Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.42 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM
CORPORATE GOVERNANCE IN VIETNAMESE ENTERPRISES
Nguyễn Trường Sơn
Đại học Đà Nẵng
TĨM TẮT
Quản trị cơng ty tốt có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nên sự hài hòa các mối quan
hệ giữa hội đồng quản trị, ban giám đốc, các cổ đơng và các bên có quyền lợi liên quan trong
doanh nghiệp, từ đó tạo nên định hướng và sự kiểm sốt q trình phát triển của doanh
nghiệp. Quản trị công ty tốt sẽ thúc đẩy hoạt động và tăng cường khả năng tiếp cận của doanh
nghiệp với các nguồn vốn bên ngồi, góp phần tích cực vào việc tăng cường giá trị doanh
nghiệp, tăng cường đầu tư và phát triển bền vững cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Thời gian
qua, các doanh nghiệp Việt Nam mặc dù có sự tăng trưởng mạnh về số lượng, tuy nhiên chất
lượng doanh nghiệp còn thấp, năng lực cạnh tranh yếu. Một trong những nguyên nhân cơ bản
là năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị cơng ty cịn hết sức hạn chế. Trên cơ sở khảo sát thực
tiễn bài viết đi sâu phân tích thực trạng quản trị cơng ty trong các doanh nghiệp trên nhiều khía
cạnh: khn khổ pháp lý, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý của doanh nghiệp, tính minh bạch
trong hoạt động, vấn đề bảo vệ quyền của cổ đông và người lao động… từ đó đưa ra những
nhận định tổng quát và các đề xuất nhằm tăng cường năng lực quản trị công ty ở Việt Nam.
ABSTRACT
Good corporate governance plays an important role in creating a good balance among
the executive board, the directorate, shareholders and stakeholders whereby the business
development can be well-controlled and oriented. Good corporate governance not only
promotes activities, enhances the enterprises’ abilites to approach outside sources of capital
but also improves the business value, minimizes the enterprise risks, intensifies the investment
and sustainable development for the business and the economy. Over the past time, although
Vietnamese businesses has rapidly increased in quantity, their quality still remains low with
weak competitiveness. One of the reasons is the limited management capability. On the basis of
a practical survey, the article aims to analyse business management on various aspects: legal


framework, organizational structure and management mechanism, transparency, the proctection
of the rights of shareholders and employees…, which serves as a foundation for forming
general evaluations and putting up new proposals to strengthen managerial capability in
Vietnamese enterprises.

1. Đặt vấn đề
Sau hơn 20 năm đổi mới thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, hệ
thống doanh nghiệp ở Việt Nam đã hình thành và phát triển rộng khắp trên cả nước ở tất
cả các ngành kinh tế. Cùng với sự phát triển nhanh chóng về số lượng, sự xuất hiện của
các công ty lớn, quản trị công ty (QTCT) đang ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng
đồng doanh nghiệp và các nhà xây dựng pháp luật về doanh nghiệp. Sau gần 20 năm đổi
234


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

mới, cùng với q trình hồn thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, khung quản
trị về công ty cũng đã từng bước xây dựng, bổ sung và hoàn thiện. Cho đến nay, khung
QTCT ở Việt Nam được đánh giá là phù hợp với các yêu cầu và nguyên tắc quản trị phổ
biến được thừa nhận trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động QTCT ở Việt Nam vẫn còn nhiều
điểm hạn chế và yếu kém. Khái niệm “QTCT” vẫn còn rất mới mẻ. Theo một điều tra trên
các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam do IFC-MPDF [1] thực hiện, chỉ có 23% số người được
hỏi cho rằng các doanh nhân ở Việt Nam đã hiểu khái niệm và nguyên tắc cơ bản của
QTCT. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp còn lẫn lộn giữa QTCT với quản lý tác nghiệp.
Theo kết quả khảo sát thực tiễn về QTCT ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên năm 2009
[2] có tới 95.6% số doanh nghiệp được điều tra chưa thực hiện đầy đủ công tác QTCT.
Thực hành quản lý theo kiểu thuận tiện, thiếu vắng các yếu tố của QTCT làm cho năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp gặp nhiều hạn chế, doanh nghiệp lúng túng và chậm
phản ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đặc biệt là trong bối cảnh khủng
khoảng tài chính. Sự yếu kém về quản trị cũng làm cho doanh nghiệp Việt Nam “chậm

