Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Luận án tiến sĩ Luật học: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.13 KB, 178 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN VĂN NGỌC

ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 9 38 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Đường

HÀ NỘI - 2018

1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi.
Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận án hồn toàn trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được cơng bố trong bất kỳ các
cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phan Văn Ngọc


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ............................................................................. 7
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ........................................................................... 15
1.3. Nhận xét về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn
đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án ....................................................................... 19
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC
HỘI Ở NƯỚC TA ........................................................................................................... 31
2.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta ....... 31
2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương thức và vai trò của đổi mới chế độ bầu cử
đại biểu Quốc hội ở nước ta .............................................................................................. 47
2.3. Kinh nghiệm đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở các quốc gia trên thế giới
........................................................................................................................................... 64
Chương 3: CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC
HỘI Ở NƯỚC TA ........................................................................................................... 71
3.1. Quá trình xây dựng và đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta ............. 71
3.2. Những hạn chế, bất cập của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay .... 87
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẦU CỬ
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .................................................. 112
4.1. Những tiền đề khách quan và phương hướng đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc
hội ở nước ta hiện nay .................................................................................................... 112
4.2. Các giải pháp tiếp tục đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay .. 122
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 148
DANH MỤC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 152
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 170


DANH MỤC

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

Thứ tự

Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1.

ĐBQH

Đại biểu Quốc hội

2.

HĐBCQG

Hội đồng bầu cử Quốc gia

3.

HĐND

Hội đồng nhân dân

4.

HTCT


Hệ thống chính trị

5.

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

6.

UBND

Ủy ban nhân dân

7.

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

8.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ dân chủ, mà ở đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là

thành tựu vĩ đại trong sự phát triển của nhân loại. Chế độ bầu cử trở thành trụ cột
của dân chủ, thể hiện trình độ phát triển của nền dân chủ ở mỗi quốc gia.
Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
14/SL ngày 08.9.1945 về tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội và đặt nền móng
cho sự hình thành chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội. Cuộc Tổng tuyển cử năm 1946
được đánh giá thật sự tự do, thật sự dân chủ, là mốc son lịch sử của thể chế dân chủ
của nước ta [81]. Trải qua các giai đoạn lịch sử của đất nước, chế độ bầu cử đại biểu
Quốc hội có sự thay đổi, góp phần vào q trình xây dựng bộ máy nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng.
Bước vào cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, chủ trương đổi mới, cải
tiến, hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội đã sớm được đặt ra và triển khai
thực hiện. Tuy đạt được những bước phát triển cả về hệ thống pháp luật bầu cử và
thực tiễn tổ chức thi hành nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Bầu
cử cịn mang tính hình thức, quyền bầu cử và ứng cử chưa được bảo đảm một cách
thực chất. Chế độ bầu cử ĐBQH chưa trở thành một công cụ dân chủ trực tiếp hữu
hiệu để nhân dân ủy quyền và kiểm soát quyền lực, buộc đại biểu phải gắn bó chặt
chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Chất lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu chưa đáp
ứng được yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội,
phát huy cơ chế dân chủ đại diện. Thực tiễn đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc
hội trong hơn ba mươi năm qua cho thấy đây là vấn đề khó khăn và hết sức phức
tạp. Giữa quyết tâm chính trị, chủ trương nêu ra trong các Nghị quyết của Đảng và
kết quả thực tế vẫn còn một khoảng cách lớn. Nhận thức lý luận và thực tiễn triển
khai còn thiếu nhất quán, chưa đạt được sự đồng thuận cao.
Chủ quyền thuộc về nhân dân là nền tảng của chế độ dân chủ. Nhân dân là
chủ thể tối cao, duy nhất của quyền lực nhà nước. Thực hành quyền lập hiến và bầu
cử là hai phương thức trực tiếp, cơ bản nhất để nhân dân thực hiện quyền lực của
1


mình. Do vậy, đổi mới chế độ bầu cử nói chung và chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội

nói riêng là một đòi hỏi khách quan. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục luận giải
sâu sắc, tạo sự nhận thức thống nhất về quyền bầu cử; các nguyên tắc và tiêu chí
bầu cử tiến bộ; khái niệm, đặc điểm, nội dung và phương thức đổi mới chế độ bầu cử;
vai trò đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội; về phương thức lãnh đạo của Đảng,
vai trò của Nhà nước và quyền của nhân dân trong bầu cử…
Hiện nay, Đảng và Nhà nước xác định tiếp tục thực hiện chủ trương xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân; phát huy dân chủ, khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển. Hai nhiệm vụ này gắn liền với việc tiếp tục đổi mới chế
độ bầu cử đại biểu Quốc hội để đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong cơ
chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, phát huy hiệu quả của hình thức
dân chủ đại diện. Đồng thời phải đề cao, coi trọng mở rộng dân chủ bằng cơ chế dân
chủ trực tiếp, trong đó bầu cử chân thực và bãi nhiệm đại biểu là những hình thức
dân chủ trực tiếp cơ bản nhất để nhân dân thực hiện chủ quyền, ủy thác và kiểm soát
quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã hiến định những nội dung mới
về nguyên tắc chủ quyền nhân dân và cách thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước; nguyên tắc phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước; quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… Hiến pháp cũng đã quy định Hội
đồng bầu cử quốc gia là một thiết chế hiến định độc lập.
Bối cảnh chính trị - xã hội sau ba mươi năm thực hiện cơng cuộc đổi mới đã
có những chuyển biến sâu sắc, tạo ra những tiền đề khách quan và cũng đặt ra
những đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội. Xây dựng và
vận hành một chế độ bầu cử phù hợp có tác động mạnh mẽ đến việc mở rộng và
phát huy dân chủ, củng cố hệ thống chính trị, tạo sự chính đáng và hợp pháp cho
chính quyền trong điều hành, quản lý đất nước.
Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội
ở nước ta là vấn đề thực sự có tính cấp thiết. Chính vì vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa
chọn chủ đề "Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay" làm

