Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2020 Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.02 KB, 85 trang )

Lời mở đầu
Lạng Sơn là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đông bắc của Tổ quốc, điểm đầu của con
đường huyết mạch ( quốc lộ 1A) nối Việt Nam với nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa và từ đó đến với các nước châu Âu, đồng thời cũng là con đường quan trọng
nối Trung Quốc với các nước ASEAN. Với vị trí địa lý thuận lợi về kinh tế và vô
cùng quan trọng về an ninh - quốc phòng, Lạng Sơn trở thành đầu mối quan trọng
trong giao lưu kinh tế, văn hoá – xã hội và hợp tác kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó,
Lạng Sơn tự hào có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều địa danh đã đi vào
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, có truyền thống văn hoá mang đậm bản
sắc của dân tộc.
Trong mấy năm vừa qua bằng quyết tâm của mình, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn
đã vượt qua được những chặng đường khó khăn, thách thức đã tạo được những
chuyển biến vượt bậc đưa nền kinh tế - xã hội phát triển giữ vững ổn định an ninh
chính trị; từng bước chuyển dịch nền kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển lĩnh vực
thương mại dụch vụ, chú trọng đầu tư phát triển các ngành công nghiệp nhất là
công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.
Để đạt được những thành tựu ấy, có sự đóng góp rất lớn của các hoạt động đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhằm xem xét và đánh giá các hoạt động đầu tư
đó, em đã nghiên cứu và viết đề tài “ Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng
Sơn giai đoạn 2001-2020: Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thu thập và phân tích số liệu, phương
pháp xử lý số liệu thứ cấp và phương pháp so sánh. Kết cấu đề tài ngoài phần mở
đầu và kết luận, gồm hai chương sau:
Chương I: Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2001-2008. Chương này chủ yếu nêu lên tình hình đầu tư của tỉnh trong các năm từ
năm 2001 đến 2008, kèm theo các phân tích, nhận xét và đánh giá.
Chương II: Định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu
tư phát triển tỉnh Lạng Sơn. Trong chương này, em xin đề xuất một số giải pháp
nhằm tăng cường các hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong
giai đoạn 2011-2020.
Qua bản chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phạm Văn Hùng,


người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình làm chuyên đề.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú trong Sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng
Sơn, đặc biệt là các anh chị trong phòng Tổng hợp đã cung cấp tài liệu và có
những ý kiến quý báu về nội dung của bản chuyên đề.
Cuối cùng, em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, những
người đã cho em nghị lực, niềm tin để hoàn thành chuyên đề, cũng như sự chỉ bảo
dạy dỗ em trong quá trình học tập.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do bị hạn chế về kinh nghiệm thực tế và phương
pháp nghiên cứu nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự góp ý của các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, các cô chú trong
sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng Sơn, cùng các bạn để tôi có thể rút kinh nghiệm và
học tập thêm những kiến thức bổ ích nhằm nâng cao chất lượng của chuyên đề.
Lạng Sơn,tháng 4/2009
Sinh viên: Nông Lan Phương









Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Lạng Sơn (2001-2008)
1.1 .Điều kiện kinh tế – xã hội và tự nhiên có ảnh hưởng đến đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn:
1.1.1. Điều kiện tự nhiên:
1.1.1.1.Lợi thế về phát triển kinh tế cửa khẩu, thương mại, du lịch, dịch vụ
Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có đường quốc lộ 1A,

1B, 4A, 4B, 279 đi qua và đường sắt liên vận quốc tế nối các nước Đông, Bắc Âu –
Trung Quốc - Việt Nam – các nước ASEAN, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với
các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông như tỉnh
Quảng Ninh, phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, Thủ đô Hà Nội và phía Bắc tiếp
giáp với khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây của nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa với 2 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu Quốc gia và 7 cặp chợ biên giới, ở
các cửa khẩu như Hữu Nghị, cửa khẩu Ga đường sắt Đồng Đăng, Chi Ma, các cặp
chợ như Tân Thanh, Cốc Nam đã được tỉnh đầu tư khang trang, hiện đại rất thuận
lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá và xuất nhập cảnh của khách du lịch. Lạng
Sơn có điều kiện rất thuận cho việc giao lưu kinh tế, khoa học, công nghệ với các
tỉnh trong cả nước, với Trung Quốc và qua đó sang các nước vùng Trung Á, Đông
Âu, Châu Âu và các vùng lãnh thổ khác…
Với vị trí, điểu kiện thuận lợi, tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng môi trường thuận lợi cho
giao lưu phát triển kinh tế, thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước và
nước ngoài, thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xuất nhập khẩu hàng
hoá, phát triển du lịch, dịch vụ trên địa bàn. Trong những năm qua, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu của tỉnh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng
hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới của các tỉnh phía Bắc.
Ngày 23 tháng 2 năm 2009, với việc hoàn thành cắm cột mốc số 1116 tại cửa khẩu
Hữu Nghị, Lạng Sơn đã ghi dấu ấn tốt đẹp trong những bước phát triển ngoại giao
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây là cầu nối hết sức quan trọng trong việc giao
thương, phát triển kinh tế giữa hai nước. Điều này sẽ tạo điều kiện cho hai Bên hoàn
thành việc đấu nối 2 tuyến đường cao tốc Nam Ninh - Bằng Tường và Lạng Sơn -
Hà Nội trong thời gian tới, tuyến đường huyết mạch để đẩy mạnh phát triển hành
lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội và vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ giữa
hai nước, giúp tăng cường và thúc đẩy phát triển kinh tế cửa khẩu nói riêng cũng
như của cả nước nói chung.
Với vị trí gần Hà Nội, giao thông thuận tiện, được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều
danh lam, thắng cảnh, sản phẩm du lịch phong phú, Lạng Sơn có điều kiện phát
triển đa dạng các loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch cảnh quan… Hệ

