ. Học thuyết của Tuân Tử tập đại
thành các học thuyết đời trước, phê phán, kế thừa những điểm lạc hậu cũng như
tiến bộ của người đi trước, đồng thời mở màn cho trường phái Pháp gia sau này”
[68, tr. 75].
Quyển “Tư tưởng phương Đơng gợi những điểm nhìn tham chiếu” của tác giả
Cao Xuân Huy, do Nhà xuất văn học ấn hành năm 1995, trong phần thứ ba: đề


Trang 10

cương bài giảng triết học cổ đại Trung Quốc được trình bày từ trang 499 đến trang
518 tác giả hệ thống hóa tư tưởng Tuân Tử trên các phương diện: Trời là tự nhiên,
tính ác, chữ “Lễ” nhích gần đến chữ “Pháp”, vương đạo, vương chính, chính tâm và
chính danh. Tác giả đánh giá “Tuân Tử là một học giả kiệt xuất, nối gót Mạnh Tử
để phát triển Nho giáo nguyên thủy,…, Tuân Tử đã cải biến tư tưởng “lễ trị”, và
nhích nó lại gần tư tưởng “pháp trị”, để mong thích ứng Nho giáo với nhu cầu thời
đại” [37, tr.501].
Quyển “Lịch sử triết học Trung Quốc (từ giai đoạn Thương, Chu đến giai
đoạn Xuân thu – Chiến quốc) do PGS.TS. Dỗn Chính (chủ biên) được Nhà xuất
bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1991. Từ trang 451 đến trang 509 tác giả
đã hệ thống hóa tư tưởng triết học của Tuân Tử trên các phương diện: I. Quan niệm
về trời và người – thế giới quan trong tư tưởng triết học của Tuân Tử; II. Logic học,
nhận thức luận và tâm lý học trong triết học của Tuân Tử. III. Học thuyết về tính ác
của Tuân Tử. Quan điểm của Tuân Tử về chính trị - xã hội. Tác giả nhận định về
Tuân Tử “trong cuộc đấu tranh chống lại tư tưởng thần bí, tơn giáo và chủ nghĩa
duy tâm đã xuất hiện nhà duy vật kiệt xuất cổ đại Tn Huống” [10, tr.451].
Ngồi ra cịn có bài viết, bài báo và cơng trình luận án liên quan đến tư tưởng
của Tuân Tử như luận án của Trần Đình Thảo (1996) “Quan niệm Nho giáo về
nguyên thủy về con người qua các mối quan hệ: thân – nhà – nước – thiên hạ” hay

luận văn thạc sĩ của Ngô Quang Huy (2011): “Quan điểm về bản tính con người
trong triết học Trung Quốc cổ đại và ý nghĩa lịch sử của nó”. Tuy nhiên, các cơng
trình đó ít nói đến vấn đề tư tưởng duy vật, vô thần, cũng như giá trị và hạn chế
trong triết học Tuân Tử. Tác giả trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kết quả
nghiên cứu của các cơng trình đó, cùng một số tài liệu khác sẽ đi sâu nghiên cứu nội
dung “Tư tưởng duy vật, vô thần trong triết học Tuân Tử”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a. Mục đích của luận văn