2



đề tài Luận án tiến sĩ luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc
hội, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và các giải pháp tiếp tục đổi mới chế độ
bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng thực sự dân chủ, dựa trên những nguyên tắc
và tiêu chuẩn bầu cử tiến bộ, phù hợp với điều kiện chính trị - xã hội của nước ta
nhằm đáp ứng yêu cầu tôn trọng, bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của công dân,
bầu ra được những đại biểu xứng đáng đại diện cho nhân dân trong Quốc hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nêu trên, Luận án có nhiệm vụ:
- Khảo cứu, đánh giá các cơng trình nghiên cứu về bầu cử, đổi mới chế độ
bầu cử đại biểu Quốc hội ở trong và ngoài nước, rút ra những giá trị tham khảo và
xác định hướng nghiên cứu cho Luận án.
- Khái quát và bổ sung thêm những luận điểm mới về chế độ bầu cử đại biểu
Quốc hội; xây dựng cơ sở lý luận về đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội.
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội qua các
giai đoạn lịch sử, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước; chỉ ra những
tồn tại, bất cập của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp khả thi để tiếp tục đổi mới chế độ bầu cử
đại biểu Quốc hội gắn với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền, mở rộng
và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa theo Cương lĩnh năm 2011 và Hiến pháp 2013.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận về chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội và
đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội; quy định pháp luật về bầu cử đại biểu
Quốc hội; chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc
hội và quá trình đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội từ năm 1986 đến nay;

thực tiễn bầu cử đại biểu Quốc hội trong những nhiệm kỳ gần đây.
3


3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung, Luận án nghiên cứu về đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc
hội dưới góc độ luật Hiến pháp. Trong q trình nghiên cứu, Luận án có đề cập đến
chế độ bầu cử nói chung để có cách nhìn tổng thể, liên hệ đến thực tiễn bầu cử trên
thế giới dưới góc độ so sánh nhằm bổ sung, làm rõ hơn những vấn đề có liên quan.
Về thời gian, Luận án xác định phạm vi nghiên cứu từ năm 1946 để thấy
được quá trình hình thành và phát triển của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội gắn với
đặc điểm chính trị - xã hội ở mỗi giai đoạn, nhưng tập trung chủ yếu vào giai đoạn
từ 1986 đến nay - thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận:
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin; quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền nhân dân, tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền,
bầu cử và đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, Luận án sử dụng các
phương pháp nghiên cứu phổ biến trong nghiên cứu khoa học pháp lý: tổng hợp,
phân tích, đánh giá, bình luận, so sánh, thống kê số liệu, lịch sử cụ thể, phương
pháp tham vấn chuyên gia, phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Các phương pháp được sử dụng cụ thể như sau:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá, bình luận: là phương pháp cơ
bản, được sử dụng để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề đặt ra xuyên suốt Luận án;
- Phương pháp thống kê, phân tích số liệu: sử dụng để nghiên cứu những vấn
đề về thực tiễn bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta;

- Phương pháp so sánh luật học: sử dụng để so sánh, đối chiếu giữa quy định
pháp luật cũng như thực tiễn bầu cử ở Việt Nam với một số nước trên thế giới;
- Phương pháp lịch sử cụ thể: sử dụng để đánh giá quá trình hình thành, đổi

4


mới, phát triển của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội gắn với từng giai đoạn lịch sử.
Luận án sử dụng phương pháp tham vấn chuyên gia để thu thập các nhận
định, đánh giá chuyên sâu của các chuyên gia có kinh nghiệm về bầu cử; sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành luật học, chính trị học và xã hội học để nghiên
cứu một số nội dung đặc thù.
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
- Một là, về phương diện lý luận, Luận án đã luận giải và làm sáng tỏ các
nguyên lý về bầu cử; tiếp cận quyền bầu cử từ chủ quyền nhân dân, dân chủ đại
diện, quyền con người, quyền dân chủ trực tiếp. Từ đó chỉ rõ khái niệm, nội dung
cơ bản và những đặc trưng của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta. Trên cơ
sở đó, Luận án đã xây dựng được khái niệm, chỉ ra đặc điểm, nội dung, phương
thức và vai trò đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội. Đây chính là cơ sở lý luận
góp phần nâng cao nhận thức, thống nhất hành động trong việc đổi mới chế độ bầu
cử đại biểu Quốc hội ở nước ta.
- Hai là, về phương diện thực tiễn, Luận án đã nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triển của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội gắn với những đặc điểm chi
phối của bối cảnh lịch sử đất nước qua từng giai đoạn, nhất là từ khi tiến hành công
cuộc đổi mới đến nay. Đồng thời, Luận án cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập của
chế độ bầu cử trước những biến đổi trên nhiều mặt của đời sống chính trị - xã hội
sau hơn ba mươi năm đổi mới đất nước. Luận án đã phân tích, đánh giá cụ thể
những hạn chế, bất cập theo từng yếu tố cấu thành của chế độ bầu cử đại biểu Quốc
hội trong mối liên hệ với các yêu cầu của quá trình dân chủ hóa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền, thi hành Hiến pháp 2013 trong điều kiện mới. Đây chính là cơ sở

thực tiễn để Luận án đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới chế độ bầu cử đại biểu
Quốc hội ở nước ta hiện nay.
- Ba là, về các phương hướng và giải pháp, trên cơ sở phân tích làm rõ
những tiền đề khách quan, những địi hỏi của thực tiễn, Luận án chỉ ra được những
định hướng đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay. Từ đó,
Luận án phân tích, kiến nghị theo các nhóm giải pháp khác nhau, có tính tồn diện

5


và nhấn mạnh đến một số giải pháp có tính đột phá: (i) Đổi mới tư duy lý luận về
bầu cử, quyền bầu cử, tính đại diện của ĐBQH; (ii) Mở rộng các quyền bầu cử, bảo
đảm thực chất quyền tự ứng cử trên cơ sở quy định chặt chẽ các điều kiện tự ứng
cử, lập danh sách người tự ứng cử không qua hiệp thương; (iii) Xây dựng Hội đồng
bầu cử quốc gia độc lập, gợi mở phương hướng đổi mới hệ thống thiết chế quản lý
bầu cử theo mơ hình hỗn hợp; (iv) Đổi mới cơng tác dự kiến cơ cấu, thành phần đại
biểu, cải tiến quy trình hiệp thương theo hướng dân chủ; (v) Tăng cường tính cạnh
tranh, công khai, minh bạch trong bầu cử thông qua quy trình bầu cử, nhất là vận
động bầu cử; (vi) Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về bầu cử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn
- Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm các luận điểm khoa học
về bầu cử và đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội, về chủ quyền nhân dân, vai
trò đại diện và mối quan hệ giữa đại biểu với cử tri, ủy quyền và kiểm soát quyền
lực nhà nước thơng qua bầu cử. Từ đó, Luận án góp phần đổi mới nhận thức lý luận
về bầu cử, bầu cử đại biểu Quốc hội và đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội.
- Về thực tiễn: Các phương hướng, giải pháp được đề xuất, kiến nghị trong
Luận án được áp dụng để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật về bầu cử đại biểu
Quốc hội cũng như các văn bản pháp luật về bầu cử; đổi mới công tác tổ chức các
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội; các kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài

liệu giảng dạy trong các trường đại học, các cơ sở đào tạo về luật hiến pháp.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục cơng trình nghiên cứu của tác giả
liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận án được
kết cấu gồm 4 chương.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Chế độ bầu cử, bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đổi mới chế độ bầu cử
ĐBQH là vấn đề mang tính chính trị - pháp lý, thuộc đối tượng nghiên cứu của các
ngành khoa học như chính trị học, luật học. Ở nước ta, đã có cơng trình nghiên cứu
chun sâu và có tính hệ thống về chế độ bầu cử nói chung, nhưng chủ yếu vẫn là
các bài viết trên các tạp chí khoa học.
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về bầu cử, chế độ bầu cử
Các cơng trình nghiên cứu về chế độ bầu cử khá phong phú và đa dạng về
thể loại:
- Sách chuyên khảo “Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới” (1997)[1]
của TS. Vũ Hồng Anh tiếp cận khái niệm chế độ bầu cử theo nghĩa rộng là "tổng thể
các quan hệ xã hội có trật tự gắn với cuộc bầu cử", theo nghĩa hẹp là "phương pháp
phân ghế". Cơng trình nghiên cứu khái quát những vấn đề chung về bầu cử, các
nguyên tắc và trình tự tiến hành bầu cử. Pháp luật bầu cử có thể chia thành 3 nhóm:
thủ tục trao quyền bầu cử; tổ chức, tiến hành bầu cử; xác định kết quả bầu cử và
phương pháp phân bổ ghế đại biểu. Đóng góp nổi bật của cơng trình nghiên cứu này
là đã đi sâu mô tả các hệ thống bỏ phiếu và các biến thể của nó, phân tích một số

nội dung rất cơ bản về chế độ bầu cử ở 15 quốc gia.
- Luận án tiến sĩ luật học "Chế độ bầu cử ở nước ta - những vấn đề lý luận và
thực tiễn" (2009) của Vũ Văn Nhiêm [97]. Theo tác giả, chế độ bầu cử là tổng thể
các nguyên tắc, quy định pháp luật về tất cả các nội dung của bầu cử nhằm "chuyển
hóa" ý chí nhân dân thành cơ quan đại diện; khẳng định bản chất của bầu cử là tính
giai cấp, tính xã hội; đề cập đến các vai trò của chế độ bầu cử. Tác giả đã phân tích
và đánh giá thực trạng chế chế độ, chỉ ra những hạn chế, bất cập. Trên cơ sở đó đề

7


xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện chế độ bầu cử từ góc độ nhận thức và
pháp luật. Đây là cơng trình nghiên cứu có tính hệ thống đầu tiên dưới góc độ luật
học về chế độ bầu cử.
- Luận án tiến sĩ chính trị học "Hệ thống bầu cử ở một số nước tư bản phát
triển hiện nay - lý thuyết và hiện thực" (2008) [105] và sách chuyên khảo "Hệ thống
bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp: Lý thuyết và hiện thực" (2009) [106] của TS. Lưu Văn
Quảng. Qua việc phân tích lý thuyết và thực tiễn bầu cử của các nước tư bản phát
triển có nền dân chủ lâu đời (Anh, Mỹ, Pháp), tác giả đã chỉ ra những biểu hiện cụ
thể và những giá trị phổ biến của một chế độ bầu cử dân chủ. Kết quả nghiên cứu
luận án đã đưa ra những gợi mở cho việc đổi mới và hồn thiện cơng tác bầu cử ở
Việt Nam như dân chủ hóa q trình đề cử ứng cử viên trong Đảng, tạo cơ chế cạnh
tranh bình đẳng, áp dụng đơn vị bầu cử một đại diện…
- Luận án tiến sĩ chính trị học "Hồn thiện chế độ bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân ở Việt Nam hiện nay" (2008) [82] của TS. Vũ Thị Loan. Mặc dù đây là
cơng trình nghiên cứu về chế độ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) nhưng
nhiều nhận định, đánh giá có sự liên hệ mật thiết với chế độ bầu cử nói chung. Luận
án tập trung nghiên cứu quy trình bầu cử đại biểu HĐND và thực tiễn bầu cử đại
biểu HĐND cấp tỉnh. Qua đó, đánh giá về sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, về
nhận thức của người dân và các cơ quan, tổ chức trong quá trình bầu cử. Tác giả

cho rằng, Đảng phải nhận thức sâu sắc hơn về bầu cử, đổi mới phương thức lãnh
đạo công tác nhân sự, thực hiện quy trình giới thiệu mở rộng, khơng nên hạn chế
đảng viên tự ứng cử, phải xem cử tri bỏ phiếu cho đảng viên ứng cử đại biểu HĐND
là dịp nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm Đảng [82, tr.172-173].
- Cuốn sách "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp – Cơ sở lý luận và thực tiễn" (2017) [86] của
GS.TS. Phan Trung Lý và TS. Đặng Xuân Phương (Đồng chủ biên) đã nghiên cứu
về bầu cử và bãi miễn đại biểu với tính chất là một hình thức của dân chủ trực tiếp.
Xuất phát từ cách tiếp cận này, các tác giả đã đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu
như: Trách nhiệm của Nhà nước tổ chức để người dân thực hiện quyền bầu cử và
8


ứng cử; thẩm quyền của hội nghị hiệp thương; vấn đề thẩm tra, xác nhận tư cách đại
biểu; cơ chế bảo đảm quyền bầu cử khi có khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về bầu cử;
xây dựng cơ chế pháp lý để cử tri bãi nhiệm đại biểu dân cử...
- Cuốn sách “Phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực với việc sửa đổi
Hiến pháp 1992” (2012) [51] của GS.TS. Trần Ngọc Đường đã nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế thực hiện quyền lực. Cuốn sách đã đề cập và
nghiên cứu chế độ bầu cử với vai trò là một phương thức để kiểm soát quyền lực.
Theo tác giả, bầu cử và bãi miễn đại biểu của cử tri là phương thức để kiểm sốt
quyền lực nhà nước của nhân dân. Dân có quyền bầu thì cũng có quyền bãi nhiệm
những người phụ lịng tin của mình. Do vậy, hồn thiện pháp luật về bầu cử, ứng
cử, bãi nhiệm đại biểu ở nước ta là giải pháp để tăng cường phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân và Nhà nước.
- Cuốn sách “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” (2014) [27] của GS.TS.
Nguyễn Đăng Dung đã dành một chương (Chương V) nghiên cứu về bầu cử với
tính chất là một phương thức để giới hạn quyền lực nhà nước. Theo tác giả, cơ chế
bầu cử ở các chế độ chính trị có thể khác nhau nhưng những yếu tố cơ bản của
chúng giống nhau đối với tất cả các xã hội dân chủ, kể cả dân chủ tư sản lẫn dân

chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Bầu cử trở thành công cụ để giới hạn quyền lực là
do tính định kỳ của các cuộc bầu cử và thơng qua bầu cử người dân có khả năng
thay thế các quan chức được bầu. Sự hạn chế quyền lực bằng bầu cử còn thể hiện
qua việc bãi nhiệm đại biểu khơng cịn sự tín nhiệm của nhân dân. Ngồi nội dung
về hạn chế quyền lực, chương V của cuốn sách cũng đã phân tích sơ lược về lịch sử
của bầu cử, các hình thức bầu cử và những nét chính về chế độ bầu cử ở các nước
có nền dân chủ phát triển.
- Cuốn sách “Bình luận khoa học Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam” (2014) [145] do GS.TSKH. Đào Trí Úc và TS. Vũ Công Giao
đồng chủ biên tập hợp các bài viết của nhiều tác giả, trong đó có các bài viết về bầu
cử. Bài viết “Các thiết chế hiến định độc lập trong Hiến pháp 2013” [145, tr.548554] của TS. Nguyễn Văn Thuận cho rằng, Hiến pháp 2013 quy định Hội đồng bầu
9


cử quốc gia (HĐBCQG) là một thiết chế hiến định độc lập, hoạt động chuyên trách,
thường xuyên. Bài viết đã phân tích những ưu điểm của HĐBCQG độc lập và nêu
ra những yêu cầu cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của HĐBCQG
trong luật bầu cử. Bài viết “Về việc luật định Hội đồng bầu cử quốc gia theo Hiến
pháp 2013” [145, tr.555-562] của TS. Vũ Đức Khiển đề xuất phương án ban hành
văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG tương tự như
luật tổ chức các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Bài viết “Thiết kế bộ máy giúp
việc của Hội đồng bầu cử quốc gia theo Hiến pháp 2013” [145, tr.563-574] của TS.
Vũ Cơng Giao phân tích các mơ hình bộ máy giúp việc cơ quan quản lý bầu cử trên
thế giới và đề xuất thiết kế bộ máy giúp việc cho HĐBCQG là một cơ quan chuyên
trách, thường xuyên và chuyên nghiệp.
Trong những năm vừa qua, những vấn đề lý luận và thực tiễn của chế độ bầu
cử còn được đề cập đến trong các bài viết nghiên cứu:
- Về chủ quyền nhân dân – nền tảng của chế độ bầu cử được đề cập đến
trong bài viết "Bầu cử - Một phương thức để nhân dân trao quyền, ủy quyền và
kiểm soát quyền lực nhà nước" (2011) [50] của GS.TS. Trần Ngọc Đường; "Nguyên

lý chủ quyền nhân dân và biểu hiện của nó trong Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam" (2015) [124] của PGS.TS. Trịnh Đức Thảo và PGS.TS. Nguyễn Thị Việt
Hương; "Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các bản Hiến pháp"
(2012) [118], "Chủ quyền nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam" (2014) [119]
của GS.TS. Phạm Hồng Thái. Các bài viết đã phân tích, luận giải và khẳng định
nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Bầu cử là phương thức nhân
dân trao quyền, ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước. Chế độ bầu cử tự do và
cơng bằng bảo đảm tính hợp pháp, chính đáng của quyền lực nhà nước, quyền lực
chính trị của đảng cầm quyền.
- Về HĐBCQG – thiết chế hiến định độc lập trong Hiến pháp 2013 được
phân tích qua các bài viết "Quản lý bầu cử trên thế giới và những gợi ý cho Việt
Nam" (2013) [55] của TS. Vũ Công Giao, "Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu
cử Quốc gia và việc sửa đổi Luật bầu cử đại biểu Quốc hội" (2014) [88] của TS.
10


Ngô Đức Mạnh; "Bàn về Hội đồng bầu cử quốc gia trong dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 1992" (2013) [52] của GS.TS. Trần Ngọc Đường. Các tác giả đã phân tích,
liên hệ với các mơ hình cơ quan quản lý bầu cử trên thế giới; khẳng định tính chất
hiến định độc lập của HĐBCQG và cho rằng quy định HĐBCQG trong Hiến pháp
là điều kiện cần thiết để tổ chức các cuộc bầu cử công khai, minh bạch, dân chủ; đề
xuất giải pháp để quy định về mối quan hệ, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG.
- Về quy trình hiệp thương bầu cử, các bài viết "Góc nhìn khác về quy trình
hiệp thương giới thiệu ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân" (2016) [87] của ThS. Mai Thị Mai; "Quy trình dân chủ và cơng khai để lựa
chọn giới thiệu người có đủ điều kiện ứng cử đại biểu Quốc hội" (2011) [19] của
ThS. Nguyễn Thanh Bình; "Ý chí nhân dân trong bầu cử và một vài ý kiến góp phần
bảo đảm ý chí nhân dân trong bầu cử ở nước ta" (2006) [73] và "Hiệp thương và
tác động của hiệp thương đến việc phát huy tính tích cực của cơng dân trong thực
hiện quyền bầu cử" (2007) [74] của ThS. Trần Thanh Hương đã lý giải về sự tồn tại

của hiệp thương bầu cử, vai trò của hiệp thương trong giới thiệu người ứng cử, phân
tích thực trạng và chỉ ra những bất cập của hiệp thương.
Ngoài ra, liên quan đến chế độ bầu cử cịn có các bài viết đăng trên các tạp
chí khoa học hoặc sách chuyên khảo, kỷ yếu hội thảo của các tác giả: GS.TS. Phan
Trung Lý; GS.TS. Nguyễn Đăng Dung; GS.TSKH. Phan Xuân Sơn; TS. Lưu Đức
Quang; PGS.TS. Trương Đắc Linh; TS. Trần Đình Thắng... Chế độ bầu cử nói
chung cũng được đề cập đến với tính chất là một chế định của ngành luật Hiến pháp
trong các giáo trình giảng dạy về ngành luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, "Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam" (2014) [78]. Trường Đại học Luật Hà
Nội, "Giáo trình Luật Hiến pháp" (2009) [139]; Trường đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, "Giáo trình bầu cử trong nhà nước pháp quyền" (2011) [99]… đã phân
tích nội dung pháp luật thực định về bầu cử ĐBQH.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội, đổi
mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội
Các cơng trình nghiên cứu về chế độ bầu cử ĐBQH, đổi mới, cải tiến, hoàn
11


thiện chế độ bầu cử ĐBQH có thể kể đến:
- Đề tài cấp bộ "Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới chế độ bầu cử ở Việt Nam
hiện nay" (2014) [127] do GS.TS. Thái Vĩnh Thắng làm chủ nhiệm đã nghiên cứu
những vấn đề lý luận về bầu cử. Nhóm tác giả đề tài đã phân tích nội dung, đánh giá
thực trạng chế độ bầu cử qua 4 vấn đề cơ bản: quyền bầu cử, ứng cử; vận động
tranh cử; đơn vị bầu cử; phương pháp xác định kết quả bầu cử. Đề tài đề xuất giải
pháp sửa đổi, bổ sung và bảo đảm thực hiện các nguyên tắc bầu cử; tổ chức hai loại
đơn vị bầu cử cho đại biểu ở trung ương và đại biểu ở địa phương; áp dụng bầu cử
hai vòng; thành lập HĐBCQG; đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng đối với bầu cử.
- Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ bầu cử ở nước
ta phù hợp với Hiến pháp mới” (2016) [84] do ThS. Đặng Đình Luyến làm chủ
nhiệm đã phân tích về vai trò của chế độ bầu cử, nghiên cứu chế độ bầu cử qua 8