thống kết cấu hạ tầng các khu du lịch, hệ thống khách sạn, nhà hàng, các khu vui
chơi, giải trí từng ước được đầu tư nâng cấp…
1.1.1.2.Thế mạnh về phát triển vùng nguyên liệu nông – lâm sản
Tiềm năng đất đai của Lạng Sơn còn rất lớn. Toàn tỉnh có trên 277 nghìn ha đất
lâm nghiệp có rừng: 68,9 nghìn ha đất nông nghiệp; 12 nghìn ha đất chuyên dùng;
4,7 nghìn ha đất ở và trên 467 nghìn ha đất chưa sử dụng, trong đó có khoảng 352
nghìn ha đất có khả năng sử dụng vào mục đích phát triển nông lâm nghiệp.
Rừng Lạng Sơn hiện còn nhiều loại động, thực vật quý hiếm. Lớp thú ở Lạng Sơn
có 8 bộ, 24 họ với 56 loài; lớp chim có 14 bộ, 46 họ với 200 loài; lớp bò sát lưỡng
cư 3 bộ, 17 họ với 50 loài. Các loài động vật không xương sống thuộc bộ mười
chân, bộ thân giáp, bộ hải quỳ… đều có mặt tại rừng Lạng Sơn.
Hơn nữa, điều kiện thổ nhưỡng của Lạng Sơn rất thích hợp cho phát triển các loại
cây trồng như lúa, ngô, chè, thuốc lá, đậu đỗ, các loại cây công nghiệp và cây ăn
quả có giá trị kinh tế cao và các loại cây lâm sản, cây đặc sản như hồi, cây nguyên
liệu giấy. Vì vậy, hướng phát triển của ngành nông – lâm nghiệp Lạng Sơn là khai
thác thế mạnh, tiềm năng về kinh tế đồi rừng, tạo thành các vùng sản xuất hàng hoá
tập trung về cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày có
thế mạnh, các cây lâm nghiệp cho nguyên liệu giấy.
Đến năm 2008, Lạng Sơn đã quy hoạch và xây dựng được một số vùng sản xuất
hàng hoá tập trung như: vùng hồi ở Văn Quan, Bình Gia, Cao Lộc, Văn Lãng, Tràng
Định ( gần 3 vạn ha); vùng na Chi Lăng, Hữu Lũng ( 1.100 ha); vùng vải thiều ở
Hữu Lũng, Chi Lăng ( trên 4.500 ha); vùng quýt Bắc Sơn ( 1.000 ha); vùng nguyên
liệu thuốc lá Bắc Sơn ( 1.500 ha ); vùng chè Đình Lập ( trên 700 ha ); vùng thông,
bạch đàn Lộc Bình, Đình Lập ( trên 45 nghìn ha )…
Sản phẩm nông lâm nghiệp đa dạng, phong phú là cơ sở cho Lạng Sơn đẩy mạnh
phát triển công nghiệp chế biến nông – lâm sản. Tiểm năng lớn này đang được gợi
mở với nhiều dự án kêu gọi đầu tư như: cơ sở sản xuất tinh dầu hồi, trồng và chế
biến chè xuất khẩu, trồng thông và xây dựng nhà máy chế biến nhựa thông…
Những dự án này sẽ là điểm đột phá trong phát triển công nghiệp, đồng thời thúc
đẩy phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp, góp phần thực hiện công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
1.1.1.3.Tiềm năng đầu tư phát triển công nghiệp
Tài nguyên khoáng sản khá phong phú, bao gồm 86 điểm mỏ quặng, khoáng sản
thuộc 19 loại khác nhau. Nhóm khoáng sản kim loại, bao gồm: sắt, mangan, nhôm,
đồng, chì, kẽm, vàng… đều là kim loại quý. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên của Lạng
Sơn lại nghèo các kim loại hiếm, mới chỉ có thiếc. môlíp và thuỷ ngân. Khoáng sản
phi kim loại có than nâu ở mỏ Na Dương với diện tích 150 km; than bùn ở Nà Lò
( Lộc Bình ) và một điểm cách thị trấn Bình Gia 1km về phía Đông Nam. Nguồn
khoáng sản phục vụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng, bao gồm: các loại đá
cacbonat, đá sét, cát cuội, sỏi, cát kết dạng quaczic, sét vôi, đá mafic… chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng nguồn tài nguyên Lạng Sơn.
Nguồn nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng là một trong những thế mạnh,
tạo nền tảng thúc đẩy công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng phát triển thành ngành
công nghiệp mũi nhọn, đó là nguồn đá vôi lớn cho xây dựng và nguyên liệu sét cho
sản xuất xi măng, gạch và gốm. Đến năm 2008, tỉnh có 2 nhà máy xi măng công
suất 8,5 vạn tấn/ năm và 6,5 vạn tấn/năm; hai cơ sở sản xuất gạch nung quốc doanh
công suất 45 triệu viên/năm; một liên doanh sản suất gốm sứ; sản lượng đá xây
dựng khai thác trên 700 nghìn m3/năm. Với tiềm năng hiện có, sản xuất vật liệu xây
dựng đang là hướng ưu tiên đầu tư phát triển của ngành công nghiệp Lạng Sơn. Dự
án xây dựng nhà máy xi măng lò quay công suất 1,4 triệu tấn/năm tại Đồng Bành –
Chi Lăng đang được tích cực triển khai và dự kiến đến quý IV năm 2009 sẽ đi vào
chạy thử.
Về công nghiệp khai khoáng, Lạng Sơn có nhiều tài nguyên khoáng sản chưa được
tập trung khai thác. Toàn tỉnh có 86 điểm mỏ quặng, khoáng thuộc 19 khoáng sản
khác nhau. Đáng chú ý là mỏ than Na Dương, huyện Lộc Bình, trữ lượng khoảng
98,7 triệu tấn, đang được khai thác phục vụ cho nha máy Nhiệt điện Na Dương,
công suất 100MW.
1.1.2.Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1.2.1.Kinh tế:
Nằm trên dải đất biên giới vùng Đông Bắc, với điều kiện địa lý, tự nhiên và giao

thông khá thuận lợi, từ lâu Lạng Sơn đã trở thành điểm hội tụ, giao lưu kinh tế quan
trọng ở phía Bắc.
Nhờ phát huy hiệu quả các tiềm năng sẵn có, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
ước tính trong giai đoạn 2001-2008 tăng trên 10,42%.Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
đúng hướng, tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng tăng từ 13,77 năm 2001 lên
21,39% năm 2008, nông lâm nghiệp giảm từ 49,7% năm 2001 xuống còn 39,34%
năm 2008, tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 36,53% năm 2001 lên 39,27% năm 2008.
Kim ngạch xuất nhập qua địa bàn đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm trên 44,2%,
trong đó hàng xuất khẩu địa phương tăng bình quân hàng năm từ 15-16%. Tổng thu
ngân sách trên địa bàn năm 2008 đạt mức 1.937 tỷ đồng, gấp 1,9 lần năm 2001.
Kinh tế phát triển đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Thu nhập bình quân
đầu người tăng từ 3,44 triệu đồng năm 2001 lên 10,37 triệu đồng năm 2008, tăng
gấp 3 lần; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện và từng bước
nâng cao, nhất là nhân dân ở các vùng đặc biệt khó khăn.
1.1.2.2.Dân số – Lao động:
Lạng Sơn có 757.650 người (năm 2008), bao gồm 7 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh
chiếm 15%, đồng bào các dân tộc thiểu số Nùng, Tày, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông
chiếm gần 85%.
Cơ cấu dân số tỉnh Lạng Sơn trẻ. Nguồn lao động khá dồi dào, với số người dưới 50
tuổi chiếm 87,4%. Đây thực sự là nguồn nhân lực lớn trong tiến trình phát triển kinh
tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng. Nhưng lực lượng lao động của Lạng Sơn
chủ yếu là lao động nông nghiệp, chiếm gần 80% trong tổng số lao động, mặt khác
số lao động qua đào tạo lại chiếm tỉ trọng rất nhỏ, khoảng 10,82% trong tổng số lao
động, số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao rất ít… đó là cản trở lớn
trong việc tiếp nhận các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
1.1.2.3. Văn hoá – xã hội:
Trong tiến trình lịch sử, Lạng Sơn luôn là vùng đất xung yếu, phên dậu bảo vệ độc
lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, cầu nối ngoại giao giữ vững sự hoà hiếu, bình an
cho dân tộc. Không những thế, Lạng Sơn còn là vùng đất sinh dưỡng nhiều người