Trang 11

Xuất phát từ tính cấp thiết và tình hình nghiên cứu đề tài, tác giả xác định
mục đích của luận văn là: Làm sáng tỏ tư tưởng duy vật, vô thần trên các vấn đề bản
thể luận, nhận thức luận, logic học, con người và xã hội. Đồng thời khẳng định
những giá trị và hạn chế trong triết học Tuân Tử.
b. Nhiệm vụ của luận văn
Để hoàn thành mục đích đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ điều kiện kinh tế, chính trị, khoa học và xã hội
Trung Quốc thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc.
Thứ hai, phân tích nội dung tư tưởng duy vật, vơ thần của Tuân Tử trên các
vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, logic học, con người và xã hội.
Thứ ba, phân tích và làm rõ những giá trị và hạn chế trong tư tưởng duy vật,
vô thần của Tuân Tử.
c. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu tư tưởng duy vật, vô thần của Tuân Tử.
So sánh tư tưởng của ông với một số tư tưởng đương thời. Qua đó làm rõ những giá
trị cần kế thừa, cũng như chỉ ra những hạn chế phải loại bỏ trong tư tưởng của ơng.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Về cơ sở lý luận, luận văn được hình thành trên cơ sở biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin về Tuân Tử qua tham khảo những sách kinh điển và những tài
liệu viết về vấn đề ông trong những năm gần đây.
Về phương pháp nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp sử
dụng một số phương pháp khác như: phân tích và so sánh, phân tích và tổng hợp;
diễn dịch, so sánh và khái quát quát hóa, lịch sử và logic… trong quá trình thực hiện
luận văn.


Trang 12

5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn này là góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng duy
vật, vô thần, cũng như nhấn mạnh những giá trị và hạn chế trong triết học Tuân Tử.
Về mặt thực tiễn, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác giảng dạy, nghiên cứu, quan tâm đến triết học Trung Quốc nói chung, triết
học Tuân Tử nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được trình bày 2 Chương, 7 tiết.


Trang 13

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI
TRUNG QUỐC THỜI KỲ XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DUY VẬT, VÔ THẦN CỦA TUÂN TỬ


Sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng không phải một cách ngẫu nhiên
hay từ hư vơ, mà ln có cơ sở khách quan của nó. Một trong những cơ sở khách
quan quan trọng mà trên đó nó ra đời, tồn tại và phát triển là những điều kiện kinh
tế - xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, giữa tư tưởng và
những điều kiện kinh tế - xã hội có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi học
thuyết luôn nảy sinh trên những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. C.Mác từng
viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại
mình, của dân tộc mình, mà dịng sữa tinh tế nhất, q giá và vơ hình được tập
trung lại trong những tư tưởng triết học” [64, tr. 156]. Tư tưởng duy vật, vô thần
của triết gia Tuân Tử xuất phát từ thực tiễn xã hội Xuân Thu – Chiến Quốc (770221).
1.1. Tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc với
việc hình thành tư tưởng duy vật, vơ thần của Tn Tử
1.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Thứ nhất, công cụ sắt xuất hiện và sử dụng một cách phổ biến trong thời kỳ
Xuân Thu – Chiến Quốc: Trong quá trình con người lao động để cải tạo thế giới thì
cơng cụ lao động đóng vai trị đặc biệt quan trọng, mỗi khi xuất hiện công cụ lao
động mới luôn tạo ra cuộc cách mạng trong sản xuất. Điều này cho ta thấy rõ khi
nhìn vào giai đoạn Xuân thu nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ
đồng sang thời đại đồ sắt, công cụ bằng sắt ngày càng thay thế công cụ bằng đồng
trong sách Quốc ngữ nói “sắt để đúc cuốc cào và quả cân”. Đồ dùng bằng sắt, đặc


Trang 14

biệt là các công cụ sản xuất như lưỡi cày, liềm, cuốc, rìu, dao được sử dụng phổ
biến. Sách Mạnh Tử, thiên Đằng Văn Công, Thượng, bài 4 ghi một câu Trần Tương
hỏi Mạnh Tử: “Hứa Tử có dùng nồi đồng, trách đất nấu ăn khơng, có dùng (lưỡi
cày bằng) sắt mà cày khơng?” [6, tr.11].
Chính việc phát minh ra công cụ lao động mới, việc dùng lưỡi cày bằng sắt

