Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch: bài thuyết minh hướng dẫn tour du lịch quanh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.93 KB, 38 trang )

--------   ----  -------Xin chào tất cả các quý khách! Trước khi lên xe, tôi cũng đã đứng nói
chuyện với một số anh chị trong đồn chúng ta, nhưng để tất cả mọi người
đều biết thì tơi xin giới thiệu kỹ hơn. Tôi tên Nguyễn Thu Hường, là hướng
dẫn viên du lịch của công ty du lịch Viettravel. Ngày hôm nay, tôi rất vinh dự
và vui mừng khi được dẫn đoang đi thăm quan một số điểm di tích tiêu biểu
của Hà Nội. Và để giúp cho chuyến đi của chúng ta được an toàn, đúng giờ,
đúng lịch trình thì khơng thể thiếu được sự có mặt của anh Sơn lái xe của
công ty chúng tôi. Xin mọi người cho anh một tràn pháo tay….Cám ơn quý
khách rất nhiều!
Sau đây tôi xin giới thiệu sơ qua về lịch trình chuyến tham quan của
đồn chúng ta ngày hơm nay để tất cả mọi người trong đoàn đều nắm bắt
được. 8h chúng ta xuất phát từ cổng trường Đại học Văn hoá Hà Nội đi đến
điểm tham quan đầu tiên là khu di tích Đền Ngọc Sơn - một ngơi đền nổi
tiếng của Hà Nội. Kế tiếp, đoàn chúng ta sẽ đi thăm Bắc Bộ phủ - nơi đã từng
là trụ sở của chính quyền Bắc Kỳ, thời dân tộc tôi chống thực dân Pháp xâm
lược. Điểm tiếp theo mà chúng ta dừng chân sẽ là Nhà Hát lớn - một trong
những trung tâm văn hố chính trị lớn của Thủ đô. Và điểm cuối cùng chúng
ta tham quan là Trung tâm thương mại Tràng Tiền Plaza. 11h30' đoàn chúng
ta sẽ về khách sạn và ăn trưa tại đó.
Lộ trình sẽ là :
- Đại học Văn hoá Hà Nội - Giảng Võ - Nguyễn Thái Học - Hai Bà Trưng Hàng Bài - Đinh Tiên Hoàng (Đền Ngọc Sơn)
- Hai Bà Trưng (Tràng Tiền Plaza) - Hai Bà Trưng - Nguyễn Khuyến - Cát
Linh - Giảng Võ - Đại học Văn hoá Hà Nội.
Vâng, thưa quý khách! Chúng ta đang trên xe xuất phát từ Đại học Văn
hoá Hà Nội ra đường Giảng Võ. Q khách hãy nhìn sang phía bên tay trái đi
ạ! Đó là trung tâm hội chợ triển lãm Giãng Võ. Đây là trung tâm triển lãm lớn
1


nhất miền Bắc... Hàng năm, tại đây có nhiều cuộc triển lãm, hội chợ thương
mại trong nước và quốc tế được tổ chức, nổi bật là Hội chợ Xuân dịp Tết


Nguyên đán của nước chúng tôi, Hội chợ quốc tế Vietnam EXPO (vào tháng
4), Hội chợ quốc tế Hà Nội (vào tháng 10) cùng các triển lãm chuyên ngành
đa dạng. Các hội chợ, triển lãm này do Trung tâm Hội chợ triển lãm Việt Nam
đứng ra tổ chức hoặc một đơn vị có chức năng tổ chức hội chợ, triển lãm khác
đứng ra tổ chức và thuê địa điểm tại đây.
Ngoài ý nghĩa kinh tế, một số hội chợ, triển lãm tổ chức tại đây cịn
mang ý nghĩa chính trị, do các cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức, như Hội
chợ quốc tế Hà Nội, Hội chợ Triển lãm Thương mại Việt Nam - WTO.
Các hội chợ, triển lãm diễn ra tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt
Nam thu hút khá nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đến giao thương,
trưng bày giới thiệu và bán sản phẩm, ký kết hợp đồng. Nhờ có địa điểm
trung tâm, các hội chợ, triển lãm tổ chức tại đây thu hút được khá nhiều khách
tham quan và người tiêu dùng. Ngoài các hội chợ, triển lãm, Trung tâm Hội
chợ Triển lãm Việt Nam còn là nơi diễn ra các hoạt động giải trí khác như các
chương trình ca nhạc.
Q khách có để ý thấy toà nhà cao tầng, ở ngay ngã tư đây khơng ạ?
Đó là khách sạn Horison. Khách sạn có kiến trúc khá đẹp với những hàng cọ
nhiệt đới trồng phía trước. Khách sạn Hà Nội Horison là khách sạn 5 sao nằm
ngay cạnh phố Cát Linh và Giảng Võ, gần với các đại sứ quán và các văn
phòng chính phủ, các tổ chức thương mại, các điểm du lịch và gần với trung
tâm triển lãm Giảng Võ. Khách sạn được quản lý bởi tập đoàn quốc tế SwissBelhotel. Đường Giảng Võ có hai đoạn phân cách nhau rõ rệt bởi ngã tư Cát
Linh. Đoạn đường trên mà chúng ta vừa đi qua khá sạch đẹp, còn đoạn đường
này do người dân chủ yếu làm nghề sắt thép nên cũng hơi mất mỹ quan, có
khi cịn lấn chiếm vỉa hè của người đi bộ.
Qua đường Giảng Võ là đến đường Nguyễn Thái Học. Con đường này
tập trung khá đông dân cư và những cửa hàng buôn bán tấp nập. Tên đường
2


được lấy từ tên của một nhà Cách mạng Việt Nam. Nguyễn Thái Học là người

đã chủ trương dùng vũ lực lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp để thành lập
một nước độc lập Việt Nam Cộng Hịa. Ơng sáng lập Việt Nam Quốc Dân
Đảng (VNQDĐ) năm 1927 và lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930.
Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị Pháp áp giải từ ngục thất Hỏa Lò ở Hà Nội
lên Yên Bái chặt đầu cùng với 12 đảng viên VNQDĐ sáng sớm ngày 17 tháng
6 năm 1930.
Qua ngã tư đèn xanh, đèn đỏ Chu văn An - Tôn Đức Thắng - Nguyễn
Thái Học này, mọi người hãy nhìn về phía bên tay phải đi ạ!Vâng, thưa q
khách! Đó chính là Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trường Đại học đầu tiên của
đất nước chúng tôi. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và
phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành
Thăng Long thời nhà Lý. Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu được
xây dựng năm 1070 để thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư
nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng
của nền giáo dục Việt Nam; và sáu năm sau (năm 1076) Quốc Tử Giám
trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam đã ra đời, với hơn 700 năm
hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn MiếuQuốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời
cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ
hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày
nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi.
Chúng ta vừa đi qua ngã tư Cửa Nam và bây giờ đang trên phố Hai Bà
Trưng. Đây cũng là một con phố trung tâm của Thủ đô. Hai Bà Trưng là tên
gọi chung của Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai chị em là anh hùng dân tộc của
người Việt. Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia
với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là nữ vương. Sau khi cuộc khởi nghĩa
này bị quân Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng vì

3



không muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sơng tự tử. "Đại Việt Sử
ký Tồn thư" coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam.
Đi hết đường Hai Bà Trưng, rẽ qua Hàng Bài là chúng ta sẽ đến phố
Đinh Tiên Hoàng, và cuối đường sẽ là điểm thăm quan đầu tiên - Đền Ngọc
Sơn. Tên phố cũng được lấy từ tên của một vị vua trong lịch sử đất nước
chúng tơi. Đinh Tiên Hồng, húy là Đinh Bộ Lĩnh là vị vua sáng lập triều đại
nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ơng là người có cơng
đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu
tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu
cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.
Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một
vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng
làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng
đế. Sau hai vua nhà Tiền Lý xưng đế giữa thời Bắc thuộc rồi bị thất bại trước
hoạ ngoại xâm, 400 năm sau người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn
tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia
độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh - Lê - Lý - Trần và buộc các điển
lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc
lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ
nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dịng chính thống. Đinh Tiên Hồng là
vị hồng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền đầu tiên ở Việt Nam vì thế mà ơng cịn được gọi là người mở nền chính
thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
Thưa quý khách! Chúng ta đã đến điểm dừng chân đầu tiên rồi ạ. Xin
mời quý khách xuống xe! Nếu ai có những vật dụng khơng cần thiết thì có thể
để trên xe cũng được ạ.