nội dung cấu thành. Điểm mới của đề tài là đã bước đầu phân tích các quy định
trong Hiến pháp 2013 có liên quan đến bầu cử, đánh giá sự tương thích, phù hợp
giữa các quy định của Luật bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu HĐND năm 2015 với
Hiến pháp mới. Từ đó, đề tài rút ra ba vấn đề cần quan tâm nghiên cứu là: (i) Bảo
đảm nguyên tắc bầu cử trực tiếp qua việc khắc phục tình trạng bầu hộ, bầu thay; (ii)
Bảo đảm nguyên tắc bầu cử phổ thông bằng việc tạo điều kiện để cơng dân Việt
Nam ở nước ngồi tham gia bầu cử; và (iii) Xác định tính chất của HĐBCQG là cơ
quan chuyên môn, hoạt động thường xuyên.
- Sách chuyên khảo "Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Quốc hội" (2011)
[85] do PGS.TS. Phan Trung Lý chủ biên đã phân tích, đánh giá thực trạng chế độ
bầu cử ĐBQH ở nhiều khía cạnh như: nguyên tắc bầu cử; tiêu chuẩn, cơ cấu và số
lượng đại biểu; hiệp thương bầu cử; đơn vị bầu cử… chỉ ra những hạn chế, bất cập
trong thực tiễn bầu cử ở nước ta. Tập thể tác giả đã kiến nghị những giải pháp để
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH. Đó là thực hiện việc giới thiệu
ứng cử rộng rãi như cuộc Tổng tuyển cử năm 1946; áp dụng mơ hình một đại diện;
nghiên cứu để tổ chức các đơn vị bầu cử cho các ngành nghề, lĩnh vực; đổi mới
phương thức vận động bầu cử, xây dựng ngân hàng thông tin về ứng cử viên; cải
12


tiến cách thức xác định kết quả bầu cử dựa trên tổng số phiếu bầu…
- Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” (2014)
[59] của Hoàng Minh Hiếu cho rằng, yếu tố bảo đảm đầu tiên cho tính đại diện của
Quốc hội là chế độ bầu cử. Mặc dù không đi sâu nghiên cứu về bầu cử ĐBQH, nhưng
luận án đã đề cập đến thực trạng bầu cử và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện chế độ
bầu cử ĐBQH như áp dụng đơn vị bầu cử một đại diện, bảo đảm quyền bầu cử của
người Việt Nam ở nước ngồi, bảo đảm ngun tắc bình đẳng và cạnh tranh…
- Luận văn thạc sĩ chính trị học "Bảo đảm tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc
hội Việt Nam hiện nay" (2012) [58] của Phạm Thị Phương Hiền nghiên cứu những

vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp để tăng cường tính cạnh tranh
trong các cuộc bầu cử ĐBQH. Theo tác giả, tính cạnh tranh là yếu tố để đánh giá
mức độ dân chủ của bầu cử. Cạnh tranh giúp cho cử tri có cơ hội tốt nhất để lựa
chọn đại biểu; nâng cao chất lượng đại biểu; phát huy tối đa giá trị lá phiếu. Để bảo
đảm tính cạnh tranh, cần có nhiều ứng cử viên tranh cử và họ phải có cơ hội để trình
bày cương lĩnh hay chương trình hành động, có quyền bình đẳng vận động tranh cử,
cử tri phải có đầy đủ thơng tin về ứng cử viên, đơn vị bầu cử có quy mơ hợp lý và
các thiết chế bầu cử thực sự trung lập…
- Các bài viết “Một số suy nghĩ về đổi mới chế độ bầu cử đảm bảo quyền bầu
cử và ứng cử của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”[125] và bài
“Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay”[126] của GS.TS. Thái
Vĩnh Thắng phân tích về thực trạng bầu cử ở nước ta. Tác giả cho rằng, trong bầu
cử ở nước ta tồn tại tư duy Đảng cử, dân bầu, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) hiệp
thương, người dân khơng cịn mặn mà với bầu cử, người tự ứng cử khó có thể vượt
qua vịng hiệp thương và trúng cử. Vì vậy, vấn đề đổi mới tư duy về bầu cử phải
được coi là cấp bách, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội dân chủ thực sự. Bài viết
phân tích những hạn chế của chế độ bầu cử và đề xuất một số kiến nghị đổi mới chế
độ bầu cử, đảm bảo quyền bầu cử, ứng cử của công dân trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền.
13


- Bài viết "Hoàn thiện hơn nữa chế độ bầu cử đại biểu dân cử ở nước ta"
(2011) [48] của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan đã đánh giá những mặt tích cực, phân
tích thực trạng chế độ bầu cử, chỉ ra những hạn chế liên quan đến tính thực chất
trong bầu cử, cơ hội lựa chọn của cử tri khi bỏ phiếu, ý thức và trách nhiệm của cử
tri. Tác giả bài viết đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử, trong đó
cần lưu ý tiêu chí phân bổ ứng cử theo quê quán hoặc nơi làm việc, tăng số lượng
ứng cử viên ở đơn vị bầu cử, giáo dục công dân về bầu cử, tăng cường số lượng đại
biểu chuyên trách, xây dựng cơ chế bãi nhiệm đại biểu…

- Các bài viết “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII – Những vấn đề từ
thực tiễn” (2007) [120], “Các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và XII – Một
số vấn đề đặt ra cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII” (2011) [121], "Xử lý
những tình huống ngồi dự kiến trong bầu cử đại biểu Quốc hội " (2016) [123] của TS.
Bùi Ngọc Thanh đã phân tích những bất cập từ thực tiễn bầu cử như: vấn đề tiêu
chuẩn và cơ cấu; tự ứng cử; lấy ý kiến cử tri; phân bổ ứng cử viên trung ương; bầu
thiếu đại biểu… và đề xuất các giải pháp khắc phục như quy định tiêu chí giới thiệu,
lượng hóa các tiêu chuẩn ĐBQH, điều kiện ứng cử, bầu cử thêm, áp dụng thống
nhất phương thức biểu quyết trong các hội nghị cử tri.
- Bài viết “Đổi mới chế độ bầu cử ở Việt Nam là tiền đề quan trọng trong
việc đổi mới bộ máy nhà nước với việc bảo đảm quyền con người” (2012) [100] của
TS. Vũ Văn Nhiêm. Bài viết đã nêu ra các yêu cầu khách quan để đổi mới chế độ
bầu cử là: (i) Bảo đảm tính đại diện của các cơ cấu xã hội trong các thiết chế dân cử
- Tiền đề trong việc đổi mới Quốc hội và HĐND, cơ sở quan trọng bảo đảm quyền
con người; (ii) Sự thay đổi mạnh mẽ kết cấu xã hội Việt Nam tất yếu phải đổi mới
chế độ bầu cử; và (iii) Dân chủ hóa và bảo đảm quyền con người - xu hướng tất yếu
trong việc đổi mới chế độ bầu cử ở Việt Nam.
- Bài viết "Đảng lãnh đạo công tác bầu cử ở nước ta: Thực trạng và giải
pháp" (2004) [114] của GS.TSKH. Phan Xuân Sơn;"Đổi mới công tác lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bầu cử đại biểu Quốc hội" (2011) [83] của TS. Vũ Thị Loan,
Tống Đức Thảo đã phân tích, đánh giá thực trạng công tác lãnh đạo của Đảng đối
14