con ưu tú có công với cách mạng, nhiều tấm gương hy sinh anh dũng bảo vệ quê
hương đất nước.
Không chỉ vậy, Lạng Sơn còn là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch với hàng chục
danh lam thắng cảnh đã đi vào lịch sử thi ca, được cả nước biết đến như động Nhất
- Nhị - Tam Thanh, chùa Tiên, nàng Tô Thị, sông Kỳ Cùng… Đặc biệt, Mẫu Sơn là
địa danh hội đủ những nhân tố cần thiết trong việc phát triển loại hình du lịch sinh
thái, an dưỡng với những nét đặc sắc không thua kém Sa Pa ( Lào Cai ) và Đà Lạt
( Lâm Đồng ) và nhiều di tích lịch sử được xếp hạng như ải Chi Lăng, Mục Nam
Quan, thành nhà Mạc, căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn…
Là nơi chung sống của nhiều dân tộc, Lạng Sơn quy tụ nhiều tập quán đậm đà bản
sắc dân tộc và các lễ hội độc đáo như lễ hội chùa Tam Thanh, lễ hội đền Kỳ Cùng,
lễ hội Kỳ Lừa… Những tập quán sinh hoạt, những phong tục hội hè, những phiên
chợ vùng cao ở đây, những trang phục dân tộc cũng như những điệu hát sli, lượn
đều rất hấp dẫn các nhà nghiên cứu trong nước, quốc tế và khách du lịch. Các lĩnh
vực văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ; công tác giáo dục và đào tạo đạt một số kết
quả quan trọng về nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và thực hiện mục tiêu
quốc gia, đã hoàn thành phổ cập THCS trong năm 2006; các hoạt động văn hoá –
thông tin, thể dục - thể thao được tổ chức với nhiều hình thức đa dạng, các hội chợ,
triển lãm địa phương và quốc tế được tổ chức hàng năm góp phần quảng bá hình
ảnh về mảnh đất và con người Lạng Sơn; diện sóng phủ sóng phát thanh truyền hình
ngày càng mở rộng và tăng vể thời lượng. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân được chú trọng. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và các
vấn đề xã hội khác cũng đạt được những kết quả nhất định. An ninh, quốc phòng
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Đây là những yếu tố tích cực giúp
cho môi trường đầu tư của Lạng Sơn trở nên hấp dẫn và an toàn hơn.
1.1.2.4. Kết cấu hạ tầng:
a. Hệ thống giao thông:
Trong những năm gần đây, cùng với việc triển khai thi công hàng loạt các trục
đường 4A, 4B, đường 279, đường 1B… tỉnh Lạng Sơn đã huy động nhiều nguồn
vốn tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông ở các vùng động lực kinh tế,

khu công nghiệp, khu du lịch, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đến cửa khẩu. Các
tuyến đường huyết mạch trong tỉnh được đầu tư thoả đáng mang lại diện mạo mới
cho hệ thống đường giao thông ở 10 huyện và thành phố Lạng Sơn.
Đến năm 2008, Lạng Sơn đã có mạng lưới giao thông phát triển và phân bố khá
hợp lý. Toàn tỉnh hiện có km đường ô tô, trong đó có 7 quốc lộ với chiều dài 614
km đi qua trung tâm các huyện lỵ, 140 km đường đô thị và chuyên dùng, 4.482 km
đường giao thông nông thôn, liên thôn, liên bản. Lạng Sơn có nhiều cửa khẩu giao
lưu với tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Trong các cửa khẩu Hữu Nghị Quan là cửa
khẩu quốc tế và đều tập trung hai tuyến đường bộ dường sắt mấu chốt nối Việt Nam
vơí Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới, hai nước đã ký kết và đầu tư mở rộng
đường, làm mới nhà ga, xuất nhập cảnh… Đặc biệt hệ thống giao thông phát triển
đã giảm thời gian đi lại của nhân dân trong tỉnh khoảng 30% - 40%. Riêng thời gian
đi trên tuyến đường Lạng Sơn – Hà Nội đã giảm 50%, từ 5 giờ xuống còn 2 giờ 30
phút. Đường sá thuận lợi đưa Lạng Sơn trở thành điểm đến của bạn bè trong nước
và quốc tế, góp phần thúc đẩy giao thương với nước láng giềng Trung Quốc.
b. Hệ thống điện
Lạng Sơn là tỉnh miền núi có nhiều sông, thác và suối nhưng tiềm năng điện tại chỗ
chưa được khai thác. Nguồn cung cấp điện hiện nay của Lạng Sơn hoàn toàn dựa
vào nguồn và hệ thống điện quốc gia, do các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà
và nhiệt điện Phả Lại sản xuất. Hệ thống cung cấp điện hiện có mạng lưới đường
dây tải điện 110Kv, 35 KV, 6 KV và 0,4KV. Có các trạm biến thế với nhiều loại
dung lượng khác nhau.
Điện lực Lạng Sơn đã xây dựng và phát triển mạng lưới điện rộng khắp trên phạm
vi toàn tỉnh, đặc biệt các xã vùng sâu, vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn. Nếu như
năm 1997 nguồn điện của tỉnh chỉ có hai trạm 110kV với tổng dung lượng là 45
nghìn KVA, thì đến năm 2008 tổng dung lượng đã tăng lên 75 nghìn KVA, được
truyền tải trên 128 km đường dây 110kV, 1.167 km đường dây 35kV và 1.400
đường dây hạ thế. Nhờ đó sản lượng điện thương phẩm liên tục tăng qua các năm.
Dự báo trong những năm tới, nhu cầu tiêu thụ điện sẽ tăng mạnh do Lạng Sơn phát
triển nhiều khu kinh tế quan trọng. Điện lực Lạng Sơn đã xây dựng nhiều kế hoạch

phát triển sản xuất điện, cải tạo toàn bộ hệ thống lưới điện tại thành phố, triển khai
mở rộng mạng lưới điện để có năng lực tương đương với hệ thống lưới điện của
tỉnh Quảng Tây ( Trung Quốc ) và đa dạng hoá các loại hình kinh doanh điện…
Việc hoàn thiện hệ thống điện sẽ tạo nên bước đột phá mới trong công cuộc công
nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn.
c. Hệ thống cấp thoát nước:
Nước là một yếu tố không thể thiếu được đối với nhu cầu sử dụng của con người. Ở
Lạng Sơn các sông suối, nguồn nước mặt, nguồn nước ngầm khá phong phú. Trong
những năm qua ở các thị xã, thị trấn của Lạng Sơn chủ yếu là dòng nước ngầm để
cung cấp nước sạch.
Theo thống kê, năm 2008 có 13 nghìn hộ dân và 300 cơ quan nhà nước và cơ sở sản
xuất của thành phố được sử dụng nước sạch, đạt 90% dân số nội thị. Trong nhiều
năm qua, ngành cấp thoát nước Lạng Sơn liên tục đầu tư, cải tạo, nâng cấp các
đường ống dẫn nước. Xác định nhiệm vụ chống thất thoát nước là nhiệm vụ cơ bản
hàng đầu, ngành đã đầu tư hàng tỷ đồng, nâng công suất nhiều trạm bơm từ 1.100
m3/ngày đêm lên 1.900 m3/ngày đêm, cải tạo lắp đặt 50km chiều dài đường ống
các loại, thay thế cải tạo 3.500 đồng hồ đo nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hệ thống cấp thoát nước của Lạng
Sơn vẫn còn nhiều khó khăn. Hệ thống thoát nước và xử lý rác thải chưa hoàn
chỉnh. Phàn lớn lượng nước thải xả trực tiếp vào các kênh mương, ao hồ gây nguy
cơ ô nhiễm cao.
Nói chung ở Lạng Sơn cơ sở hạ tầng cung cấp nước và hệ thống cấp thoát nước so
với các cơ sở hạ tầng khác còn kém phát triển. Trước mắt và cả tương lai cần phải
có những nguồn vốn đầu tư, ưu tiên tập trung giải quyết và cải thiện về vấn đề này.
d. Bưu chính - Viễn thông
Gắn liền với các hệ thống giao thông vận tải , điện, nước, bưu chính viễn thông là
những lĩnh vực cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung và
việc thu hút vốn đầu tư nói riêng.
Trong những năm qua, ngành Bưu chính - Viễn thông tỉnh Lạng Sơn đã nhanh
chóng triển khai nhiều dịch vụ, đầu tư cho các dự án ở cả hai mảng bưu chính và