4



Xin mời mọi người đứng tập trung tại đây ạ! Thưa quý khách, trước
mắt quý khách là một khung cảnh rất đẹp với Hồ Gươm xanh biếc, Tháp Rùa
in bóng mặt hồ, với Đền Ngọc Sơn cổ kính,… Trước khi nói đến Đền Ngọc
Sơn thì cần phải kể đến Hồ Gươm.
"Hồ Gươm xanh thắm quanh bờ,
Thiên thu hồn nước mong chờ bấy nay.
Bây giờ đây lại là đây,
Quốc kỳ đỉnh Tháp sao bay mặt hồ."
Đó là bốn câu thơ trong bài thơ "Lại về" của nhà thơ Tố Hữu - một nhà thơ
nổi tiếng trong nền văn học đất nước chúng tơi. Hồ Gươm theo tác giả chính
là cái hình hài vật chất của cái hồn Nước từ nghìn thu xưa lưu lại, một cơ sở
để người dân Việt tự hào về mà chính ngưịi xưa đã tạo dựng nên. Hồ Gươm
có thể nói là một khơng gian thiêng của Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói
chung.
Hồ có nhiều tên gọi như Hồ Gươm, hồ Hoàn Kiếm, hồ Lục Thủy, hồ Tả
Vọng,… Mỗi tên gọi đều gắn với một thời kỳ khác nhau của hồ. Hồ Hồn
Kiếm có diện tích khoảng 12ha, chiều dài Nam-Bắc là 700m, chiều rộng
Đông - Tây là 200m. Bao quanh hồ là các phố Lê Thái Tổ ở phía tây, phố
Đinh

Tiên

Hồng

phía

đơng,

phố


Hàng

Khay

phía

nam.

Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố
Hàng Đào, qua phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối,
thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng
được gọi là hồ Lục Thuỷ. Tương truyền vào thế kỷ XV, hồ được đổi tên thành
hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng: Khi
Lê Lợi lên ngơi Hồng đế lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ về đóng đơ ở Thăng
Long. Trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thủy, bỗng một cụ
rùa lớn xuất hiện. Lê Thái Tổ giơ gươm ra thì gươm bay về phía cụ rùa. Rùa
ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thủy có tên gọi mới là hồ

5


Hồn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm. Trên hồ có hai hịn đảo: đảo Ngọc bây
giờ chính là Đền Ngọc Sơn và đảo Rùa là Tháp Rùa mà chúng ta đã nhìn thấy
đằng xa kia. Cuối thế kỷ XVI, chúa Trịnh dựng phủ Chúa ở phường Báo
Thiên (nay là Nhà Thờ Lớn) và ở chỗ phố Thợ Nhuộm gần hồ nên đặt tên cho
hai phần hồ là Hữu Vọng và Tả Vọng. Năm 1865, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu
đã đứng ra sửa sang lại đền Ngọc Sơn trên đảo Ngọc. Trên gị Ngọc Bội, ơng
cho xây một ngọn tháp hình bút. Đó là tháp Bút ngày nay và bắc một cầu từ
bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc mà chút nữa thơi chúng ta sẽ được chêm
ngưỡng. Cịn Tháp Rùa, do đứng ở đây khó có thể quan sát hết vẻ đẹp của

Tháp nên tý nữa khi vào phía bên trong tơi sẽ giới thiệu cho mọi người một
cách cụ thể hơn.
Q khách có nhìn thấy chếch phía bên tay phải có một ngơi đền nhỏ,
đằng sau bức tượng đài khơng ạ? Đó là đền Bà Kiệu. Vì thời gian có hạn nên
tơi sẽ giới thiệu sơ qua về ngôi đền này cho mọi người. Đền Bà Kiệu nằm bên
thắng cảnh hồ Hoàn Kiếm, đối diện với đền Ngọc Sơn, nhìn qua Tháp Bút,
và cầu Thê Húc. Đền có tên là "Thiên Tiên Điện", được xây dựng từ thời Lê
Trung Hưng để thờ ba vị nữ thần: Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ
Quỳnh Hoa và Đệ tam Ngọc nữ Quế Nương. Những năm đầu thế kỷ, do qui
hoạch mở đường nên đã tách kiến trúc đền làm hai phần. Tam quan nằm sát
bên hồ Hoàn Kiếm và đền chính tọa lạc song song, cách đường phố Đinh Tiên
Hồng. Đền có qui mơ kiến trúc hình chữ cơng (I) gồm: Nhà đại bái ba gian
rộng, phương đình hai tầng bốn mái và ba gian hậu cung được qui hoạch tập
trung tạo sự bề thế trang nghiêm. Bộ di vật văn hoá - lịch sử của đền Bà Kiệu
rất phong phú, đa dạng gồm bia đá, chuông đồng, hệ thống 27 sắc phong thần
thuộc các triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Với hàng cột đá trong kiến trúc và
hai cây đa lớn sát bên đền đã đưa lại sự cổ kính và vẻ đẹp độc đáo của kiến
trúc Việt Nam.

6


Bây giờ mời mọi người đứng lại gần phía cổng Đền, chúng ta sẽ tìm
hiểu về khu di tích Đền Ngọc Sơn. Tôi xin được mạn phép mượn lời của nhà
văn Tơ Hồi: "Ai đến Hà Nội, ai về đất Kẻ Chợ, có đến hồ Hồn Kiếm và
thăm đền Ngọc Sơn mới thật được người ta cho là đã đến Hà Nội. Hầu như
xưa nay là thế…". Quả đứng như vậy, từ xưa đến nay mỗi một người dân Việt
Nam cũng như bạn bè quốc tế đều biết hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn - trái
tim của Hà Nội.
Đền Ngọc Sơn nằm trên hịn đảo cũng có tên là núi Ngọc, được xây

dựng từ giưa thế kỷ thứ XIX. Như q khách có thể nhìn thấy, lớp cổng đầu
tiên gồm có bốn cây cột xây bằng gạch và hai mảng tường lửng. Ở mỗi cây
cột đều có đắp những câu đối chữ Hán. Chúng vừa làm tăng vẻ cổ kính của
khu di tích, lại vừa làm cho quý vị có thể hiểu thêm về lịch sử và cảnh quan
về di tích cũng như cảm thụ chất thơ, chất văn học và cả chất triết học hàm
chứa trong nội dung thờ tự nơi đây. Cũng phải nói ngay là trong khu vực di
tích này có rất nhiều câu đối hay hợp thành một bộ phận văn học đầy triết lý
và mỹ cảm mà chút xíu nữa thơi là q khách có thể xem được.
Ngay ở hai cột chính giữa cổng có đơi câu đối:
"Lâm thuỷ đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh
Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang."
Có nghĩa là:
( Đến cõi nước, trèo lên non, một lối dẫn dần vào cảnh đẹp
Tìm nguồn cội hỏi chuyện xưa, trong chốn này biết mấy phong quang.)
Đôi câu đối này giống như lời chào mời du khách khi đến thăm đền Ngọc
Sơn. Chắc hẳn sẽ hứa hẹn nhiều điều thú vị khi vào thăm khu di tích.
Quý khách có thể nhìn thấy bên trái của cổng có chữ Phúc và bên phải
có chữ Lộc với cỡ lớn, tơ son như lời chúc mọi sự tốt lành. Phúc là hạnh
phúc, là niềm vui. Lộc là thịnh vượng, là hưởng thụ. Đó là hai khái niệm để
cầu chúc cho mọi người và cũng là điều mà mọi người ai cũng muốn có được.
7