mà cày sâu hơn, nhanh hơn đã thúc đẩy việc canh tác, khẩn khai đất hoang, tát cạn
đầm hồ, đắp đê, đào mương để tưới nước và thoát nước. Các cơng trình thủy lợi
được xây dựng khắp nơi từ lưu vực sống Hồng Hà tới lưu vực sơng Trường Giang,
từ biển đông tới vùng Tứ Xuyên. Điều này đã thúc đẩy các nước chư hầu đua nhau
xây dựng, phát triển, đưa nước mình trở thành phú quốc, binh cường để mưu toan
thơn tính các nước khác, mà muốn giàu mạnh trước hết cần làm mạnh cái gốc – phát
triển sản xuất nông nghiệp. Như Ăng ghen đã nhận xét khi sắt “bắt đầu phục vụ nhu
cầu của con người – và cũng là thứ nguyên liệu quan trọng nhất đóng vai trị cách
mạng trong lịch sử” [65, tr.249]. Một minh chứng rõ nhất là ngay trong thời Chiến
quốc, mặc dù nền nông nghiệp bị chiến tranh tàn phá nhưng việc sử dụng nông cụ
bằng sắt một cách phổ biến, làm cho công tác khai hoang, cải tạo đất, thâm canh,
nhất là công tác xây dựng hệ thống thủy lợi ở các nước có sự phát triển, nhân dân
dọc sơng Hồng Hà đắp đê hàng nghìn dặm dọc theo sơng, nước Tần đắp đập Đô
Giang nổi tiếng, tưới cho cả một vùng đồng ruộng rộng lớn, ở Quang Trung có khơi
con kênh nước Trịnh, dẫn nước phát triển nông nghiệp cả vùng phía bắc sơng Vị,
nhân dân các nước Tề, Ngụy, Sở đều đào kênh lấy nước từ sông Trường Giang,
Hoàng Hà để phát triển đất nước.
Thứ hai, Chế độ tư hữu về ruộng đất được hoàn thiện trong thời kỳ Xuân Thu
– Chiến quốc: Quá trình phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi
mạnh mẽ trong lĩnh vực quan hệ sản xuất tạo thành cuộc cách mạng. Nếu trước kia,
quyền sở hữu ruộng đất trên danh nghĩa là thuộc thiên tử, nhưng thực tế thì do các
thơn xã chiếm giữ, ruộng đất tùy theo tốt xấu mà phân phối cho nông dân thôn xã
theo một thời hạn nhất định. Nông dân cày cấy một phần ruộng đất, phần khác để
đất nghỉ, cứ vài năm ruộng đất được chia lại một lần, giữa các thửa ruộng người ta


Trang 15

đào một số kênh tưới nước dọc ngang, hai bên kênh là đường đi, chia cắt đồng
ruộng thành nhiều mảnh ruộng như hình chữ “chữ “tỉnh” (井), nên gọi là chế độ