viễn thông. Năm 2008, Bưu điện tỉnh Lạng Sơn đã đầu tư tăng số điểm phục vụ của
mạng lưới bưu cục tới các nơi tập trung dân cư như thị xã, thị trấn, huyện lỵ,… Hệ
thống bưu điện gồm có: 1 bưu cục cấp I, 32 Bưu cục cấp II, III và các điểm kiốt, đại
lý. Bên cạnh những dịch vụ đang hoạt động tốt như: chuyển tiền nhanh, bưu chính
uỷ thác, bưu phẩm, điện hoa, chuyển phát nhanh EMS ,… Bưu điện tỉnh Lạng Sơn
còn triển khai các dịch vụ: chuyển tiền tới điểm bưu điện – văn hoá xã, mở thêm
dịch vụ phát trong ngày tại 6 bưu cục, các dịch vụ hộp thư thoại, hộp thư thông tin –
âm nhạc, các dịch vụ gia tăng của tổng đài điện tử kỹ thuật số, dịch vụ tài khoản tiết
kiệm cá nhân… Mở rộng mạng truyền dẫn quang, các tuyến cáp quang nội tỉnh kéo
đến các trung tâm xã, cụm dân cư, các nút chuyển mạch cũng được triển khai và
đưa vào sử dụng. Dựa trên trục cáp quang liên huyện, mạng LAN được mở rộng,
tạo điều kiện cho việc ứng dụng phần mềm như thu nợ điện phí, quản lý mạng cáp,
đo kiểm thuê bao,… Phát triển mạng tin học, internet, mạng truyền dẫn số liệu…
Quy mô và chất lượng của các dịch vụ bưu chính - viễn thông trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn ngày càng được mở rộng và hoàn thiện. Đây là một nhân tố rất quan
trọng góp phần nâng cao chất lượng môi trường đầu tư của tỉnh, qua đó tăng cường
và thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực khác.
1.2. Tình hình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2001-2008
1.2.1. Quy mô và xu hướng đầu tư
Quy mô và xu hướng đầu tư được đánh giá thông qua chỉ tiêu tổng vốn đầu tư toàn
xã hội. Vốn đầu tư toàn xã hội bao gồm: vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước
ngoài. Ở phần này chúng ta sẽ đi sâu vào đánh giá tình hình đầu tư chung của toàn
tỉnh. Tại Lạng Sơn vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2001-2008 được thể hiện tại
bảng 1.1 như sau:
Bảng 1.1: Tổng vốn đầu tư xã hội của Lạng Sơn giai đoạn 2001-2008
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng vốn đầu tư
(Tỷ đồng -giá
hiện hành)

1318 1744 2023 2256 1766 1953 2860 3830
Tốc độ tăng
VĐT liên hoàn
(%)
26.29 16.00 11.52 -21.72 10.59 46.44 33.92
Tốc độ tăng vốn
định gốc (%)
26.29 46.49 63.36 27.88 41.42 107.1 177.3
Nguồn: Báo cáo tình hình đầu tư xã hội và đầu tư từ Nhà nước của Lạng Sơn giai đoạn
2001-2008, định hướng đầu tư tong thời gian tới
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh có sự biến động qua các năm, nhìn
chung là năm sau cao hơn năm trước. Tổng vốn đầu tư phát triển của Lạng Sơn giai
đoạn 2001-2008 đạt 17.813 tỷ đổng. Vốn đầu tư qua các năm có sự gia tăng không
đồng đều. Nếu năm 2001 vốn đầu tư đạt 1.381 tỷ đổng thì năm 2002 tăng gấp 1,26
lần, năm 2003 tăng gấp 1,16 lần năm 2002, năm 2004 tiếp tục tăng và gấp 1,11 lần
năm 2003, như vậy từ năm 2001 đến năm 2004 vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh liên tục
gia tăng về giá trị tuyệt đối nhưng tỉ lệ gia tăng có xu hướng giảm dần. Đến năm
2005, vốn đầu tư sụt giảm khá nhiều, chỉ bằng 78,7% so với năm 2004. Nguyên
nhân là do trong năm này tỉnh tập trung ưu tiên giải quyết nợ xây dựng cơ bản tồn
đọng từ những năm trước do đầu tư dàn trải lên đến 347,21 tỷ đồng tính đến hết
năm 2005 ( từ năm 2004 trở về trước là 220,5 tỷ đồng ). Năm 2005 cũng là năm mà
Chính phủ lựa chọn là năm điểm để đấu tranh khắc phục thất thoát và đầu tư dàn
trải và kiên quyết giải quyết tình trạng nợ đọng trong xây dựng đồng thời các địa
phương từ năm 2004 trở đi phải dùng một phần ngân sách địa phương được cấp để
giải quyết nợ đọng xây dựng từ những năm trước. Trong những năm tiếp theo ( từ
năm 2006 đến năm 2008 ), tỉnh tiếp tục giành một phần vốn trong kế hoạch mỗi
năm để thanh toán nợ xây dựng cơ bản tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực này nhất là những doanh nghiệp của tỉnh giảm bớt một phần
khó khăn về tài chính, nhưng điều chỉnh bổ sung vốn đẩy nhanh tiến độ thi công
cho một số dự án cấp thiết, công trình trọng điểm. Nhờ vậy vốn đầu tư trong những

năm này lại tiếp tục gia tăng : năm 2006 tăng gấp 1,1 lần năm 2005, năm 2007 gấp
1,46 lần năm 2006 và năm 2008 tăng gấp 1,34 lần năm 2007.
Bảng 1.1 còn cung cấp cho ta thêm một chỉ tiêu nữa, đó là tốc độ tăng vốn đầu tư
liên hoàn, cho biết tốc độ gia tăng vốn đầu tư của năm sau so với năm trước. Trong
giai đoạn 2001 – 2008, tốc độ gia tăng vốn đầu tư của Lạng Sơn là không đều, có
năm là âm ( năm 2005 với -21,72%) và có năm khá cao (năm 2007 với 46,44%).
Điều này đã được lý giải ở phần trên.
Hình 1.1: Tổng vốn đầu tư phát triển của Lạng Sơn
giai đoạn 2001 - 2008