lớn”, đông về số lượng, tuy nhiên yếu kém về chất lượng.
2. Nội dung của quản trị công ty
2.1 Quan niệm về quản trị công ty (Corporate governance)
Quan niệm và nội dung của QTCT ở các quốc gia khác nhau là rất khác nhau.
Điều này do sự khác nhau về nguồn gốc thể chế luật pháp, đặc tính quốc gia, văn hóa và
trình độ phát triển của thị trường tài chính tại mỗi nước… từ đó ảnh hưởng đến quyền
của cổ đông, quyền của chủ nợ, và thực thi quyền tư hữu. Tuy nhiên có thể đưa ra một
định nghĩa chung, dung hòa được sự khác nhau trong cách quan niệm về QTCT như
sau: QTCT là một hệ thống các cơ chế và quy định, thơng qua đó, cơng ty được định
hướng điều hành và kiểm soát nhằm đáp ứng quyền lợi của nhà đầu tư, người lao động
và những người điều hành công ty.
Giữa QTCT (corporate governance) và quản trị kinh doanh (business
management) có sự khác nhau rất cơ bản: Quản trị kinh doanh là điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do Ban giám đốc thực hiện. QTCT là một quá
trình giám sát và kiểm soát được thực hiện để bảo đảm cho việc thực thi quản trị kinh
doanh phù hợp với lợi ích của các cổ đơng. QTCT nghĩa rộng cịn hướng đến đảm bảo
quyền lợi của những người liên quan, không chỉ là cổ đơng mà cịn bao gồm cả các nhân
viên, khách hàng, nhà cung cấp, môi trường và các cơ quan nhà nước.
QTCT được đặt trên cơ cở của sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp.
Công ty là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ đông…), nhưng để công ty tồn tại và phát
triển phải có sự dẫn dắt của Hội đồng quản trị, sự điều hành của Ban giám đốc và sự
đóng góp của người lao động, những người này không phải lúc nào cũng có chung ý chí
và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà đầu tư, cổ đơng có thể
kiểm sốt việc điều hành cơng ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
QTCT tập trung xử lý các vấn đề thường phát sinh trong mối quan hệ ủy quyền
235


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


trong công ty, ngăn ngừa và hạn chế những người quản lý lạm dụng quyền và nhiệm vụ
được giao sử dụng tài sản và cơ hội kinh doanh của cơng ty phục vụ cho lợi ích riêng
của bản thân hoặc của người khác, hoặc làm thất thoát nguồn lực do cơng ty kiểm sốt.
Tóm lại, QTCT là mơ hình cân bằng và kiềm chế quyền lực giữa các bên liên quan của
công ty, nhằm đảm bảo sự phát triển dài hạn và bền vững của công ty.
2.2 Nội dung của quản trị công ty
QTCT xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các nhóm lợi ích, các thành
viên khác nhau trong công ty, bao gồm các cổ đơng, hội đồng quản trị, ban điều
hành, ban kiểm sốt và những người liên quan khác của công ty như người lao động,
nhà cung cấp. Đồng thời, QTCT cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra
quyết định trong cơng ty, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm
thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các bên
có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc khơng có tiêu chuẩn rõ
ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thơng tin và khơng minh bạch.
Nói tóm lại, các chủ đề chính trong QTCT gồm có: Cơng khai và minh bạch thông
tin; Xử lý mâu thuẫn quyền lợi giữa người quản lý doanh nghiệp, hội đồng quản trị
và cổ đông khác; Xử lý mâu thuẫn giữa cổ đông lớn và cổ đơng thiểu số; Vai trị của
quản trị viên độc lập, các tổ chức kiểm tốn độc lập; Chính sách đãi ngộ với các
nhà quản lý; Thủ tục phá sản doanh nghiệp; Quyền tư hữu; Việc thực thi các điều
khoản luật và hợp đồng.
Quản trị cơng ty tốt có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế lành mạnh, tạo nên sự hài hòa của một loạt các mối quan hệ giữa ban giám đốc công
ty, hội đồng quản trị, các cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan, từ đó tạo nên định
hướng và sự kiểm sốt cơng ty. Quản trị cơng ty tốt sẽ thúc đẩy hoạt động và tăng
cường khả năng tiếp cận của công ty với các nguồn vốn bên ngồi, góp phần tích cực
vào việc tăng cường giá trị công ty, giảm thiểu rủi ro, tăng cường đầu tư và phát triển
bền vững cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
3. Đánh giá quản trị công ty tại Việt Nam
3.1 Dữ liệu và phương pháp điều tra
Để có thể đưa ra những nhận định về quản trị công ty tại các doanh nghiệp,