“tỉnh điền”. Tổng diện tích ruộng của làng được chia thành các ơ vng, các ơ đó lại
được chia theo ruộng được chia thành chín phần bằng nhau, mỗi phần là một trăm
mẫu, mỗi mẫu bằng sáu trăm mét vuông, tám phần xung quanh là của dân (tư điền)
cịn phần ruộng ở giữa (cơng điền) là của vua, tám gia đình này phải chung nhau
làm, sản phẩm làm ra phải nộp cho nhà vua. Số lúa nộp cho nhà nhà vua cũng vào
khoảng 1/10 số thu hoạch của mỗi gia đình. Dân khơng được phép trồng các cây lớn
trong ruộng vì nếu trồng nó sẽ làm mất đất trồng lúa, nhưng được phép trồng dâu,
rau, trái cây chung quanh mỗi nhà. Cũng không được trồng duy nhất là giống lúa,
để tránh tình trạng nếu mất mùa thì con người sẽ bị chết đói. Bên cạnh những khu
đất chia cho người dân cịn có những khu đất, vì những lí do nhất định, nhà vua
khơng chia cho dân như rừng, đất lầy chỉ trồng được sậy, đay, cỏ lác. Những đất đó
dân tự ý khai thác nhưng phải đóng thuế cho nhà vua. Nhìn chung chế độ phân chia
ruộng đất thế này bước đầu thấy sự công bằng, nông dân phấn khởi ra sức phát triển
nông nghiệp, lương thực được giải quyết, cũng làm cho người dân một phần có
cuộc sống được đảm bảo.
Đến thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc việc sử dụng công cụ bằng sắt một cách
phổ biến trong nông nghiệp không những giúp cho việc khai khẩn đất hoang, mà
còn tạo điều kiện mới cho việc nâng cao năng suất lao động. Do đó, dần dần người
ta nhận thấy việc chia lại ruộng đất theo định kỳ là khơng cần thiết, chế độ đó có thể
kìm hãm sự phát triển tính năng động của mỗi cá nhân, chủ sở hữu ruộng đất đó,
người ta sẽ khơng ra sức cải tạo ruộng đất. Vì vậy, chế độ “tỉnh điền” được thay thế
bằng chế độ tư hữu về ruộng đất và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Ruộng đất
được giao cho từng gia đình, các gia đình đảm nhận việc cày cấy, làm ăn trong thời
gian lâu dài. Với chế độ này nơng dân có thể dùng phương pháp thâm canh, tăng vụ,
điều này làm cho nông nghiệp được thúc đẩy phát triển, sản phẩm nông nghiệp tăng
lên, góp phần giải quyết vấn đề lương thực một cách căn bản. Ruộng đất vỡ hoang
cũng biến thành ruộng tư. Điều này ta thấy rõ ở nước Tấn “Nằm trên lưu vực sông


Trang 16


Phần, nước có nền nơng nghiệp phát đạt. Năm 654 trước công nguyên, nước Tấn
thi hành chế độ viên điền, cố định nông dân vào ruộng đất giao cho nông dân sử
dụng, bãi bỏ lệ hàng năm chia lại ruộng đất của công xã cho nông dân. Nước Tề và
nước Trịnh về sau cũng làm như vậy” [107, tr.285].
Trong thời kỳ này, việc mua bán ruộng đất tự do và sự phổ biến của chế độ tư
hữu đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít q tộc, lãnh chúa,
địa chủ giàu có, họ dùng tiền bạc ruộng đất, nên ruộng đất công xã cũng dần dần bị
quý tộc, lãnh chúa chiếm đoạt làm ruộng tư, đa số nông dân nghèo mất ruộng đất
phải đi làm thuê, cấy rẽ, đời sống của người dân càng cùng cực hơn. Sang thời
chiến quốc chế độ “tỉnh điền” tan rã, chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất trở
thành thống trị, chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện ngày càng trở nên
phổ biến, những yếu tố quan hệ sản xuất mới của chế độ phong kiến trung ương tập
quyền dần chiếm vị trí chủ đạo.
Thứ ba, Chính sách thuế khóa chặt chẽ trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến
Quốc: Việc pháp luật thừa nhận chế tư hữu và tự do buôn bán ruộng đất đã làm cho
chính sách thuế khóa thay đổi theo cho phù hợp. Trước kia khi chế độ “tỉnh điền”
tồn tại, ruộng của nông dân được chia đều, nông dân có nghĩa vụ nộp một phần
mười sản phẩm thu hoạch cho nhà nước “thập nhất chi thuế” [107, tr.285]. Khi chế
tư hữu ruộng đất xuất hiện và phát triển, số lượng ruộng đất cũng khơng giống
nhau, do đó nhà nước thay thế hình thái thu thuế cũ, mà thi hành việc thu thế theo
diện tích ruộng, nhà nước căn cứ theo số lượng ruộng đất nông dân chiếm hữu để
đánh thuế “sơ thuế mẫu” [10, tr.40], cơ bản vẫn thu bằng hiện vật, nhưng các biện
pháp phục dịch khác khơng xóa bỏ. Mở đầu thực hiện cho chế độ thuế mới là nước
Lỗ, năm thứ 15 Tuyên công nước Lỗ (954 trước cơng ngun) chính sách đánh thuế
bước đầu theo đơn vị “sơ thuế mẫu”, như vậy trong phạm vi một nước đã bắt đầu
tuyên bố chính thức sự ra đời của chế độ địa chủ, sau đó là các nước khác cũng bắt
đầu thực hiện.