Nhắc đến quy mô vốn đầu tư ta còn xét đến chỉ tiêu vốn đầu tư/GDP. Để duy trì tốc
độ tăng trưởng cao thì phải có sự gia tăng hợp lý quy mô vốn đầu tư, biểu hiện của
điều này là sự tăng lên của tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP. Sau đây, ta sẽ xem xét
chỉ tiêu này của Lạng Sơn và của cả nước trong giai đoạn 2001-2008:
Bảng 1.2: Tổng đầu tư toàn xã hội so với GDP

(theo giá hiện hành)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Chỉ tiêu
Lạng
Sơn
Cả nước

Lạng
Sơn
Cả nước
Lạng
Sơn
Cả nước
Lạng
Sơn
Cả nước
Lạng
Sơn
Cả nước
Lạng
Tổng vốn
đầu tư
(tỷ đổng)
1381 170496 1744 200145 2023 239246 2256 290927 1766 343135 1953
GDP
(tỷ đồng)
2468 481295 2743 535762 3077 613443 3694 715307 4323 839211 5078
Tổng vốn
đầu
tư/GDP
(%)
55.96 35.42 63.58 37.36 65.74 39 61.08 40.67 40.86 40.89 38.46
Nguồn: Tổng cục thống kê và Niên giám thống kê Lạng Sơn

Qua bảng 1.2 ta có thể thấy được tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP của Lạng Sơn là
tương đối cao, có năm đạt tới 65,74% ( năm 2003). Thế nhưng cũng do sự gia tăng
không đều của vốn đầu tư trong tỉnh qua các năm trong giai đoạn này nên tỷ lệ vốn

đầu tư so với GDP của tỉnh cũng biến động qua các năm. Trong những năm gần
đây, đặc biệt là trong năm 2005 việc tập trung trả nợ xây dựng cơ bản tồn đọng từ
những năm trước khiến vốn đầu tư của tỉnh sụt giảm nên chỉ tiêu này cũng giảm
theo. Nếu so sánh chỉ tiêu này của Lạng Sơn với cả nước ta có thể thấy rõ: tỷ lệ vốn
đầu tư so với GDP của Lạng Sơn chỉ thấp hơn cả nước vào năm 2005 ( 40,86% so
với 40,89%), năm 2006 ( 38,46% với 41,54% ). Điều này chứng tỏ quy mô vốn đầu
tư xã hội của Lạng Sơn là khá cao ( so với cả nước).
Trong những năm tới, bên cạnh việc ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực thế mạnh của tỉnh
là thương mại - dịch vụ - du lịch, tỉnh còn tập trung đầu tư xây dựng một số khu
công nghiệp tập trung như: khu công nghiệp Đồng Bành, Hồng Phong, Na
Dương… Như vậy nguồn vốn cần thiết là khá lớn, nhiệm vụ huy động vốn trong
những năm tiếp theo trở nên hết sức nặng nề. Đặc biệt là trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế toàn cầu và nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào Việt Nam có xu
hướng giảm trong những năm tiếp theo thì vấn đề trên lại càng nan giải.
1.2.2. Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn
Vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tỉnh có được từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm 3
nguồn chủ yếu là : nguồn trong tỉnh, nguồn ngoài tỉnh và nguồn nước ngoài. Trong
giai đoạn 2001-2008, tổng vốn đầu tư huy động được trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn là
17.813 tỷ đồng ( bình quân mỗi năm huy động được khoảng 2226,62 tỷ đồng ). Để
xét cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn trong giai đoạn này ta chia vốn đầu tư thành
những nguồn cơ bản sau đây:
- Vốn ngân sách Nhà nước
- Vốn doanh nghiệp Nhà nước
- Vốn doanh nghiệp và của dân
- Vốn nước ngoài
Bảng 1.3: Vốn đầu tư xã hội theo nguồn
( đơn vị: tỷ đồng )
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng cộng 1381 1744 2023 2256 1766 1953 2861 3830
Vốn ngân sách Nhà

nước
719 732 581 608 738 564 902 1119
Vốn tín dụng đầu tư
phát triển NN
42 280 665 820 70 265 365 285
Vốn doanh nghiệp
Nhà nước
28 31 38 40 38 59 40 390
Vốn doanh nghiệp
và của dân
550 580 610 650 680 865 1326 1669
Vốn nước ngoài 42 121 129 138 240 200 228 367
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn







Bảng 1.4: Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn
(Đơn vị:%)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng cộng 100 100 100 100 101 100 100 100
Vốn ngân sách Nhà
nước
52 42 29 27 42 29 32 29
Vốn tín dụng đầu tư
phát triển NN
3 16 33 36 4 14 13 7

Vốn doanh nghiệp NN 2 2 2 2 2 3 1 10
Vốn doanh nghiệp và
của dân
40 33 30 29 39 44 46 44
Vốn nước ngoài 3 7 6 6 14 10 8 10
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn
Qua bảng 1.3 và 1.4 ta thấy, tỷ trọng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đạt mức cao
nhất và năm 2001 (52%) và có xu hướng giảm dần và đạt mức 29% vào năm 2008.
Năm 2004 là năm mà nguồn vốn Ngân sách ở mức thấp nhất trong tổng đầu tư toàn
xã hội. Còn vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước lại có xu hướng gia tăng không
đều, có năm ở mức thấp như năm 2001 là 3%, có năm lại lên khá cao như năm 2004
chiếm 36% tổng đầu tư toàn xã hội. Đối với vốn DNNN thì nếu chỉ xét từ năm 2001
đến năm 2007 hầu như không biến động nhiều trong cơ cấu vốn đầu tư, và con số
tuyệt đối thì vẫn tăng qua các năm. Nhưng đến năm 2008 thì vốn DNNN lại tăng
đột biến cả về số tuyệt đối và tỉ lệ trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội ( 390 tỷ và
chiếm 10% tổng vốn đầu tư ).
Bên cạnh đó, vốn đầu tư của các doanh nghiệp và trong dân cư lại có xu hướng tăng
dần qua các năm ( cả về số tuyệt đối và tỷ trọng ) và có xu hướng ngày càng chiếm
đa số trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh, nếu năm 2001 là 550 tỷ đồng thì
đến năm 2008 con số này là 1669 tỷ đồng ( tức là gấp 3 lần ).
Vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh cũng tăng nhanh qua các năm, nếu năm
2001 số vốn là 42 tỷ đồng chỉ chiếm 3% thì đến năm 2008 đã tăng lên đến 367 tỷ
đồng và chiếm 10% cơ cấu vốn đầu tư. Điều này nếu xem xét trên phạm vi cả nước
cũng dễ hiểu, bởi sau thời gian suy thoái kéo dài từ năm 1999-2004 làn sóng đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu tăng cao và đột biến trong năm 2008. Tuy nhiên
hiện nay khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn còn rất đáng lo ngại thì trong
những năm tới vốn đầu tư vào Việt Nam có thể sẽ giảm đáng kể, và Lạng Sơn cũng
không đứng ngoài ảnh hưởng đó.
Trên cơ sở những nhận định tổng quát trên, chúng ta sẽ phân tích sâu hơn về mỗi
nguồn vốn.