với bầu cử ở nước ta nói chung và bầu cử ĐBQH nói riêng, chỉ ra những bất cập
trong lãnh đạo công tác dự kiến cơ cấu, thành phần, giới thiệu nhân sự, lãnh đạo
công tác hiệp thương… Bài viết cũng đã đề xuất những giải pháp về đổi mới nhận
thức, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ để vừa phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng, vừa bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử của công dân.
Chế độ bầu cử ĐBQH, hoàn thiện, đổi mới chế độ bầu cử cũng được đề cập

đến trong các bài viết nghiên cứu đăng tải trên các Tạp chí khoa học, sách chuyên
khảo của các tác giả: PGS. TS. Bùi Xuân Đức, "Thành công của cuộc Tổng tuyển
cử bầu Quốc dân đại hội và những kinh nghiệm giúp hoàn thiện chế độ bầu cử hiện
nay" (2016) [49]; GS.TSKH. Phan Xuân Sơn, "Thực trạng và giải pháp đổi mới
công tác bầu cử ở nước ta" (2007) [115]; Lưu Văn Quảng, "Đổi mới công tác bầu
cử để có một Quốc hội mang tính đại diện cao" (2007) [104]; TS. Lê Thanh Bình,
"Thực hiện pháp luật về bầu cử và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở
Việt Nam" (2014) [18]; ThS. Hoàng Minh Hội, "Thực trạng thực hiện quyền bầu cử,
ứng cử của công dân và một số đề xuất nâng cao việc thực hiện quyền bầu cử, ứng
cử ở Việt Nam hiện nay" (2014) [61].
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở trên thế giới, vấn đề về bầu cử đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu
theo hai lĩnh vực là pháp lý và chính trị.

1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu về bầu cử, chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội
- Cuốn sách "Free and Fair Elections" (2006) [180], "Bầu cử tự do và công
bằng", của Guy S.Goodwin-Gill do Liên minh Nghị viện thế giới xuất bản dưới sự
tài trợ của Viện nghiên cứu quốc tế về Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử (International
IDEA). Cuốn sách đã đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của hệ thống các
quy định về tiêu chí bầu cử tự do và công bằng trong các điều ước quốc tế, sự
chuyển hóa các tiêu chuẩn mang tính tồn cầu thành các quy định mang tính khu
vực và được nội luật hóa phù hợp với điều kiện, bối cảnh của mỗi nước trong tiến
trình cải cách chính trị, mở rộng dân chủ. Cơng trình nghiên cứu đã phân tích các

15


tiêu chí về tự do và cơng bằng trong bầu cử thông qua các quy định cơ bản về quyền
bầu cử, ứng cử; đăng ký bỏ phiếu; quyền và nghĩa vụ của ứng cử viên và các đảng
phái chính trị; vận động bầu cử; cách thức tổ chức bầu cử; hệ thống các tổ chức phụ

trách bầu cử; kiểm tra và giám sát bầu cử; vai trị của truyền thơng bầu cử; quyền
của các nhóm yếu thế (phụ nữ, dân tộc thiểu số…) tham gia vào quá trình bầu cử;
trách nhiệm của nhà nước bảo đảm bầu cử tự do và công bằng...
- Cuốn sách "Challenging the Norms and Standards of Election
Administration" (2007) [181], "Thách thức đối với các quy tắc và tiêu chuẩn trong
quản lý bầu cử", của các tác giả Jarrett Blanc, Steven Clift, Jeremy Grace, Lisa
Handley, Marcin Walecki tiến hành nghiên cứu dưới sự tài trợ của Cơ quan phát
triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã phân tích những tác động của các yếu tố: bỏ
phiếu điện tử; hệ thống internet; hoạt động bầu cử của cử tri ở nước ngoài; phân
chia khu vực bầu cử và tài chính đến những chuẩn mực, quy định chung đối với
việc quản lý bầu cử.
- Ấn phẩm "USA Elections in Brief" (2012), "Tóm lược bầu cử ở Hoa Kỳ"
[23], của Chương trình thơng tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ; "American Life
and Institutions" (1996), "Cuộc sống và các thể chế ở Hoa Kỳ" [24], của Doughlas
K. Stevenson (Bản dịch tiếng Việt năm 2008) đã giới thiệu về các loại hình bầu cử,
điều kiện ứng cử viên, vai trị của các đảng phái chính trị và rào cản đối với đảng
phái thứ ba, hoạt động đề cử và bầu cử sơ bộ, vận động bầu cử, tài trợ tranh cử, thủ
tục bầu cử, quản lý bầu cử, hành vi của cử tri, xu hướng vận động cải cách bầu cử…
Dưới góc độ chính trị học, trong tác phẩm "Factors in a two party and
multiparty system" (1972) [190], "Các nhân tố trong hệ thống hai đảng và hệ thống
đa đảng", Maurice Duverger đã tập trung nghiên cứu hệ thống bầu cử ở nhiều nước
trên thế giới và chỉ ra mối quan hệ giữa hệ thống bầu cử và các đảng phái. Trong
cuốn "Parliament and Democracy in The Twenty-first Centery" (2006) [179], "Nghị
viện và Dân chủ trong thế kỷ 21", David Beetham đã phân tích vai trị của nghị viện
– sản phẩm của bầu cử trong việc thực thi dân chủ. Trong các tác phẩm "Nations
and Governments: Comparative politics in regional perspective" Sixth Edition
16


(2011) [196], "Quốc gia và Chính phủ: Chính trị so sánh từ góc nhìn khu vực", của

Thomas M. Magstadt; "Comparative politics – political economy, polictical culture,
and political interdependence" (2005) [192], "Chính trị so sánh – kinh tế, văn hóa
và sự phụ thuộc lẫn nhau", của Monte Palmer đã chỉ ra sự khác nhau về hệ thống
bầu cử ở mỗi nước và cho rằng việc áp dụng hệ thống bầu cử tùy thuộc vào các yếu
tố lịch sử, chính trị, văn hóa của nước đó.