Trang 17

Để bảo vệ chế độ tư hữu về ruộng đất, việc thu thuế mới được đảm bảo và
biên chế quân sự mới. Chẳng hạn nước Lỗ là “khâu giáp” – bốn ấp gộp thành một
khâu phải nộp một số trang bị cho quân đội; nước Trịnh là “khâu phú” – bốn ấp gộp
thành một khâu phải nộp một số tiền nhất định thay việc phục vụ quân sự, cuối thế
kỷ VI trước công nguyên, nước Trịnh, nước Tấn thực hiện ban bố luật pháp mới.
Sang thời chiến quốc chế độ “tỉnh điền” hoàn toàn tan rã, chế độ chiếm hữu
tư nhân về ruộng đất trở thành thống trị, chế độ bóc lột bằng phát canh thu tơ xuất
hiện.
Thứ tư, thủ công và thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, đạt tới cực thịnh
trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc: Trong thời kỳ Chiến quốc khi đồ sắt được sử
dụng phổ biến, rộng rãi làm cho sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ giữa nông
nghiệp, thủ công và thương nghiệp, chính vì vậy trong sản xuất thủ cơng đã đạt tới
trình độ cao, chuyên nghiệp hơn, thúc đẩy hàng loạt các ngành nghề thủ công phát
triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc… Một số nước đặt ra chức
“thiết quan” chuyên môn quản lý kinh doanh ngành luyện sắt và thu thuế hàng sắt.
Bên cạnh sử dụng các công cụ bằng sắt như lưỡi cày, cuốc, liềm, xẻng, rìu, dao…
thì các đồ binh khí đa số được dùng nguyên liệu sắt để làm ra. Quy mơ luyện sắt
ngày càng lớn, vì vậy nhiều cá nhân hoạt động trong ngành sắt trở nên giàu có nhờ
bóc lột sức lao động của người làm thuê, nên họ cũng bắt đầu tiếp xúc với các giai
cấp thống trị trong chính quyền. Sự phát triển đa dạng của nhiều ngành nghề thủ
cơng đã có ý nghĩa tích cực trong việc giải phóng sức lao động, góp phần phá vỡ
nền kinh tế thuần nông, nâng cao đời sống của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại.
Các nước đều hình thành những trung tâm luyện sắt lớn như Hàm Đan nước Triệu,
Đường Khuê nước Hàn, Lâm Tri nước Tề … cũng trong thời gian này sự phát triển
của một số nghề thủ công như nghề làm đồ gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa
càng ngày càng được phát triển, nhiều sản phẩm thủ công tinh xảo đã xuất hiện như
đồ chạm vàng, dát bạc, hàng dệt lụa. Trong đó nổi tiếng nhất là hàng tơ lụa màu của
nước Tề, tranh vẽ màu của nước Sở.