1.2.2.1. Vốn ngân sách Nhà nước
Bảng 1.5: Vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2001-2008
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Vốn ngân sách Nhà
nước(tỷ đồng)
719 732 581 608 738 564 902 1119
Tỷ trọng trong tổng vốn
đầu tư(%)
52 42 29 27 42 29 32 29
Tốc độ gia tăng liên hoàn
(%)
1.81 -20.63 4.65 21.38 -23.6 59.93 24.06
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn
Nguồn vốn từ ngân sách có một vai trò rất lớn trong việc phát triển đất nước. Đặc
biệt, đầu tư công có ý nghĩa xã hội rất lớn trong định hướng phát triển chung.
Nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước ảnh hưởng lớn tới chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu, các chương trình xoá đói giảm nghèo,
phát triển xã hội, an sinh giáo dục, an ninh quốc phòng… Các khoản phí, thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế đất,… đóng góp vào ngân sách Nhà nước và từ đó Nhà
nước tiến hành chi ngân sách cho các địa phương.
Trong những năm qua, vốn đầu tư tư ngân sách Nhà nước luôn chiếm một tỷ lệ cao
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh Lạng Sơn, trung bình khoảng 35% mỗi
năm. Tuy nhiên nguồn vốn này lại có sự biến động qua các năm, nếu có những năm
tốc độ tăng liên hoàn của vốn lên đến 59,93% thì lại có năm nguồn vốn này suy
giảm mạnh như năm 2003 giảm 20,63% so với năm 2002 và năm 2006 giảm 23,6%
so với năm 2005.
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước được tỉnh tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và hạ tầng xã hội, các chương trình dự án trọng điểm, các khu vực kinh tế,
các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế động lực để hỗ trợ các khu vực kinh

tế khác cùng phát triển. Tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước năm 2001-2008 do
tỉnh quản lý là 5.233 tỷ đồng, trong đó:
- Đầu tư cho lĩnh vực nông lâm nghiệp 569 tỷ đồng, chiếm 10,9%
- Đầu tư lĩnh vực công nghiệp xây dựng 3.431 tỷ đồng, chiếm 65,5%
- Đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ 125 tỷ đồng, chiếm 2,4%
- Đầu tư cho các lĩnh vực xã hội 1.109 tỷ đồng, chiếm 21,2%
Trong giai đoạn 2001-2008, sử dụng nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước đã có trên
750 công trình, hạng mục công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng, với giá
trị tăng thêm là 2.800 tỷ đồng, kết cấu hạ tầng kỹ thuật từng bước được củng cố và
hoàn thiện, góp phần phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
1.2.2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước
Tín dụng Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong đầu tư Nhà nước, nguồn vốn
cơ bản tạo ra sự phát triển dài hạn của nền kinh tế. Mục đích của tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần
kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác
động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền
vững. Bên cạnh đó, nguồn vốn này còn có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng
kể sự bao cấp vốn trực tiếp từ Nhà nước.
Bảng 1.6: Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước trên địa bàn Lạng Sơn
giai đoạn 2001-2008
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Vốn tín dụng đầu tư
(tỷ đồng)
42 280 665 820 70 265 365 285
Tỷ trọng trong tổng
vốn đầu tư ( %)
3 16 33 36 4 14 13 7
Tốc độ gia tăng liên
hoàn (%)

566.7 137.5 23.31 -91.46 278.6 37.74 -21.9
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn
Trong những năm qua, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước có những tác
động nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên trong số những
nguồn vốn mà tỉnh huy động hàng năm thì nguồn vốn này vẫn chưa thực sự chiếm
tỷ trọng lớn ( Năm huy động nhiều nhất là 2004 với 820 tỷ đồng, chiếm 36% còn
năm thấp nhất là 2001 với 42 tỷ đồng và chiếm 3% tổng vốn đầu tư ). Và xu hướng
tăng giảm là không đều nhau và thậm chí còn có sự chênh lệch rất lớn, có những
năm vốn tăng đột biến so với năm trước ( như năm 2002 tăng 566,7% ) và có những
năm giảm sút rất nhiều ( như năm 2005 giảm 91,46% ). Có thể giải thích cho thực
trạng này là do: khi tỉnh có khả năng cân đối vốn thì tỉnh tăng huy động vốn từ tín
dụng đầu tư phát triển Nhà nước, nhưng nguồn vốn này là vốn tín dụng nên khi vay
thì phải trả cả lãi lẫn gốc ( tỷ lệ lãi rất thấp, ở mức ưu đãi ) do đó trong những năm
tiếp theo ( như năm 2005 ) số vốn đầu tư huy động từ nguồn này lại giảm sút.


1.2.2.3. Vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước
Bảng 1.7: Vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
giai đoạn 2001-2008
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Vốn đầu tư của DNNN (tỷ
đồng)
28 38 31 40 38 59 40 390
Tỷ trọng trong tổng vốn
đầu tư (%)
2 2 2 2 2 3 1 10
Tốc độ gia tăng liên hoàn
(%)
35.71 -18.42 29.03 -5 55.26 -32.2 875
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn

Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp Nhà nước được xác
định là thành phần kinh tế quan trọng, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có 37 doanh nghiệp Nhà nước trong tổng số 832 doanh
nghiệp ( tính đến hết tháng 6 năm 2008 ), chỉ chiếm 4,4%. Nhìn vào số liệu của
bảng 1.6, ta thấy trong những năm từ 2001 đến 2007, vốn đầu tư của doanh nghiệp
còn ở mức thấp trung bình khoảng 39,2 tỷ đồng mỗi năm, tỷ trọng của nguồn vốn
này khá ổn định chiếm từ 1-3% cơ cấu vốn đầu tư.Sự tăng giảm qua các năm cũng
không đều, nếu năm 2006 tăng đến 55.26% thì năm 2007 lại giảm đến 32.2%. Để
thấy rõ sự khác biệt của nguồn vốn này so với giai đoạn trước ta xem xét bảng 1.8
sau:




Bảng 1.8: Vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Lạng Sơn giai
đoạn 1996-2000
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Vốn đầu tư của DNNN(tỷ đồng) 133,6 164,8 210,7 265 318
Tỷ trọng trong cơ cấu vốn (%) 33 35 28 29 29
Nguồn: Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1996-2000 của tỉnh Lạng
Sơn
Như vậy trong giai đoạn trước từ năm 1996 đến 2000, vốn của doanh nghiệp Nhà
nước luôn chiếm một tỷ trọng khá cao trong cơ cấu vốn đầu tư của tỉnh ( trung bình
khoảng 30%/ năm ) và năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều này trái ngược hẳn
với giai đoạn từ năm 2001 đến 2007 khi mà tỷ trọng của nguồn vốn này giảm xuống
và chỉ còn chiếm một tỷ lệ rất thấp trong cơ cấu vốn đồng thời luôn biến động qua
các năm. Có thể giải thích điều này là do việc tiến hành cổ phần hoá, sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây như: Công ty cổ