Bên trên hai bức đại tự nét bút hoa mỹ tươi tắn này cịn có hai hàng đề từ, một
bên là "Ngọc ư tư" nghĩa là (Ngọc ở đây), một bên là "Sơn ngưỡng chỉ" nghĩa
là (Ngửa trông núi). "Ngọc ư tư" được lấy từ câu "Hữu mỹ ngọc ư tư" trong
cuốn Luận Ngữ thuộc bộ Tứ thư. Câu còn lại lấy từ "Cao sơn ngưỡng chỉ"
trong cuốn sách Kinh Thi. Ngọc nói về phẩm chất cao đẹp của một người và
núi cao là dùng để chỉ bậc hiền tài.
Xin mời quý khách đi qua cổng đầu tiên này để tham quan tiếp. Mọi

người hãy nhìn sang phía bên tay trái đi ạ, mọi người có thấy một ngọn tháp
bằng đá xây trên ngọn núi nhỏ này khơng ạ? Đó là cụm kiến trúc Tháp Bút
nằm trong quần thể khu di tích Đền Ngọc Sơn. Núi này có tên là núi Độc
Tơn,có đường kính khoảng 12m và cao 4m. Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã cho
xây dựng một tháp đá trên núi. Tháp vng có năm tầng, cạnh đáy tầng một là
2m, lên đến tầng năm là 1,2m. Tổng thể ngọn tháp cao 28,9m. Đế tháp là 1 ụ
tròn, đắp đá hộc xung quanh, người ta gọi ụ này là núi Độc Tơn. Tháp xây
hình vng, nhỏ dần về phía trên. Đỉnh tháp tạc 1 chỏm nhọn mang hình bút
lơng chĩa thẳng lên trời, thân bút tròn lẳn và ngắn vì vậy có tên là Tháp Bút.
Ngăn cách mỗi tầng tháp là 1 mái nhơ ra ở cả bốn phía (15cm), mỗi mặt của
các tầng tháp đều có 1 ơ cửa giả, sâu vào phía trong lịng tháp 10cm. Ở phía
bắc, trong 3 ơ cửa tầng dưới, cụ Siêu viết 3 chữ lớn “Tả Thanh Thiên” (viết
lên trời xanh). Trong ơ cửa tầng dưới phía tây, có khắc bài châm của Nguyễn
Văn Siêu soạn: “Ngọn núi Độc Tôn 5 tầng Tháp Bút. Tháp nhờ Núi mà thêm
cao, Núi nhờ Tháp mà thêm đẹp… Ôi, núi là tượng trưng về võ cõng, Tháp là
tượng trưng về văn vật... Núi và Tháp có một nhân tố chung để cùng nhau lưu
truyền mãi mãi”. Tháp Bút là một cơng trình kiến trúc đẹp, điểm tô thêm vẻ
đẹp của thắng cảnh Hồ Gươm và đền Ngọc Sơn.
Đáng chú ý là ở dưới chân núi Độc Tơn này có một cái miếu bé có đắp
ba chữ: "Sơn thần miếu" tức miếu thần núi. Dù nhỏ hay to thì đã là núi phải
có một thần cai quản, để thờ thần núi, linh mạch của núi này. Đây chính là sự

8


tiếp nối một tín ngưỡng đã có từ thời ngun thuỷ là thờ đá. Tuy là miếu bé
nhưng ở hai bên cửa cũng có đơi câu đối khá hay:
''Cố điện hồ sơn lưu vượng khí
Tân từ hương hoả tiếp dư linh."
Nghĩa là:

( Điên cũ nói hồ lưu vượng khí
Đền nay hương lửa tiếp dư linh.)
Còn một hiện vật khác đáng chú ý hơn là một tấm bia nhỏ ngay ở dưới
chân núi, phía trược mặt quý vị đấy ạ. Trên tấm bia này có khắc năm chữ:
"Thái sơn thạch cảm dương." Nhiều người tưởng rằng năm chữ này có ý
muốn so sánh núi Độc Tôn bé nhỏ này với đá núi Thái, nhưng kỳ thực thì đây
là một cụm từ, một thành ngữ Trung Hoa có ý nghĩa là "hịn đá trấn yểm". Vì
ở Trung Quốc xưa có tục dựng một hịn đá trước cửa chính để trấn yểm tà ma.
Mà núi Thái Sơn là ngọn núi lớn nhất trong năm ngọn núi nổi tiếng của Trung
Quốc, lại là núi có vị thần tồn năng, các triều đại vua chúa phong kiến xưa
phải tới đây cúng tế nên đá của ngọn núi này cũng rất linh thiêng. Dựng hòn
đá núi Thái là tà ma chạy dài. Như vậy tấm bia này ở chân Tháp Bút cũng chỉ
là một công cụ để xua đuổi tà ma, không cho chúng đến gần nơi thờ tự này.
Nào, chúng ta hãy đi dịch thêm một chút nữa để đến với lớp cổng thứ hai của
Đền. Lối đi được giới hạn bằng hai cột trụ, trên có đắp đơi câu đối mang đầy
ý nghĩa khuyến cáo:
"Nhân gian văn tự vơ quyền tồn bằng âm đức
Thiên thượng chủ tư hữu nhãn đơn khán tâm điền."
Vế thứ nhất có nghĩa là: Ở chốn nhân gian này, cái quyền chân chính chính
là sự tu dưỡng đạo đức, là sự làm ơn làm phúc một cách vô tư.
Vế thứ hai ý nói: Trên trời kia ơng thánh coi việc khảo thi nhân gian khơng
tính đến lễ vật mà chỉ soi xét chính lịng dạ của con người.
Ở hai bên trụ xây hai cửa nách giả kiểu hai tầng tám mái cong. Mặt
trước của hai cửa này đắp nổi một bên là rồng đang cuộn khúc đón đàn cá
9


đang thi nhau vượt sóng, bên trên có hai chữ "Long môn" và một bên là một
chú hổ trắng như đang tiến ra với người đời, bên trên có hai chữ "Hổ bảng".
Tơi xin giải thích kỹ hơn với q vị về điều này. Long môn và Hổ bảng là

diễn ý các điển tích cổ. Về Long mơn, theo văn hố phương Đơng là chỉ sự
thành cơng trong thi cử. Ngun ở Trung Quốc có sơng Trường Giang từ tây
chảy sang đông. Ở khúc thượng lưu, đoạn chảy qua tỉnh Tứ Xun, dịng
sơng gặp ngọn núi Long Mơn, cịn có tên là Vũ Mơn. Chân núi có vực sâu.
Hàng năm, mùa nước lên, cá chép hội tụ về vực rất nhiều, đua nhau nhảy
vượt thác. Tương truyền con cá nào vượt được thác thì sẽ hố thành rồng. Từ
huyền thoại này nên đã có điển tích "vượt Vũ Mơn" để chỉ sự đỗ đạt trong thi
cử. Học trò thi đỗ coi như đã vượt được Vũ Mơn, lập thành tích vang dội.
Cũng do đó mà có câu thơ: "Vũ Mơn tam cấp lãng, Bình địa nhất thanh lơi."
Có nghĩa là: vượt được ba cấp sóng ở Vũ Mơn khác nào đất sấm vang rền.
Còn chữ Hổ bảng nghĩa đen là bảng hổ, nghĩa bóng là bảng ghi tên những
người đỗ tiến sĩ. Điển tích này có từ đời Đường ở Trung Quốc: có một khoa
thi tiến sĩ có nhiều người trúng tuyển sau trở thành những doanh nhân như
Hàn Dũ, Âu Dương Thiềm, Lý Quan…khác nào những con rồng con hổ trên
văn đàn. Hai bên Long mơn Hổ bảng có đơi câu đối vừa giải thích ý nghĩa
trên vừa xưng tụng tồ Tháp Bút trước mặt.
"Hổ bảng Long mơn thiện nhân duyên tháp
Nghiên đài Bút Tháp đại khối văn chương."
Có nghĩa là:
( Bảng hổ, Cửa rồng là biểu tượng nhân quả của người làm điều tốt
Đài Nghiên, Tháp Bút là để mô tả văn nghiệp của đất trời vĩ đại.)
Như vậy chúng ta có thể hiểu được lớp cổng thứ hai này là biểu tượng
khuyến học theo Nho giáo, là cổng dành cho những người thành đạt đi vào.
Mời quý khách đi qua cổng Long môn Hổ bảng để tiến tiếp vào khu vực phía
trong của Đền. Q khách có thể quay lại sau lưng để nhìn phía sau của lớp
cổng thứ hai này. Một bên có đắp nổi hình tượng con hạc biểu tượng cho sự
10