Trang 18

Một số người tách khỏi hoạt động nông nghiệp, thủ cơng chuyển sang hoạt
động thương nghiệp, vì thế hoạt động này diễn ra sôi động. Tiền tệ mặc dù xuất
hiện trong thời kỳ Xuân thu, nhưng đến thời Chiến quốc mới được sử dụng thịnh
hành. Tiền được đúc bằng đồng, cũng có loại đúc bằng vàng, có mang tên thành thị
hoặc mang tên nước, hình thức, trọng lượng và giá trị tiền các nước là khác nhau.
Thương nghiệp phát triển đã làm xuất hiện các trung tâm buôn bán, trao đổi hàng
hóa hưng thịnh, bên cạnh đó thương nhân cịn hành nghề cho vay nặng lãi, đầu cơ
tích trữ, ni nhiều nơ lệ để vận chuyển hàng hóa. Q tộc cũng noi gương thương
nhân để kinh doanh buôn bán và cho vay nặng lãi, thương nhân lớn có tham vọng
chính trị. Đơ thành các nước và một số thành ấp được xây dựng trên những trục lộ
giao thông trọng yếu đã biến thành những đô thành sầm uất như Hàm Dương nước
Tần, Thọ Xuân nước Sở, Khai Phong nước Ngụy, Lâm Tri nước Tề “Lâm Tri rất
giàu, không người dân nào là không thổi ống vu, gãy đàn sắt, đàn cầm, đàn trúc,
chọi gà. Đường Lâm Tri náo nhiệt, bánh xe qua lại rất sát nhau, người chen vai
nhau, vạt áo tiếp nhau thành như bức màn, tay áo đưa lên thành bức rèm, mồ hôi
vẩy ra thành mưa, nhà nào cũng đơn hậu và giàu có, người nào cũng có chí khí
hiên ngang” [9, tr.201], đơ thành sầm uất như vậy có thể thấy sức sản xuất xã hội
rất phát triển. Như vậy, ta thấy khi nghiên cứu mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau,
chúng ta không nghiên cứu họ sản xuất ra cái gì ? mà phải nghiên cứu họ sản suất
như thế nào?. Chính cơng cụ sản xuất đã làm cho con người chinh phục và cải tạo tự
nhiên một cách chủ động, phục vụ tốt nhu cầu con người hơn.
1.1.2. Tình hình chính trị - xã hội thời Xuân Thu - Chiến quốc
Thứ nhất, Chiến tranh liên miên, ngày càng khốc liệt đã làm cho chế độ tông
pháp trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến quốc đã đến giờ cáo chung: Thời Tây Chu
nhà nước dựa trên chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là thiên tử (vua) là người
thay mặt cho trời cai quản thiên hạ, dưới thiên tử là chư hầu, chư hầu được phân

chia thành các bậc lớn nhỏ, gọi là tước gồm: công tước, hầu tước, bá tước, tử tước,
nam tước. Sự truyền ngôi theo chế độ tông pháp, thế tập với nguyên tắc coi trọng và
truyền ngôi cho người con trai trưởng của hồng hậu chính cung (cha truyền con


Trang 19

nối), tức dựa trên quan hệ huyết thống của dòng họ. Dưới vua Chu là các nước chư
hầu, người đứng đầu các chư hầu thường là những quý tộc lớn thuộc bộ tộc Chu. Họ
có mọi quyền hành, chính quyền, quân đội riêng tại vùng đất họ đóng. Các nước
chư hầu hàng năm phải thự hiện chế độ triều chính và thủ tục triều cống, phải đến
cung vua để báo cáo tình hình làm ăn của dân chúng, nhân đó cống nạp châu báu
hoặc các đặc sản của địa phương cho nhà vua. Chế độ này đã duy trì trật tự xã hội
Trung Quốc một thời gian dài. Cuối thời Tây Chu, U Vương không lo phát triển đất
nước, xây dựng quân sự mà hoang dâm, mê nàng Bao Tự, U Vương phế hoàng hậu
Thân và thái tử Nghi Câu, lập Bao Tự làm hoàng hậu và con Bao Tự làm thái tử.
Bao Tự là một người đẹp nhưng khơng bao giờ cười, có một tên nịnh thần bảo đốt
lửa Phong hỏa đài Bao Tự sẽ cười. Bao Tự cười, nhưng trị chơi nguy hiểm này mà
sau đó U Vương mất ngôi, đốt lửa Phong hỏa đài là báo động cho quân chư hầu tập
trung giải cứu khi thiên tử có ngoại xâm, nhưng khi đến thì khơng phải thật, từ đó
chư hầu khơng tin nữa, vì thế khi báo động thật thì chư hầu tưởng báo động giả nên
không đến cứu. Cha Thân hậu là Thân Hầu khởi binh, liên lạc với người Tây Nhung
tấn công Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, giết U Vương dưới chân núi Li Sơn.
Thân Hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương, địa thế Thiểm
Tây của nhà Chu luôn bị Tây Nhung và Nghiễm Dỗn uy hiếp liên tục nên Chu
Bình Vương phải dời đơ về phía đơng Lạc ấp, lập nên triều đại Đông Chu. Đông
Chu được chia làm hai giai đoạn Xuân Thu (770 – 475 trước công nguyên) và giai
đoạn Chiến Quốc (475 – 221 trước công nguyên).
Thời Xuân Thu một mặt, nhà Chu đã lâm vào tình trạng suy vi, khủng hoảng
tồn diện, có tính chất trầm trọng, tình trạng vua chúa tranh giành địa vị, quyền lợi