phần xi măng và xây dựng công trình, Công ty cổ phần nông công nghiệp chè Thái
Bình, Công ty cổ phần thương mại tổng hợp… Sự thay đổi này khiến cho nhiều
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, thiếu kinh nghiệm trong quá trình hoạt động nên
không ít doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn tới quy mô vốn bị giảm sút, bên
cạnh đó còn có một sô doanh nghiệp có tình hình tài chính không lành mạnh thậm
chí mất hết vốn Nhà nước và không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
khiến việc tiến hành cổ phần hoá và sắp xếp doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,
phức tạp.
Tuy vậy, năm 2008 số vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh lại
tăng lên một cách ấn tượng với 875% so với năm trước đó, số tuyệt đối là 390 tỷ
đồng, chiếm 10% tổng vốn đầu tư của tỉnh. Có thể nói các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh đã bước đầu khắc phục khó khăn, thích ứng với những điều kiện mới, rút
kinh nghiệm hoạt động của những năm trước để điều hành có hiệu quả hoạt động
của mình, bên cạnh đó không thể không kể đến những hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ hết
sức tích cực của tỉnh uỷ, hôi đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân tỉnh. Tuy nhiên, tỷ
trọng của nguồn vốn này vẫn còn nhỏ so với những nguồn vốn khác như: vốn ngân
sách Nhà nước, vốn đầu tư từ khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác.
1.2.2.4. Vốn đầu tư của khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác
Bảng 1.9: Vốn đầu tư của khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác
trên địa bàn Lạng Sơn giai đoạn 2001-2008
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Vốn đầu tư của KVDC
và các TPKT khác
(tỷ đồng)
550 580 610 650 680 865 1326 1669
Tỷ trọng trong tổng vốn
đầu tư (%)
40 33 30 29 39 44 46 44
Tốc độ gia tăng liên
hoàn (%)

5.45 5.17 6.56 4.62 27.21 53.29 25.87
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn
Vốn đầu tư của khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác bao gồm phần tiết
kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã…
Nhìn vào bảng trên có thể thấy đây là một nguồn vốn hết sức quan trọng, chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư của tỉnh. Nguồn vốn này có xu hướng tăng dần
qua các năm và đặc biệt tăng mạnh vào năm 2007 và 2008 ( tốc độ gia tăng liên
hoàn của lượng vốn trong hai năm này lần lượt là 53,29% và 25,87%). Nếu năm
2001, vốn huy động được là 550 tỷ đồng thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên
gấp hơn 3 lần là 1669 tỷ đồng. Như ở trên ta đã phân tích thì các nguồn vốn như:
vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước, vốn đầu tư của
doanh nghiệp Nhà nước đều có sự biến động qua các năm thì nguồn vốn từ dân cư
và các thành phần kinh tế khác lại khá ổn định và tăng lên mỗi năm.
1.2.2.5. Vốn đầu tư nước ngoài
Bảng 1.10: Vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Lạng Sơn
giai đoạn 2001-2008
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Vốn đầu tư nước
ngoài (tỷ đồng)
42 121 129 138 240 200 228 367
Tỷ trọng trong tổng
vốn đầu tư(%)
3 7 6 6 14 10 8 10
Tốc độ gia tăng liên
hoàn (%)
188.1 6.61 6.98 73.91 -16.7 14 60.96
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn
Tính đến hết tháng 6 năm 2008, toàn tỉnh có 832 doanh nghiệp, trong đó số doanh
nghiệp nước ngoài là 25 doanh nghiệp với số vốn đăng ký 1.557 tỷ đồng, tương
đương với khoảng 92 triệu USD. Có 263 hợp tác xã với vốn điều lệ là 24,5 tỷ đồng.

Trong những năm 2001-2008, vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh có xu hướng
tăng lên ( ngoại trừ sự sụt giảm vào năm 2006 ). Nếu năm 2001 số vốn huy động
được chỉ là 42 tỷ đồng, chiếm 3% tổng vốn đầu tư, đến năm 2002 có sự gia tăng
mạnh mẽ lên đến 121 tỷ đồng, chiếm 7% tổng vốn đầu tư và tăng đến 188,1% so
với năm trước. Trong những năm 2003-2005, vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng
lên một cách đáng kể, năm 2003 là 121 tỷ đồng thì đến năm 2005 con số này đã
tăng lên đến 240 tỷ đồng. Đến năm 2005, lượng vốn này sụt giảm 16,7% so với
năm trước đó. Sang đến năm 2007, vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trở lại và
tăng trưởng khá mạnh vào năm 2008 ( tăng 60,96% so với năm 2007, và tăng 83,5%
so với năm 2005).
Năm 2007 đánh dấu sự khởi sắc trong thu hút đầu tư của tỉnh Lạng Sơn. Các hoạt
động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại được đẩy mạnh; tỉnh tăng cường thực
hiện trao đổi, hội đàm cấp cao giữa lãnh đạo hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Tây
( Trung Quốc ), phối hợp với hai tỉnh là Cao Bằng, Bắc Kạn tổ chức thành công hội
nghị xúc tiến đầu tư vào ba tỉnh; đi đôi với đó, tỉnh tích cực cải thiện môi trường
đầu tư thông qua các nỗ lực cải cách hành chính, cụ thể hoá các chính sách đầu tư,
đẩy nhanh tiến độ xây dựng cac sdự án hạ tầng,và hoàn thành các đề án, dự án quy
hoạch phục vụ cho phát triển kinh tế. Nhờ vậy mà số dự án đầu tư vào tỉnh đã tăng
lên vượt bậc, ví dụ như trong 9 tháng đầu năm 2007 ( tức là ngay trong năm triển
khai các kế hoạch thu hút vốn ở trên ) đã có 95 doanh nghiệp được thành lập với
tổng số vốn đăng ký đạt 175,2 tỷ đồng và cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 18 dự
án, tổng vốn là 2.448 tỷ đồng, trong đó có một số dự án lớn như: 5 dự án Thuỷ điện;
dự án Trung tâm thương mại và Kho vận; dự án Khách sạn 5 sao tại thành phố Lạng
Sơn; dự án tổ hợp thể thao, giải trí; dự án Khai thác và chế biến quặng Bô xít…
Tuy nhiên vốn nước ngoài còn chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong cơ cấu vốn đầu tư ở
Lạng Sơn, năm cao nhất là năm 2005 chiếm 14% còn năm thấp nhất là năm 2001
với 3%. Trong những năm gần đây, với nỗ lực của tỉnh con số này có xu hướng tăng
lên, như trong năm 2008 đã tăng cả về tỷ trọng lẫn số tuyệt đối, đây là một tín hiệu
đáng mừng trong việc huy động vốn phục vụ đầu tư phát triển của tỉnh.







a. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bảng 1.11: Các dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép trên địa bàn Lạng
Sơn giai đoạn 2001-2008
Năm
Chỉ tiêu Đơn vị
Giai đoạn
2001-200
8
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Số dự án
được cấp
Dự án 30 2 4 1 7 1 3 2 8
Tổng vốn
đăng ký
1000
USD
158665 4400 5400 200 47490 27800 4401 662 93200
Tổng vốn
pháp
định
1000
USD
109042 5987 4700 154 21160 27800 3241 537 64300
Nguồn: Phòng hợp tác đầu tư - Sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng Sơn