thanh cao, tinh khiết, còn một bên là tượng con cá chép thể hiện sự thanh tao

của con người.
Cuối con đường nhỏ này là lớp cổng thứ ba. Khác với hai lớp cổng
ngồi, hoặc là có bốn hàng cột trụ, hoặc là cửa trống, lớp cổng này có tường
cao, có mái, có cửa cuốn, cánh cửa gỗ sơn son như q khách có thể nhìn
thấy. Trên mái đặt một cái nghiên đá cho nên cổng cũng có tên ''Nghiễn đài"
tức là đài nghiên. Vì có bút thì phải có nghiên, mà bút dùng để viết lên trời
xanh thì nghiên cũng phải lớn tương xứng với bút. Do nghiên được đặt ở trên
mái cao nên quý vị khó có thể quan sát được, vì vậy mà tơi sẽ giới thiệu để
mọi người được biết. Đây là một cái nghiên được tạc từ một tảng đá xanh
hình quả đào cắt nghiêng theo chiều dọc, khoét lõm lòng chảo, bề dài quả đào
0,97m, bề ngang 0,8m, cao0,3m, chu vi chừng 2m, được làm từ lần trùng tu
năm 1865. Có ba con cóc đội nghiên như ba cái chân kiềng. Đặc biệt trên thân
của nghiên có khắc một bài minh mà tác giả cũng là Nguyễn Văn Siêu. Q
khách có nhìn thấy những dịng chữ Hán nhỏ trên đó khơng ạ? Chỉ có 64 chữ
nhưng ý tứ thật hàm súc: có nhiều cách hiểu và tới nay cũng có nhiều bản
dịch khác nhau. Tơi có thể tạm dịch như sau: ''Xưa lấy gốc đất làm nghiê, chú
giải Đạo Đứ Kinh, nghiền ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu. Từ
đá tách ra làm nghiên, chẳng có hình dáng. Khơng vng khơng trịn, dùng
vào mọi việ thật kỳ diệu. Không cao không thấp, ngôi ở chính giữa.Cúi soi hồ
Hồn Kiếm, ngửa trơng ngọn Bút đá ứng vào sao Thai mà làm ra ngọn biến
đổi. Ngậm ngun khí mà mài hư khơng." Có thể đây là một quan niệm mang
tính chất bản thể luận về cái nghiên mực và cũng là về tư tưởng của con
người ta trong đó có mối đồng nhuyên Đạo Giáo và Nho Giáo.
Chúng ta hãy đi qua lớp cổng thứ ba này nhưng xin đừng vội qua cầu
mà hãy quay lại nhìn mặt sau của Đài Nghiên. Có rất nhiều câu đối ở đây, nổi
bật là đôi câu đối mang nặng màu sắc Đạo giáo:
" Dạ nguyệt hoặc qua tiên thị hạc
Hào lương tín lạc tử phi ngư."
11



Tạm dịch là :
( Đêm trăng, ngờ bay qua hạc ấy là tiên
Cầu hào, tin niềm vui người không phải cá.)
Câu thứ nhất là lấy điển tích trong bài phú " Hậu Xích Bích" của Tơ Đơng
Pha. Ngun là vào một đêm trăng rằm, Tô cùng bạn dong thuyền chơi trên
sơng Xích Bích, bỗng thấy một con hạc lớn bay qua trời. Lát sau Tô ngủ
thiếp, mơ thấy một đạo sĩ mặc áo lông phấp phới. Tô hỏi: "Lúc nãy hạc bay
qua thuyền có phải là ơng khơng?". Đạo sĩ ngoảnh mặt cười, nhà thơ liền tỉnh
giấc.
Còn câu thứ hai lấy điển tích ở sách Trang Tử. Trang Tử và Huệ Tử đang
đi chơi trên cầu bắc qua hào. Trang nói: " Con cá đang bơi kia ý thoả thích
lắm." Huệ hỏi lại: "Anh không phải cá, sao anh biết được cá vui?" Trang liền
đáp: "Anh không phải tôi, sao anh biết được là tôi không biết được cái vui của
cá." Đơi câu đối trên đã nói lên được cái hư vơ của Đạo giáo.
Q khách có thể chiêm ngưỡng chiếc cầu Thê Húc, nổi bật giữa đền
Ngọc Sơn. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt
Lâu dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ
dưới nước nhô lên. Cầu được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào
năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng
sớm". Cầu Thê Húc được làm bằng gỗ rất thô sơ và sơn màu đỏ. Tương
truyền cuối thế kỷ 19 cầu bị gãy, người ta xây lại cầu mới có chân làm bằng
xi măng cốt thép, sàn và lan can làm bằng gỗ. Cầu có thiết kế cong cong và
uốn như hình con tơm.
Trước khi qua cầu thì mọi người hãy đợi tôi một lát để tôi sang quầy
mua vé đã ạ!…Nào, chúng ta hãy lên cầu. Qua hết 15 nhịp cầu sơn đỏ là tới
lầu Đắc Nguyệt (lầu được trăng). Lầu là một gác chuông hai tầng, kiến trúc
tựa như Khuê Văn Các của Văn Miếu. Tầng hai có hai mái, có tấm biển khắc
ba chữ " Đắc Nguyệt lầu", lấy ý ở câu thơ cổ: "Cận thủy lâu đài tiên đắc
nguyệt." nghĩa là: ở gần nước nên lầu đón được trăng trước tiên. Đó là vì lầu

12


thì cao xung quanh là hồ nước mênh mang, tầm nhìn khơng có gì che khuất
nên nhiều nơi chưa thấy trăng mà ở đây đã nhìn thấy. Song nhìn thấy trước
tiên thì cũng rất bình thường nên ở đây, các vị thưở xưa khi dựng lầu này đã
dùng khái niệm "được trăng" đầy ý nghĩa chủ động. Được trăng coi như là ơm
gọn vầng trăng trong vịng tay mình!
Hai bên cửa sổ có đơi câu đối ý tứ lãng mạn không kém:
" Bất yếm hồ thượng nguyệt
Uyển tại thuỷ trung ương."
Có nghĩa là: Trăng trên hồ ngắm bao nhiêu cũng khơng chán, cứ như dầm
mình trong làn nước miên man.
Ở hai bên cửa cổng cũng có đơi câu đối tả cảnh giàu hình tượng:
" Kiều dẫn trường hồng thê đảo ngạn
Lầu đương minh nguyệt toạ hồ tâm."
Nghĩa là:

Cầu dẫn dải cầu vồng đậu vào bờ đảo.
Lầu in vầng trăng sáng nằm trong lịng hồ.

Câu thứ nhất là nói về cầu Thê Húc, coi cầu như là nẻo đường để cho bảy
sắc cầu vồng đi qua mà vào đậu trên bờ đảo. Câu thứ hai có ý là bóng lầu hồ
với vầng trăng sáng như đang ngồi với nhau giữa lòng hồ sâu.
Khoảng giữa cửa và đôi câu đối là hai bức tranh đắp nổi, bên phải là
bức "Long mã hà đồ", bên còn lại là "Thần quy lạc thư". Ở bức Long mã hà
đồ có đắp nổi hình con ngựa đầu rồng, trên lưng có đeo hình bát qi. Đây là
điển tích từ thời vua Phục Hy của Trung Quốc, cách bây giờ khoảng năm
ngàn năm. Thưở đó chưa có chữ, Phục Hy một hơm thấy trên sơng Hồng Hà
nổi lên con Long mã (đầu rồng mình ngựa) trên lưng có vằn có nét. Phục Hy

liền dữa vào các vằn nét đó để lập ra bảng vẽ có tám quẻ gọi là Bát quái toàn
đồ. Đời sau gọi là Hà đồ tức đồ Bát quái rút ra từ sự tích Long mã trên sơng
Hà. Đó là những con số đếm đầu tiên, cũng là những chữ viết đầu tiên của
dân tộc Trung Hoa.