với các nước chư hầu làm cho lễ nghĩa nhà Chu ngày càng không được tôn trọng.
Mặt khác các nước chư hầu nhờ sự phát triển kinh tế bằng việc sử dụng công cụ
bằng sắt cũng như vận dụng kiến thức thiên văn, kỹ thuật canh tác vào trong sản
xuất mà ngày càng mạnh lên, xuất hiện tư tưởng muốn vượt qua quyền lực của nhà
Chu, thống trị thiên hạ. Trên danh nghĩa các chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa vị thiên
tử của nhà Chu mà thực chất các chư hầu đua nhau động binh để mở rộng đất đai và


Trang 20

thế lực, đặc biệt một số chư hầu còn đem binh về kinh đô để trấn áp “thiên tử”, chế
độ nhà Chu bị lung lay tận gốc “Tần đem qn đánh Chu để địi chín cái đỉnh” [9,
tr.81]. Quyền lực của lãnh chúa tối cao – tức “Thiên tử” khơng cịn như trước, danh
thiên tử chỉ cịn là hư danh. Thiên tử không thể xét xử được những cuộc tranh chấp
của các chưa hầu. Nhà Chu tuy suy yếu nhưng các chư hầu chưa đủ mạnh để dẹp tất
cả các nước khác thay nhà Chu làm thiên tử. Các chư hầu lớn mạnh đã tiếm quyền
thiên tử, họ tranh giành đất đai, thơn tính lẫn nhau, chiến tranh cướp đoạt khơng
ngừng “thời Xn thu có khoảng 242 năm thì xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ
giữa các nước chư hầu” [10, tr.44].
Số chư hầu trước kia có hàng ngàn, tới đầu đơng Chu cịn hơn một trăm nước,
nhiều nước nhỏ bị các nước lớn thơn tính. Trong số hơn một trăm nước đó chỉ có
mười lăm nước là đáng kể: Tấn, Tần, Tề, Sở, Ngô, Việt, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống,
Trần, Thái, Thịnh, Trâu. Trong mười lăm nước đó chỉ có năm nước hùng mạnh kế
tiếp nhau làm minh chủ, cục diện “ngũ bá” là: Tề (Hồn Cơng), Tấn (Văn Công),
Tống (Tương Công), Sở (Trang Công), Tần (Mục Cơng), cuối thời Xn Thu có
thêm Ngơ vương Phù Sai, Việt vương Câu Tiễn.
Năm 403 trước cơng ngun có ba họ lớn là Hàn, Triệu, Ngụy có thế lực
mạnh nhất nước Tấn đã dùng uy lực để chiếm đoạt đất đai của các họ khác, chia
nước Tấn làm ba, sau đó họ phế bỏ vua Tấn, xã hội Trung Quốc bước sang thời
Chiến Quốc, bấy giờ số chư hầu giảm xuống cịn trên một chục. Trong số đó có bảy