1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội
- Bài viết "Reconceptualising Electoral Reform" (2011) [191], "Định nghĩa
lại về cải cách bầu cử" của các tác giả Monique Leyenaar và Reuven Y. Hazan đã
phân tích quan niệm về cải cách bầu cử. Theo các tác giả, các quan niệm cho rằng
cải cách bầu cử là sự "thay thế ở quy mô lớn các công thức bầu cử của hệ thống bầu
cử" (thay đổi cơng thức tính phiếu, chuyển đổi hệ thống bỏ phiếu) hay phải cố gắng
để đo lường mức độ thay đổi (20% ngưỡng bầu cử, phạm vi đơn vị bầu cử) là khơng
thích hợp. Cũng khơng thể phân chia cải cách thành "cải cách lớn", "cải cách nhỏ",
"cải cách kỹ thuật" để nghiên cứu vì khơng có cơ sở. Các tác giả đã đề xuất quan
niệm về cải cách bầu cử một cách rộng rãi hơn, đó là bất kỳ sự thay đổi nào của
pháp luật về tiến trình bầu cử.
- Bài viết "Catalysts and barriers: Explaining electoral reform in Western
Europe" (2016) [188], "Giải thích các điều kiện thúc đẩy và rào cản cải cách bầu
cử ở Tây Âu", của Lidia Nunez và Kristof T.E. Jacobs được viết trên cơ sở khảo cứu
thực nghiệm 23 cuộc cải cách ở 16 nước Tây Âu từ năm 1975 đến 2005. Các tác giả
cho rằng cải cách bầu cử có thể bị cản trở bởi 3 yếu tố: (i) Thủ tục, do các quy định
liên quan đến bầu cử ở trong Hiến pháp nên việc thay đổi đòi hỏi một thủ tục phức
tạp, không dễ đạt được; (ii) Cản trở của cơ quan tư pháp thơng qua tịa án hiến pháp
để giải thích về tính hợp hiến của hệ thống bầu cử hiện hành; và (iii) Quyền lợi của
đảng chính trị chiếm đa số đang được hưởng lợi từ hệ thống bầu cử. Theo chiều
ngược lại, cải cách bầu cử được thúc đẩy bởi 3 yếu tố khác: (i) Liên minh chính trị
tạo sức ép để thỏa thuận chia sẻ lợi ích; (ii) Khủng hoảng hệ thống quản trị của một
quốc gia; và (iii) Thái độ bất mãn của cử tri trước hệ thống bầu cử hiện hành.
17



- Cuốn sách "Electoral Management Bodies as Institutions of Governance"
(2000) [194], "Cơ quan quản lý bầu cử với tính chất là các thiết chế quản trị", của
GS. Rafael López-Pintor nghiên cứu về tổ chức và hoạt động các cơ quan quản lý
bầu cử ở nhiều quốc gia trên thế giới. Cuốn sách đã tập trung phân tích đặc điểm
các mơ hình cơ quan quản lý bầu cử và thực tiễn vận hành ở nhiều quốc gia. Từ việc
khảo cứu thực tế, tác giả đã chỉ ra xu hướng cải cách bầu cử là chuyển đổi các cơ
quan quản lý bầu cử sang mơ hình độc lập, chun trách và thường xuyên, đặc biệt
là ở các quốc gia có nền dân chủ mới nổi hoặc chuyển đổi chế độ chính trị. Vị trí,
vai trị, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan này cần phải được quy định trong hiến
pháp thay vì các văn bản luật. Các tiêu chuẩn thành viên và cơ chế bổ nhiệm là yếu
tố hàng đầu để các cơ quan quản lý bầu cử thực sự độc lập, khách quan và dễ được
các bên tham gia tranh cử cũng như dân chúng chấp nhận.
- Cuốn sách "Electoral System Design: The New International IDEA
Handbook" (2005) [176], "Thiết kế hệ thống bầu cử: Cẩm nang mới của
International IDEA", của tập thể tác giả Andrew Reynolds, Ben Reilly và Andrew
Ellis cùng các cộng sự đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của hệ thống bầu cử, phân
tích các đặc điểm và hệ quả của từng hệ thống, nêu ra các tiêu chuẩn thiết kế và các
yếu tố cần cân nhắc khi lựa chọn hệ thống bầu cử. Tập thể tác giả cho rằng, bối
cảnh chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi nước là yếu tố quan trọng để áp dụng một hệ
thống bỏ phiếu phù hợp với những thay đổi thích hợp. Việc thiết kế và áp dụng một
hệ thống bỏ phiếu cần tuân theo các tiêu chuẩn, hướng tới một số mục tiêu được xác
định trước, không chỉ đáp ứng các yêu cầu hiện tại mà còn có khả năng cải tiến, đổi
mới để phù hợp với những thay đổi trong tương lai. Cơng trình nghiên cứu đã khái
qt các mơ hình hệ thống bỏ phiếu cơ bản và các biến thể. Kết quả khảo sát cho
thấy tỷ lệ các nước sử dụng từng loại hệ thống bỏ phiếu, sự chuyển đổi mơ hình hệ
thống bỏ phiếu phù hợp với sự thay đổi về điều kiện chính trị - xã hội.
- Cuốn sách "Electoral Management Design: The New International IDEA
Handbook" (2006) [177], "Thiết kế hệ thống cơ quan quản lý bầu cử: Cẩm nang

mới của International IDEA", của tập thể tác giả Alan Wall, Andrew Ellis, Ayman
Ayoub, Carl W. Dundas, Joram Rukambe và Sara Staino được nghiên cứu và xuất

18


bản dưới sự hỗ trợ của International IDEA. Cơng trình khảo sát mơ hình tổ chức hệ
thống các cơ quan quản lý bầu cử trên thế giới, phân tích quyền hạn, nhiệm vụ và
thực tiễn hoạt động và rút ra các kinh nghiệm tham khảo. Việc thiết kế mơ hình hệ
thống các cơ quan quản lý bầu cử cần bảo đảm để hoạt động của hệ thống mang tính
độc lập, công bằng, trung thực, minh bạch, hiệu quả và chuyên nghiệp. Muốn đạt
được điều đó, các cơ quan quản lý bầu cử phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động
như: độc lập, công bằng, trung thực, minh bạch, hiệu quả, chuyên nghiệp và tinh
thần phục vụ. Theo tập thể tác giả, có ba mơ hình: (i) Mơ hình độc lập; (ii) Mơ hình
thuộc chính phủ; và (iii) Mơ hình hỗn hợp.
- Cuốn sách "Electoral Justice: The International IDEA Handbook" (2010)
[182], "Tư pháp Bầu cử: Sổ tay IDEA quốc tế", của tác giả Jesus OrozocoHenriquez được nghiên cứu và xuất bản dưới sự hỗ trợ của International IDEA là
một nghiên cứu chuyên sâu về giải quyết tranh chấp bầu cử (quy trình bầu cử,
quyền bầu cử, ứng cử và kết quả bầu cử) bằng thủ tục tư pháp. Đồng thời mở rộng,
phân tích cơ chế giải quyết tránh chấp bầu cử bằng con đường hành chính. Nghiên
cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp ở nhiều nước, tác giả cho rằng thành lập cơ quan
giải quyết bầu cử độc lập là xu hướng chung. Để bảo đảm vị thế độc lập cho cơ
quan này, thì vị trí, chức năng, nhiệm vụ phải được quy định bởi hiến pháp và luật;
tổ chức và hoạt động của nó cần tuân thủ các nguyên tắc và được bảo đảm bởi các
điều kiện thuận lợi, nhất là về tổ chức và tài chính.
Có thể thấy các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi khá đa dạng và ln đặt
trong bối cảnh Hệ thống chính trị (HTCT) đa đảng. Do vậy, q trình nghiên cứu
cần có một cách nhìn đa chiều trong việc đánh giá các kết quả đạt được.
1.3. Nhận xét về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
và những vấn đề tiếp tục nghiên cứu trong luận án