13


Sau thời Phục Hy hàng trăm năm có vua huyền thoại Đại Vũ. Trong khi
đi trị thuỷ ở sông Lạc thấy nổi lên một con rùa trên lưng có những chấm đen
trắng đặc biệt theo một trình tự. Ơng dựa vào những chấm đó mà tạo ra Cửu
trù (chín khoảnh). Đời sau gọi là Lạc thư tức bản viết từ rùa thần sơng
Lạc.Do vậy ở bức tường bên tría của lầu Đắc Nguyệt có bức Thần Quy Lạc
thư đắp nổi hình con rùa trên mai một cây kiếm và một hộp sách. Vì từ Bát
quái và Cửu trù, những phát minh quan trọng về số học, đồng thời áp dụng
vào việc tính tốn, mở rộng ra có thể giải thích nhiều hiện tượng trước mắt và
suy đoán những việc sẽ xảy ra trong vũ trụ, nhân sinh, trong tự nhiên, xã hội
có liên quan đến con người.
Qua lầu Đắc Nguyệt này đi vào phái bên trái là sẽ tới khu đền chính. Ở
phía bên tay phải của q khách có mấy gian nhà thời trước là nơi hội họp
nghe giảng kinh sách, còn bây giờ đây là nơi trưng bày các tác phẩm nghệ
thuật. Bên trái quý vị là một dãy tường hoa. Ở dãy tường này, trên các cột
cũng có đắp nổi nhiều câu đối tả cảnh hay, như:
- "Nhất trần vô nhiễm sắc
Tứ tự giai thường xuân."
( Mây bụi khơng chút gợn
Bốn mùa thảy đều xn.)
hay :
- "Bình hồ trường nhật nguyệt
Cố điện tiểu càn khôn."

( Hồ phẳng dài cùng năm tháng
Điện xưa thu nhỏ đất trời.)
- "Cô sơn mộc ấm tam thiên giới
Chước thuỷ ba chừng cửu thập xn."
( Ngọn núi cơi, cây rợp bóng, che tam thiên thế giới
Một mơi nước, sóng trong lặng, suốt chín chục ngày xuân.)

14


Toàn những câu đối tả cảnh đặc sắc. Tư duy hình tượng của các văn sĩ xưa
cũng khá hiện đại. Ở đoạn giữa dãy tường này có một kiến trúc khá bé mang
tên "Kính Tự đình" (tức đình kính trọng chữ viết). Đó là nơi trước đây các cụ
đốt những mẩu giấy có viết chữ, vì các cụ xem chữ là thánh hiền, chữ do
thánh hiền đặt ra và mang tư tưởng của thánh hiền, cho nên không thể đối xử
như một thứ rác rưởi đem vứt đi mà phải đốt. Theo chuyện cũ Hà Nội kể lại
rằng: cho tới khi Pháp đã bắt đầu cai trị Hà Nội khoảng đầu thế kỷ XX, vẫn
cịn có một ơng già sáng sáng gánh một đôi bồ đi quanh phố phường, hề thấy
mảnh giấy nào có chữ hán, ơng lại nhặt bỏ vào bồ, mang vào đốt tại đình
Kính Tự này.
Qua đình Kính Tự, trước mặt quý vị là một vọng cảnh đẹp: Xa xa, ở
phía tây nam hồ là Tháp Rùa, một dấu ấn đặc trưng của Hồ Gươm; gần là
đình Trấn Ba. Tôi xin giới thiệu qua đôi nét về tháp để quý khách có thể hiểu
được. Tháp Rùa là cách gọi nơm na chứ tên đích thực ghi trên tháp là "Quy
Sơn tháp" tức tháp núi Rùa. Tháp xây trên gị Rùa nơi xưa từ thời vua Lê
Thánh Tơng đã dựng Điếu Đài ở đó để nhà vua ra câu cá Sang thời Lê Trung
Hưng (khoảng thế kỷ 17-thế kỷ 18) thì chúa Trịnh cho xây đình Tả Vọng trên
gị nhưng sang thời nhà Nguyễn thì khơng cịn dấu tích gì nữa.
Sau khi Pháp hạ thành Hà Nội năm 1883 thì dân vùng ven hồ xiêu tán
cả. Các quan Việt cũng bỏ sở nhiệm. Riêng có Nguyễn Ngọc Kim chức dịch

làng Tự Tháp được cử làm trung gian giữa quân Pháp và người Việt, lại được
chính quyền mới tín nhiệm nên ít lâu trở thành bá hộ, tục gọi là Bá hộ Kim.
Năm 1886 thấy huyệt đất trên gò Rùa hợp phong thủy ơng xuất tiền
xây tháp trên gị với ý định chơn hài cốt của cha vào đó. Việc khơng thành
nhưng ngọn tháp ba tầng vẫn được hồn tất. Vì vậy nên ban đầu Tháp này có
tên là Tháp Bá hộ Kim. Vì vị trí đẹp giữa hồ, tháp nghiễm nhiên biến thành
thắng tích Hà Nội.
Ngọn tháp kết hợp phong cách kiến trúc Âu châu với hàng cửa cuốn
gơ-tích hai tầng dưới nhưng phần mái cong giữ quy thức kiến trúc Việt Nam.
15


Thời Pháp thuộc, trên đỉnh Tháp Rùa có dựng một phiên bản của tượng Nữ
Thần Tự Do (1890-1896) (hay còn được gọi là tượng Đầm Xòe). Sang thập
niên 1950 tượng này đã bị phá bỏ khi chính phủ Đế quốc Việt Nam của thủ
tướng Trần Trọng Kim nắm chính quyền thay cho quân Pháp.
Tháp Rùa đã đứng ở đây dư một thế kỷ nên cũng đã rất thân thuộc, gần
gũi với mọi người dân Hà Nội. Như thi sĩ Nguyễn Đình Thi đã nói trong thơ:
" Hà Nội chiều nay mưa tầm tã
Ta lại về đây giữa phố xưa
Nước Hồ Gươm sao xanh dịu quá
Tháp Rùa roi lệ cười trong mưa."
Trở lại đình Trấn Ba mà chúng ta đang đứng trước mặt đây, bốn cây cột
cái bằng gỗ và bốn cây cột góc bằng đá đỡ lấy hai lớp mái thanh thốt. Đình
Trấn Ba (hay cịn gọi là đình chắn sóng) có tác dụng ngăn chặn những luồng
văn hố khơng lành mạnh vào văn hố Việt Nam đương thời. Đình có hình
vng, được dựng cùng với Tháp Bút, Đìa Nghiên, tức là khoảng năm 1865 1866. Nhưng trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc
chúng tôi (1947), đạn đã phá tan ngơi đình. Đến 1951 - 1952, một số nhà hảo
tâm từ thiện đãđóng góp cơng và của cho dưng lại đình giống như ngun
mẫu. Có những câu đối hay khắc trên cột đá cũng được phục chế lại nguyên

văn như:
- " Miếu mạo sơn dung tương ẩn nước
Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi."
Nghĩa: ( Dáng miếu hình non cũng thấp thống
Bóng mây ánh nắng quyện bồi hồi)
Đó là cảnh sắc trước đình rất trong trẻo và nên thơ.
- " Kiếm hữu dư linh quang nhược thuỷ
Văn tòng đại khối thọ như sơn."
Nghĩa: ( Gươm rớt khí thiêng ngời tựa nước
16