nước hùng mạnh, sử sách gọi là “thất hùng” là: nước Tề, nước Tần, nước Sở, nước
Triệu, nước Ngụy, nước Hàn, nước Yên. Trong thất hùng mạnh nhất là nước Tề,
nước Sở, nước Tần vì có đất đai rộng, tài ngun nhiều “Tề văn minh hơn hết, Sở
rộng nhất, Tần là nước có tổ chức hơn hết” [ 56, tr.96]. Tần ở phía tây Hàm Cốc
quan, sáu nước cịn lạ ở phía đơng nên thường gọi chung là “Sơn Đơng lục quốc”.
Nước Tần sau khi tiến hành cuộc cải cách của Thương Ưởng trở nên giàu mạnh, đe
dọa đến an nguy của sáu nước cịn lại. Ta có thể chia thời Chiến quốc thành ba giai
đoạn: giai đoạn thứ nhất nước Tần chưa phát triển, nước Ngụy đã tiến hành nhiều
cuộc chiến tranh để mở rộng lãnh thổ, nhưng sau bị các nước liên kết lại đánh bại.


Trang 21

Giai đoạn thứ hai nước Tần và nước Tề là mạnh nhất, các nước khác bị uy hiếp, Tần
đánh bại nước Triệu và giúp các nước khác đánh bại nước Tề. Giai đoạn thứ ba, Tần
và Sở là hai nước mạnh nhất, sau đó Tần đánh bại Sở, trở thành nước mạnh nhất
trong thất hùng.
Thứ hai, Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc làm cho xã hội rối loạn, đạo đức
suy đồi, cuộc sống của người dân khổ cực: xã hội diễn ra sự rối loạn về quan hệ
tông pháp, quan hệ giai cấp và danh phận,. Các chư hầu, đặc biệt các nước lớn luôn
phát động các cuộc chiến tranh quy mô lớn nhằm thu phục các nước nhỏ, bắt các
nước nhỏ phải triều cống, làm cho mâu thuẫn trong các tập đoàn xã hội diễn ra gay
gắt dẫn tới sự suy vi của nhà Chu, nhà Chu khơng cịn mạnh để duy trì quan hệ đẳng
cấp và danh phận, quan hệ tơng pháp. Tình trạng tơi giết vua, cha con tranh giành
quyền lợi với nhau, anh em mâu thuẫn với nhau diễn ra thường nhật, ta có thể thấy
vụ Thôi Trữ giết Tề Trang Công, Trần Thành Tử giết Tề Giản Công, sự rối loạn
trong quan hệ tơng pháp có thể thấy những vụ điển hình như Nam Tử - vợ vua Vệ
Linh Công, dâm loạn, gây chia rẽ giữa Khoái Quý và con là Triết. Sở Bình Vương
tranh vợ của con hay Ngũ Tử Tư báo thù cha đem quân Ngô về phá tan đất nước.
Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, đáng sợ nhất là có những cuộc chiến

tuy kẻ địch đã đầu hàng nhưng họ vẫn bị giết, như vụ tướng nước Tần là Bạch Khởi
đã chôn sống bốn chục vạn quân Triệu khi họ đã đầu hàng (năm 260 trước công
nguyên). Chiến tranh đã làm cho dân chúng vô cùng khổ cực, hơn nửa dân số phải
đi lính, người ở nhà phải đóng thuế phần lớn kết quả lao động, điều này được phản
ánh trong Tả truyện dân làm ba phần chỉ được ăn một phần, gạo trong kho mục nát
mà người dân đói rét, thây chất đầy đồng, trong cung chen chúc cung nữ. Những
năm được mùa dân cũng không được hưởng nhiều do triều đình thu đa số sản phẩm
để ni lính, cịn những năm mất mùa thì người già, kẻ bệnh chết la liệt đường,
dưới ruộng. Cuộc sống của người dân được miêu tả rõ nét trong Kinh Thi. Đầu năm,
nơng dân phải tham gia săn bắn lúc khí trời còn rét buốt, săn được lợn rừng phải
mang con to nộp cho quý tộc. Tiếp đó là đào băng và tích băng, nơng dân phải vào
nơi rừng sâu núi thẳm để đào được những tảng băng cứng rắn hơn. Tảng băng đào


×