1.3.1. Các kết quả đạt được trong các cơng trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài Luận án
Khảo cứu các cơng trình nghiên cứu ở trong và nước ngoài cho thấy những
kết quả nổi bật sau:

19


1.3.1.1. Về lý luận chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội và đổi mới chế độ bầu cử
đại biểu Quốc hội
Mặc dù chưa trực tiếp nghiên cứu về chế độ bầu cử ĐBQH và đổi mới chế
độ bầu cử ĐBQH, nhưng kết quả thể hiện trong các cơng trình, bài viết nghiên cứu
về chế độ bầu cử có giá trị tham khảo, nâng cao nhận thức trong việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận của Luận án:
- Nhận thức, lý luận về chủ quyền nhân dân - nền tảng của chế độ bầu cử ngày càng rõ hơn cả về nội dung và phương thức thực hiện. Quyền lực nhân dân
được khẳng định là quyền lực tối cao và là quyền lực gốc, quyền lực nhà nước và
quyền lực chính trị là các quyền lực phái sinh. GS.TS. Trần Ngọc Đường nhấn
mạnh, nếu còn mơ hồ hay phân vân về chủ thể quyền lực nhà nước thì khơng thể tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước một cách thông suốt và hiệu quả [51, tr.175];
- Khẳng định quan điểm đảng chính trị có được quyền lực chính đáng thông
qua con đường bầu cử dân chủ và tiến bộ. "Đảng nắm quyền lực phải được lòng
dân, phải được đa số trong xã hội ủng hộ thông qua các cuộc bầu cử" [117, tr.75].
Chế độ bầu cử không những là cơng cụ bảo đảm vai trị lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, mà nó cịn bảo đảm sự lãnh đạo đó hợp pháp nhất [97, tr.162]. Đó cũng là
cơ chế hữu hiệu bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân [106, tr.155];
- Khái niệm "chế độ bầu cử" và những nội dung cấu thành của chế độ bầu cử
được phân tích, làm sáng tỏ từ các góc độ khác nhau, nhất là về đặc trưng, ưu điểm,
hạn chế của các hệ thống bỏ phiếu và mơ hình cơ quan quản lý bầu cử [176] [177]
[194]. Các tiêu chuẩn cơ bản về bầu cử tự do và công bằng được thừa nhận, khẳng

định là những giá trị mang tính phổ qt của nền dân chủ, khơng phân biệt chế độ
chính trị. Chế độ bầu cử dân chủ thể hiện: (i) Cơ quan lập pháp và các vị trí đứng
đầu chính quyền được bầu ra qua phổ thơng đầu phiếu; (ii) Cạnh tranh giữa các ứng
cử viên; (iii) Bầu cử định kỳ; (iv) Tranh cử công bằng; (v) Công dân có quyền bầu
cử và ứng cử; và (vi) Cơng chúng có quyền được thơng tin và tiếp cận thơng tin về
bầu cử [117, tr.77-78];

20


- Bầu cử không chỉ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước. Vai trò của
bầu cử được phân tích sâu sắc từ các phương diện: (i) Xác định tính chính đáng,
hợp pháp của quyền lực nhà nước; (ii) Phương thức để nhân dân ủy quyền, lựa chọn
người cầm quyền; (iii) Kiểm soát quyền lực nhà nước; (iv) Tạo diễn đàn cạnh tranh
của các xu hướng chính trị; (v) Xây dựng sự đồng thuận xã hội, giải quyết xung đột
bằng phương pháp hịa bình [97, tr.29-42] [105, tr.22-39] [128, tr.280-284];
- "Cải cách bầu cử" – khái niệm gần với "đổi mới chế độ bầu cử" – được tiếp
cận theo nghĩa rộng, đó là sự thay đổi của hệ thống bầu cử [186] [187] [188]. Tuy
nhiên, không phải mọi thay đổi đều được xem là cải cách bầu cử. Chỉ những thay
đổi đem đến sự cải thiện về tính cơng bằng, tồn diện, minh bạch, liêm chính và
chính xác trong tổ chức và quản lý bầu cử [177, p.295] [183, pp.11-12] mới được
xem là cải cách bầu cử; Những cuộc cải cách bầu cử tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ
thống bầu cử diễn ra trong bối cảnh: (i) Quá trình chuyển đổi nền dân chủ; (ii)
Khủng hoảng về quản trị trong nền dân chủ [176, p.20], được thúc đẩy hoặc bị cản
trở bởi các yếu tố khác nhau [188].
1.3.1.2. Về quá trình hình thành, phát triển và thực trạng chế độ bầu cử đại
biểu Quốc hội, đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội
Từ mục đích nghiên cứu để cải tiến, hoàn thiện chế độ bầu cử, các học giả đã
phân tích khái quát các đặc điểm của chế độ bầu cử qua các giai đoạn là những tư
liệu thực tiễn có giá trị tham khảo, giúp Luận án đi sâu phân tích, chứng minh, làm

sâu sắc thêm thực trạng chế độ bầu cử ĐBQH ở nước ta hiện nay:
- Quá trình hình thành, phát triển của chế độ bầu cử mà trọng tâm là chế độ
bầu cử ĐBQH đã được các tác giả phân chia gắn với sự ra đời của các bản Hiến
pháp, chỉ ra những đặc điểm nổi bật của chế độ bầu cử trong mỗi giai đoạn [97,
tr.74-84] [166, tr.299-307].
- Nội dung pháp luật thực định về bầu cử nói chung và bầu cử ĐBQH nói
riêng được phân tích trong các bài viết, các cơng trình nghiên cứu, nhất là trong các
giáo trình giảng dạy về luật hiến pháp. Tuy cịn có sự khác nhau nhất định, nhưng

21


×