Văn hịa trời đất thọ tày non )
Đó là cảm tưởng trước đình, nghĩ về một thời thanh gươm cứu nước ngời
ngời sáng và cùng một thời văn chương có sức nặng như đá núi.
Đối diện với đình Trấn Ba là ba nếp đền ẩn hiện dưới những tán cây cổ
thụ um tùm. Đây là khu trung tâm của cả quần thể di tích đền Ngọc Sơn, về
mặt kiến trúc cũng như về mặt thờ phụng.
Nào, chúng ta hãy vào thăm nếp nhà thứ nhất, hay còn gọi là nhà tiền
tế. Đền được xây theo hình chữ Tam. Nếp nhà ngồi cùng này gồm ba gian
xây kiểu tường hồi bít đốc, dạng hai tầng bốn mái. Đỡ mái là bộ vì kèo có kết
cấu chồng rường, hạ bẩy." Các con hồnh của hai mái dưói được đặt trên một
kẻ cong dài. nền nhà cao 0,3m so với mặt sân. Nhà tièn tế này có tàn, có tán,
có hương án và đơi chim anh vũ tức là chim vẹt, có thếp vàng, tạo hình khá
đẹp mắt. Ngồi ra cịn có hế thống các bức hoành phi như ở giữa quý vị có
thể nhìn thấy, đó là "Hồi thiên đội thế", ở bên tay phải của mọi người là "Mặc
tướng quần sinh ", và phía bên trái là "Phồn hy vĩnh tích". Đối diện với bức
hoành phi ở giữa là bức "Cảm huệ lĩnh phương"( Năm Nhâm Tý 1912).
Mời quý vị đi tiếp để thăm gian trung đường. Nếp nhà thứ hai này cũng
có ba gian, tường hồi bít đốc nhưng lịng nhà rộng hơn. Bộ khung đỡ mái theo

kiểu "thượng rường hạ kẻ". Nền cao hơn so với nền nhà tiền tế. Hệ thống các
bức bàn chạm khắc cầu kỳ hơn, con dơi, con rồng, phượng, long mã chở Hà
đồ, thần rùa mang Lạc thư. Ở gian chính giữa đặt hương án, đồ thờ và sập
thờ. Quý khách có thể quan sát thấy ba lớp tượng. Lớp ngoài cùng là tượng
Quan Vũ cùng hai tuỳ tướng là Châu Xương và Quan Bình.Tượng Quan Vũ
cao 1,35m trong tư thế ngồi trên bệ, mặt đỏ, râu dài, nũi có vạt phủ xuống
lưng, trên chỏm có buộc dây lụa, trong mặc áo giáp, ngồi khốc áo chồng
xanh, hộ tâm kính có hình rồng, tay phải úp trên đùi, tay trái giơ ngang ra
phía trước, chân đi hài. Tượng Châu Xương cao 0,9m, râu quai nón, mũ bó có
chóp, đứng hầu bên phải tượng Quan Vũ, áo chẽn màu đỏ và xanh, cầm thanh

17


long đao. Cịn tượng Qn Bình cao 0,88m, nho nhã, áo thụng vũ võ sinh, áo
bào đỏ, đứng bên trái tượng Quan Vũ.
Tôi xin giới thiệu đôi nét về nhân vật Quan Vũ để mọi người được biết.
Quan Vũ (162 - 219) là nhân vật lịch sử Trung Quốc đời Thục Hán, tên tự của
ông là Vân Trường nổi tiếng là một dũng tướng, trung thành và giữ tín nghĩa.
Ơng người đất Giải Lương, Hà Đông, nay thuộc tỉnh Sơn Tây - Trung Quốc,
là tướng thân cận và anh em kết nghĩa với vua Thục là Lưu Bị. Ông là dũng
tướng tài ba đánh thắng nhiều trận chiến, song cuối cùng do chủ quan bị
tưưóng Ngơ bắt, đem chém. Tương truyền ông đã hiểu thánh, được nhân dân
Trung Quốc ở khắp nơi thờ phụng. Đời Tống Tuyền Gia ông được phong là
Vũ An vương. Đời Minh Vạn Lịch được phong là Hiệp thiên hộ quốc trung
nghĩa đại đế. Theo bước chân di cư của người Hoa, Quan Vũ được lập đền
thờ ở nhiều nơi trên đất nước ta. Dân ta thường gọi là Quan Đế, Quan Công
hoặc Quan Thánh đế quân, Đức Thánh Quan. Người Việt cũng thờ ông, ngay
ở Hà Nội cũng có một số nơi thờ như Đền Quan Đế ở 28 Hàng Buồm do
người Hoa kiều lập ra, đình Tây Lng ở phố Nguyễn Trung Trực, quận Ba

Đình,…Tuy nhiên, ở Việt Nam, ơng được thờ dường như khơng phải hồn
tồn với tư cách dũng tướng mà là do tấm lịng trọng tín nghĩa và sự nghiêm
minh của ông. Cho nên bà con buôn bán thờ ông là chính, mỗi khi có khúc
mắc trong giao dịch hoặc có sự bội tín, họ đưa nhau đến đền thờ ơng, thề bồi
mong được phân xử, kẻ xấu bị trừng trị. Và thường chỉ có những nơi đơ thị
bn bán tấp nập mới có đền thờ ơng, chú ở nơng thơn Việt Nam hầu như
khơng có đền Quan Đế.
Tiếp đến là lớp giữa với tượng Lã Tổ, hai bên có tưọng Thiên Khôi và
Thiên Việt. Tượng Lã Tổ tạc người trên bệ, cao 1,35m đội mũ đạo sĩ, mặc áo
vàng, dáng đĩnh đạc, tay trái đặt trên đùi, tay phải giơ ngang tay đang bắt
quyết,có vẻ là quyết Chuẩn đề. Tượng Thiên Việt cao 1,1m có hình dáng một
ơng lão đạo mạo, mũ nhị cấp áo thụng có hình rồng lân. Tượng khá nho nhã,
trắng trẻo vì cũng là ngơi sao về văn cương. Thiên Khơi mang hình dáng là
18


một tiểu quỷ, mặt xanh, có sừng, mình trần, quần ngắn, cổ tay cổ chân đeo
vòng, thắt lưng đỏ, tay trái cầm sách, tay phải cầm bút giơ ngang đầu, một
chân đứng trên lưng con giao long, một chân giơ lên như hình chữ đẩu. Sao
Thiên Khơi phụ trách về khoa cử. Bút và sách cầm ở tay là ghi tên những
người sẽ thi đỗ đầu nói riêng và thi đỗ nói chung.
Về Lã Tổ thì cũng giống như Quan Vũ, ông là người khá nổi tiếng sống
ở đời Đường. Lã Tổ tên tự là Động Tân. Khi ông đang làm quan huyện lệnh
thì gặp loạn Hồng Sào, Lã Động Tân bỏ quan, về ở ẩn ở núi Chung Nam.
Sau ông tu theo Đạo giáo lấy hiệu là Thuần Dương Tử. Từ đó Lã Động Tân đi
vào huyền thoại, trở thành một trong tám vị tiên nổi tiếng của thần điện Đạo
giáo.
Lớp trong cùng là tượng Văn Xương cao 1,44m, ngồi trên long ngai
trên khám thờ. Mặt tượng hơi dài, đội mũ cánh chuồn, mình mặc áo bào xanh
trang trí hình rồng mây suốt từ ngực xuống, gấu áo hình sóng nước. tay phải

úp trên đùi, tay trái ngửa, có ngón hơi khép lại để giữ một quyển sách. hai bên
có tượng thị nữ đứng hầu. Khám thừo Văn Xương là một khám đẹp, diềm
trên trang trí lưỡng long chầu nguyệt, phía dưới chạm thủng cúc dây. Diềm
cửa trang trí rồng mây. Giá đỡ phía dưới có hàng lan can hình con tiện, đế
khám dạng chân quỳ.
Văn Xương ngay ở Trung Quốc cũng có nhiều cách giải thích khác
nhau. Văn Xương là tên vùng đất, tên sao, tên vị thần. Vùng đất là huyện Văn
Xương ở phía nam tỉnh Quảng Đơng. Chịm sao có tên là Văn Xương cung
gồm các sao Đẩu, Khơi, Dực, Khng,…Văn Xương cịn là tên một vị thần
mà người ta quen gọi tôn là Văn Xương đế quân hoặc Tử Đồng đế quân. Về
lai lịch của vị thần này cũng có nhiều sách nói khác nhau. Những người theo
đạo giáo thì cho rằng Tử Đồng được thượng đế giao cho làm chủ cung Văn
Xương và giữ lộc tịch (tức là sổ lộc ban phát cho trần gian). Triều Nguyên thì
phong lên làm Đế quân và cho thở các trường học trong nước.