Trong giai đoạn 2001-2008, có 30 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là
158,665 triệu USD, vốn pháp định là 109,042 triệu USD. Trong đó năm 2008 là
năm thu hút được nhiều dự án đầu tư nhất với 8 dự án và tổng số vốn đăng ký 93,2
triệu USD chiếm đến 58,74% số vốn đầu tư thời kỳ này. Điều này cho thấy hiệu quả
của những hoạt động xúc tiến đầu tư, giao lưu kinh tế mà tỉnh đã tăng cường thực
hiện từ năm 2007 như đã nói ở trên.
Các dự án này chủ yếu của các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc, Hồng Kông, Ma
Cao và Hàn Quốc tập trung vào khai thác các thế mạnh của tỉnh như: trồng rừng,
khai thác và chế biến khoáng sản, các lĩnh vực dịch vụ như bán hàng miễn thuế,
trung tâm thương mại… góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích
cực, phù hợp với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tăng thu ngân sách và phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
b. Vốn ODA và vốn nước ngoài khác
Bảng 1.12: Vốn ODA và vốn nước ngoài khác trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai
đoạn 2001-2008
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Vốn ODA, vốn nước 30 55 55 47 55 35 76 150
ngoài khác ( tỷ đồng )
Tỷ trọng trong tổng vốn
nước ngoài (%)
71 45 43 34 23 18 33 41
Nguồn: Báo cáo về tỉnh hình đầu tư xã hội và đầu tư Nhà nước của Lạng Sơn giai
đoạn 2001-2008, định hướng đầu tư trong giai đoạn tới
Vốn ODA và một số nguồn vốn nước ngoài khác trong giai đoạn 2001-2008 đã gia
tăng khá nhiều, năm 2001 tổng vốn là 30 tỷ đồng, trong hai năm 2002 và 2003 con
số này tăng lên đên 55 tỷ đồng, đến năm 2004 lại giảm xuống còn 47 tỷ đồng, nếu
năm 2005 vốn tăng trở lại năm 2006 là 55 tỷ đồng thì hai năm sau nguồn vốn này
lại tăng trưởng khá mạnh mẽ: năm 2007 đạt 76 tỷ đồng, năm 2008 đạt 150 tỷ đồng.
Đầu tiên, ta xem xét nguồn vốn ODA của Lạng Sơn. Trong giai đoạn 2001-2008
tỉnh đã có 29 chương trình, dự án được triển khai thực hiện với tổng số vốn khoảng

gần 460 tỷ đồng, chiếm khoảng 95% vốn ODA và những nguồn vốn khác. Các dự
án này tập trung chủ yếu vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, xoá đói giảm
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Vốn ODA huy động được chủ
yếu từ các nguồn như: JBIC, WB, ADB, Ngân hàng tái thiết Đức, UNIFEM,…
Lượng vốn còn lại đến từ những hoạt động viện trợ phi chính phủ với tổng vốn
trong giai đoạn này là 33 tỷ đồng chiếm 5% vốn ODA và vốn nước ngoài khác.
Những dự án này cũng tập trung vào các lĩnh vực hệ thống thuỷ lợi, thực hiện các
chương trình y tế như cung cấp một số trang thiết bị cho tuyến y tế cấp thôn, xã,
phường, cho vay tín dụng thông qua Hội phụ nữ quản lý, bảo vệ môi trường, phòng
chống tệ nạn xã hội, kế hoạch hoá gia đình, hướng nghiệp cho thanh niên…
1.2.3. Đầu tư phát triển theo vùng, lãnh thổ
Lãnh thổ Lạng Sơn bao gồm 11 huyện, thành phố: thành phố Lạng Sơn và 10 huyện
là Cao Lộc, Văn Quan, Lộc Bình, Chi Lăng, Văn Lãng, Đình Lập, Tràng Định, Hữu
Lũng, Bình Gia, Bắc Sơn. Trong đó có 4 huyện tiếp giáp với Trung Quốc đó là các
huyện Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc và Lộc Bình. Các huyện còn lại được tiếp
giáp với các tỉnh bạn là: tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên và Cao Bằng.
Điều này cùng với điều kiện kinh tế - xã hội và tài nguyên khoáng sản sẽ quyết định
cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ của tỉnh.
Dựa theo báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các
huyện qua các năm ta có thể tổng hợp được những số liệu thể hiện tại bảng 1.13
như sau:















Bảng 1.13: Tổng hợp vốn đầu tư xã hội của Lạng Sơn theo lãnh thổ giai đoạn
2001-2008
STT Vùng, lãnh thổ
Vốn đầu tư theo giá
hiện hành
( tỷ đồng )
Cơ cấu vốn
(%)
Toàn tỉnh 17813 100
1 Thành phố Lạng Sơn 9084.63 51
2 Cao Lộc 1425.04 8
3 Lộc Bình 1425.04 8
4 Hữu Lũng 1068.78 6
5 Chi Lăng 1068.78 6
6 Văn Quan 605.642 3.4
7 Văn Lãng 570.016 3.2
8 Đình Lập 659.081 3.7
9 Tràng Định 623.455 3.5
10 Bình Gia 641.268 3.6
11 Bắc Sơn 641.268 3.6
Nguồn: Báo cáo của UBND các huyện, thành phố về phát triển
kinh tế - xã hội các năm 2001-2008
Bảng trên đã phản ánh phần nào về cơ cấu vốn đầu tư theo lãnh thổ trên địa bàn
tỉnh. Điều dễ thấy là thành phố là nơi ưu tiên nhận được nhiều vốn đầu tư nhất, tiếp
theo là các huyện Cao Lộc, Lộc Bình, Hữu Lũng và Chi Lăng, các huyện còn lại

nhận được tỷ lệ vốn nhỏ hơn rất nhiều và tương đối bằng nhau.
Vốn đầu tư tập trung nhiều nhất cho thành phố bởi vì:
- Cơ sở hạ tầng của thành phố tốt hơn rất nhiều so với các huyện trong tỉnh. Bên
cạnh đó, thành phố lại tập trung phần lớn các cơ quan, tổ chức đầu ngành của tỉnh
và là khu vực tập trung dân cư sinh sống nhất trong tỉnh.
- Thành phố có nhiều điểm du lịch nổi tiếng, như núi nàng Tô Thị, thành Nhà Mạc,
các động Nhất, Nhị, Tam Thanh…thêm vào đó là một loạt hệ thống chợ nổi tiếng
với số lượng, chủng loại hàng hoá rất phong phú như chợ Đông Kinh, chợ Đêm,
chợ Phú Lộc, chợ Chi Lăng. Mặt khác, ở đây lại có đường quốc lộ 1A đi qua là trục
đường chính nối liền giữa thủ đô Hà Nội và Trung Quốc, là trung tâm thương mại
lớn của tỉnh.
- Điều kiện giao thông thuận tiện và lực lượng lao động dồi dào tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thành lập các nhà máy ở đây. Đặc biệt các nhà máy thuộc lĩnh vực công
nghiệp nhẹ như: nhà máy bánh kẹo, thuốc lá, chế biến tinh dầu hồi,… các khách
sạn, các công ty xuất nhập khẩu,…
Hai huyện Cao Lộc và Lộc Bình sở dĩ có vị trí thứ hai là vì các huyện này đều có
cửa khẩu nối liền giữa Việt Nam và Trung Quốc: huyện Cao Lộc có tới 3 cửa khẩu
qua biên giới trong đó có 2 cửa khẩu quốc tế và 1 cửa khẩu quốc gia, còn 1 cửa
khẩu quốc gia khác nằm trền địa bàn huyện Lộc Bình. Vì vậy mà khối lượng buôn
bán trao đổi trên địa bàn huyện rất lớn và để tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu

×