19


Lai lịch rối ren như vậy song ông vẫn được coi là người tựu nghĩa, giữ
lộc tịch ở cung Văn Xương, lại được thờ ở các trường học nên từ bao giờ rồi
Văn Xương đã được các nhà nho ở nước chúng tôi coi như vị thần về học
hành văn chương và công danh khoa cử. Như vậy, Văn Xương cũng là vị thần
đa nhân cách vừa của Đạo giáo vừa của Nho giáo.
Ngoài ra, ở gian trung đường này, ai bên tường hồi có hai ban thờ để
thờ những vị góp cơng của tơn tạo đền miếu. bài vị to trên viết dịng chữ:
"Tiền hậu cơng đức tả ban liệt vị" và "Tiền hậu công đức hữu ban liệt vị".
Bây giờ xin mời du khách tiếp tục tham quan nếp nhà thứ ba, thường
được gọi là cung cấm hoặc hậu cung. Giữa nếp thứ hai và thứ ba có một nhà
cầu để khách nghỉ chân, đồng thời là chỗ đứng lễ. Hậu cung hệp lòng nhưng
cao hơn hẳn, là nơi hiện nay thờ Đức thánh Trần của dân tộc chúng tơi - đó là

Trần Hưng Đạo. Tượng cao 1,1m, ngồi trong khám thờ đặt trên bệ gạch xây
cao đến 1m, hai bên có hai bậc tam cấp bằng đá. Tượng được thể hiện trong
tư thế ngồi, đội mũ có ba vành trang trí, ở giữa chạm mặt nguyệt, hai cánh
chuồn đứng. Tượng có khn mặt vng vức, tơ đỏ thắm, mắt nhìn thẳng, tai
dài có thành có qch. Áo đại trào trang trí rồng mây, tay trái đặt trên đùi, tay
phải cầm sách.bên ngồi khám trên có hai pho tượng văn ban, võ ban đứng
hầu. Ở hai bên khám hậu có hai ban thờ, bên phía đơng là ban thờ chung "bản
địa sơn thuỷ tôn thần" (tức thần núi và thần nước) và Táo quân cùng các vị
khai sáng ra chùa. Bên phía tây là bài vị đức Thánh: "Trần triều thượng phụ
Hưng đạo đại vương."
Việc thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn ở hậu cung nơi thiêng liêng
nhất chứng tỏ tính trội của tín ngưỡng bản địa so với các vị thần của Trung
Quốc. Trần Quốc Tuấn là một nhân vật lịch sử rất nổi tiếng của nước chúng
tôi, từng là Tiết chế (tổng chỉ huy quân đội) đập tan các lần giặc Nguyên xâm
lược nước Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIII. Trong tâm linh mỗi người con đất
Việt chúng tơi, Người có hai tư cách: Thứ nhất là vị anh hùng dân tộc với
nhiều chiến công lẫy lừng, điển hình là trận Bạch Đằng vĩ đại lưu danh thiên
20


cổ và thứ hai là đức Thánh Trần đầy tài trí uy lực diệt được mọi ma quỷ, như
khi sống, Người từng diệt con tà Phạm Nhan, một loại quỷ chuyên bức hại
phụ nữ. Thêm vào đó với tước phong rất trọng thị là Thượng phụ thượng trật
thượng tướng quân, bình Bắc đại ngun sối Hưng Đạo đại vương, Trần
Hưng Đạo càng trở thành đối tượng được nhân dân nhiều đời nối tiếp thần
thánh hoá và phụng thờ. Trong cung cấm này hiện có những bức hồnh phi
câu đối ca ngợi đức Thánh Trần: như hồnh phi "Hạp khí lăng tiêu" (Hạo khí
ngất trời) hay "Thiên cổ vĩ nhân" (vĩ nhân của muôn đời).
Bây giờ chúng ta sẽ sang tham quan gian bên cạnh để mọi người có thể được
chiêm ngưỡng Cụ Rùa. Đây là Cụ Rùa đã hơn 900 năm tuổi được trưng bày

trong tủ kính như quý khách đã nhìn thấy. Rùa hồ Gươm thường là lồi rùa
khổng lồ hiện sinh sống trong. Ngày trước rùa sống trong lòng Hồ Gươm rất
hiếm khi nổi lên mặt nước, truyền rằng mỗi lần rùa nổi đều liên quan đến việc
quốc gia đại sự. Nhưng thời gian gần đây rùa nổi lên nhiều hơn, có lẽ vì nước
hồ ơ nhiễm nên rùa phải thường xuyên nổi lên để thở. Trong đền Ngọc Sơn có
trưng bày tiêu bản một cá thể rùa Hồ Gươm. Hình ảnh của rùa cũng gắn liền
với hồ, thông qua tên gọi tháp Rùa ở giữa hồ và truyền thuyết Lê Lợi trả
gươm cho thần Kim Quy, một truyền thuyết mang lại tên gọi cho bản thân hồ.
Các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để tìm ra được chính xác
phân loại của rùa Hồ Gươm.
Phía trong gian trưng bày Cụ Rùa là cửa hàng bán đồ lưu niệm và thủ
cơng mỹ nghệ. Mọi người có thể vào tham quan và xem có món quà nào thích
hợp cho người thân và bạn bè của mình khơng để mua về làm quà kỷ niệm về
đất nước và con người Việt Nam chúng tôi.
Đối với nhiều người dân Hà Nội, nếu không là tất cả, đền Ngọc Sơn
trong lòng Hồ Gươm là một quần thể kiến trúc phong cảnh có nước, có non,
có tháp, có đài, có cầu, có đình, có cây cổ thụ và hoa bốn mùa, có cả văn
chương, tín ngưỡng, có cả huyền thoại lịch sử và những truyền thống văn hoá
tốt đẹp của dân tộc chúng tôi.
21


Như vậy, tôi cùng quý vị đã tham quan hết tồn bộ khu di tích đền
Ngọc Sơn. Có vị khách nào cịn thắc mắc điều gì cần hỏi khơng ạ?... Nếu
khơng có ai cịn thắc mắc gì, tơi sẽ dành cho quý vị khoảng 10phút để mua
quà lưu niệm. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục đi tham quan điểm du lịch tiếp theo
trong lịch trình ngày hơm nay.
Mời q khách đi theo tôi ạ! Chúng ta đi bộ khoảng 5phút là sẽ tới
điểm tiếp theo. Qúy khách có nhìn thấy cách chúng ta khoảng 30m có một cái
tháp nhỏ mà những bạn thanh niên đang đứng chụp hình khơng ạ? Người ta

gọi nó là Tháp Hồ Phong. Đây là một ngơi tháp mang vẻ rêu phong cổ kính
cùng với thời gian. Toà tháp mang vẻ đẹp tâm hồn của người Hà Nội đã tồn
tại hơn 200 năm, nhưng có lẽ ít người biết về lịch sử gắn liền với một ngơi
chùa bên bờ hồ Hồn Kiếm mà nay đã vang bóng một thời...
Tơi xin được kể với q vị về lịch sử của ngôi tháp này. Dải đất Bưu
điện Hà Nội bên bờ hồ Hoàn Kiếm bây giờ là thôn Cựu Lâu xưa. Những năm
đầu niên hiệu Thiệu Trị nhà Nguyễn, Tổng đốc Ninh Thái là Nguyễn Đăng
Giai chủ hưng cơng cho dựng ngơi chùa Liên Trì Hải Hội trên nền cũ lầu Ngũ
Long với quy mô to lớn nhất chốn kinh kỳ. Ngơi chùa hồn thành vào năm
Thiệu Trị thứ 7 (1847), gồm 36 nóc, gần 200 gian, vơ cùng lộng lẫy. Chùa
dựng xong Hồ thượng Phúc Điền trụ trì và cho ấn tống rất nhiều kinh sách
trong cơng cuộc hoằng dương Phật pháp mà cịn ghi nơi tàng bản. Chùa Liên
Trì Hải Hội có rất nhiều tên gọi như chùa Liên Trì,chùa Báo Ân, chùa Đại sứ
quán Hà Nội (Hà Nội Đại sứ quán tự)...người Pháp gọi là chùa Thụ Hình vì
dựa trên cảnh xử tội trong tranh Thập điện Diêm vương treo trên tường Phật
điện. Nhưng chùa tên là Liên Trì Hải Hội và được gọi tắt là Liên Trì (ao sen).
Chùa Liên Trì được xây dựng trên ý tưởng tơn giáo đạo Phật. Tồn bộ
ngơi chùa là một tổng thể kiến trúc đồ sộ mà ngày nay chỉ cịn lại những hình
vẻ của người Pháp cũng như mô tả rất sơ lược của sử sách. Chùa Liên Trì Hải
Hội với dụng ý được chiết xuất từ bài kệ trong kinh A Di Đà, một cõi Niết
22


bàn ngay chốn trần gian, thể hiện tồn bộ ngơi chùa là một đoá sen lớn, ý
nghĩa tầng thế giới siêu thoát trên đài sen tụ hội với đủ các chư vị Bồ tát và
Phật Di Lặc. Theo hình vẽ và mơ tả thì chùa cách biệt thế giới bên ngồi bởi
sự bao bọc các ngịi nước trồng sen và chỉ có một lối đi là chiếc cầu đá trước
chùa nối tiếp ra tận tháp Hoà Phong làm cổng. Qua cầu là Tam quan đồ sộ,
phía sau hai bên là hai tháp lớn, sau đó là tồn bộ ngơi chùa đồ sộ nguy nga.
Vào khoảng năm 1889, người Pháp dựng xây khu nhượng địa bên bờ Đơng

Nam hồ Hồn Kiếm và cho phá bỏ chùa Liên Trì, đến nay chỉ cịn dấu tích
vang bóng mà thơi. Dấu tích của chùa cịn lại tới nay là tháp Hồ Phong, với
vẻ đẹp cổ kính, lặng lẽ bên hồ và thời gian. Tháp cao ba tầng, cửa tháp theo
bốn hướng Đông Tây Nam Bắc, các cửa đều có chữ Hán làm ngạch nêu tên
như: Báo Đức mơn, Báo Ân mơn, Hồ Phong tháp, Báo Thiên tháp... tầng
trên cịn hình bát qi và chữ Phạn. Chùa xưa đã mất chỉ còn lại giai thoại về
vị quan Thượng "làm cho tổn Bắc lại hao Đoài" mà đến nay chỉ cịn lại tháp
Hồ Phong cũ kính rêu phong. Những hàng liễu rủ bóng như tơn vinh thêm
cho vẻ đẹp của tháp cổ. Người người sáng chiều qua lại đã bao đời bên tháp.
Thời gian cứ trôi và ngơi tháp vĩnh hằng làm một chứng tích cho tâm hồn và
lịch sử của đất và người Hà Nội.
Bây giờ chúng ta sẽ sang bên kia đường, đi theo lối này là đến Bắc Bộ phủ.
Quý khách hãy nhìn sang phía bên trái đi ạ! Vâng, thưa quý khách! Đó được
gọi là Tượng đài Lý Thái Tổ. Tượng đài đặt trên vườn hoa Chí Linh - một vị
trí rất đẹp, nhìn thẳng ra hồ Hồn Kiếm và được khánh thành vào ngày
7.10.2004 do nhà điêu khắc Vi Thị Hoa sáng tác, Cơng ti Trách nhiệm hữu hạn
Mĩ nghệ Đồn Kết tỉnh Nam Định thực hiện bằng đồng nguyên chất, đúc liền
khối, nặng 32 tấn (tượng 12 tấn, bệ 20 tấn), cao 10,1 m (tượng cao 6,8 m, bệ
cao 3,3 m). Là một cơng trình kiến trúc văn hố đẹp; nhằm tôn vinh vị vua Lý
Thái Tổ (974 - 1028), người khởi lập và tạo dựng nên mảnh đất ngàn năm văn
hiến, đồng thời là cơng trình chào mừng 50 năm giải phóng Thủ đơ

23


(10.10.1954 - 10.10.2004), tiến tới kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội
(1010 - 2010).
Đằng sau tượng đài là một khoảng đất khá rộng để người dân có thể nghỉ
ngơi và giải trí tại đây. Ở giữa có một ngơi nhà hình Bát giác trơng khá bắt mắt
được gọi với cái tên là nhà Kèn. Sở dĩ có cái tên như vậy là vì theo những

người lớn tuổi kể lại thì nơi đây, thời thực dân Pháp đơ hộ, cứ mỗi Chủ nhật
đến lại có một đội kèn đến đây chơi nhạc. Từ đó người ta quen gọi ngơi nhà đó
là nhà Kèn.
Thưa quý khách, chúng ta đang đi trên đường mang cái tên Lê Thạch.
Cuối con đường này, nhìn thẳng sang bên kia đường, q khách có thấy một
tồ nhà khá lớn mang kiến trúc cổ kính khơng ạ? Đó chính là Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. Đây là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt Nam.
Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham mưu
các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành
tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn
thảo các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tính dụng, xem
xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân hàng
thương mại nhà nước...
Xung quanh khu vực này có rất nhiều tồ nhà mang dấu ấn Pháp và
điển hình phải kể đến là Bắc Bộ phủ. Nằm cuối con đường Lê Thạch này, cắt
ngang với đường Ngơ Quyền, ngơi nhà mang số 12 chính là Bắc Bộ phủ. Đây
đã từng là nơi đặt trụ sở chính quyền Bắc kỳ, và là một di tích lịch sử của Việt
Nam.
Thời thuộc Pháp, tòa nhà này là Phủ thống sứ Bắc Kỳ. Sau khi Nhật
đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), tòa nhà được đổi thành Phủ khâm sai
Bắc Kỳ. Trong Cách mạng tháng Tám, ngày tổng khởi nghĩa ở Hà Nội (19
tháng 8 năm 1945), lực lượng Việt Minh cùng nhân dân Hà Nội đã tiến công
và chiếm giữ tòa nhà này. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí
24


Minh và Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hịa về làm việc tại đây
cho đến ngày tồn quốc kháng chiến. Trong thời gian này, tòa nhà được đổi
tên thành Bắc Bộ phủ.
Trong sáu mươi ngày đêm chiến đấu kìm giữ chân thực dân Pháp trong

thành phố (19-12-1946 – 19-2-1947), nhiều trận đánh ác liệt giữa quân và dân
Thủ đô với quân Pháp đã diễn ra, tiêu biểu là trận chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ
Phủ trong hai ngày 19 và 20-12-1946. Bảo vệ Bắc Bộ Phủ, ta có Đại đội 1
(Tiểu đồn 101 vệ quốc đồn) do Đại đội trưởng Mộng Hùng và Chính trị
viên Lê Gia Định chỉ huy. Đại đội đã tổ chức các các trận địa chiến đấu tại
Nha Thương mại, Bộ Bưu điện, rạp chiếu bóng Ê đen và khách sạn Gà Trống
Vàng. Lực lượng trực tiếp bảo vệ ngôi nhà Bắc Bộ Phủ có hai trung đội.
Trung đội 1 do đồng chí Bích chỉ huy, tổ chức phịng ngự vịng ngồi. Trung
đội 2 bảo vệ ngơi nhà Bắc Bộ Phủ. Ngồi vũ khí cá nhân, ta cịn có hai tổ
bom ba càng và hai quả bom 150kg đặt ở hai đầu cầu thang.
Một mục tiêu chủ yếu trong âm mưu đánh úp Hà Nội của quân Pháp là
phải nhanh chóng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ. Bởi thế, nhiều ngày trước khi
chiến tranh bùng nổ, Bộ chỉ huy Pháp đã điều hơn 200 lính đến đóng trên gác
hai khách sạn Metropol đối diện với Bắc Bộ Phủ. 24 giờ đêm 19-12, cánh
quân Pháp từ trong thành kéo đến phối hợp với lính Pháp ở khu vực này tiến
công Bắc Bộ Phủ.
Trong đợt tiến công thứ nhất, chúng cho xe tăng dùng hoả lực mạnh
yểm trợ cho bộ binh tiến cơng chính diện vào Bắc Bộ Phủ. Từ hào giao thông,
ụ chiến đấu bảo vệ vịng ngồi và từ các tầng gác cao, các chiến sĩ ta chống
trả quyết liệt. Nhiều lính Pháp trúng đạn bắn thẳng của ta đổ gục trước khách
sạn Gà Trống Vàng và cửa hàng công nghệ phẩm của hãng Sáp-phăng-giông.
Sau khi tổ chức lại lực lượng, địch lại tiến công lần thứ hai vào Bắc Bộ
Phủ. Hai xe tăng địch hạ nòng pháo bắn yểm hộ cho bộ binh địch xung

25


×