nhóm nghiên cứu đã xây dựng một mẫu điều tra gồm 400 doanh nghiệp có địa chỉ khắp
cả nước [2, 3]. Do khó khăn về thời gian và điều kiện nghiên cứu, quy mơ mẫu có phần
bị hạn chế, tuy nhiên với mục tiêu là đưa ra những nhận định tổng quát ban đầu về vấn
đề nghiên cứu, kích thước mẫu như trên là có thể chấp nhận được. Nội dung điều tra là
tìm hiểu mức độ vận dụng các nguyên tắc và tình hình thực thi nội dung quản trị công ty
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 thông qua ý kiến trả lời của nhiều thành
viên khác nhau của các doanh nghiệp: chủ sở hữu, thành viên HĐQT, lãnh đạo, cổ
đông, nhân viên…. Bảng câu hỏi sử dụng thang điểm Liker với 05 mức điểm đánh giá
cho việc tuân thủ các nguyên tắc và thực hiện nội dung quản trị công ty: 5 điểm - Tuân
236


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

thủ; 4 điểm - Nhìn chung được tuân thủ; 3 điểm - Được tuân thủ một phần; 2 điểm - Căn
bản không được tuân thủ; 1 điểm - Khơng được tn thủ.
Bảng 1. Đánh giá tình hình quản trị công ty tại các doanh nghiệp
NGUYÊN TẮC

MỨC ĐIỂM

1. Đánh giá về khuôn khổ pháp lý quản trị công ty

2.33

Khuôn khổ pháp lý chung về QTCT

2

Khuôn khổ pháp lý về cưỡng chế thực thi/minh bạch


2

Phân chia trách nhiệm quản lý rõ ràng

3

2. Quyền của cổ đông

2.80
Các quyền cơ bản của cổ đông

3

Quyền tham gia vào các quyết định lớn

3

Quyền tham dự Đại hội đồng cổ đông thường niên

3

Cổ đông được phép tham khảo ý kiến lẫn nhau

3

Tạo điều kiện thực hiện quyền sở hữu

2


3.Đối xử công bằng với các cổ đông

2
Tất cả các cổ đông được đối xử công bằng

2

Hội đồng quản trị/Ban giám đốc công bố thông tin về lợi ích

2

4. Vai trị của các bên có quyền lợi liên quan

2.50

Tôn trọng quyền hợp pháp của các bên có quyền lợi liên quan

3

Các bên có quyền lợi liên quan được khiếu nại

3

Công bố thông tin của các bên có quyền lợi liên quan

2

Bảo vệ người tố cáo

2


5. Tính minh bạch

2.5
Chuẩn mực công bố thông tin

3

Công bố thông tin kịp thời

3

Trách nhiệm của kiểm tốn độc lập

2

Tìm hiểu về xung đột lợi ích

2

6. Trách nhiệm của Hội đồng quản trị

2.67
Hoạt động có trách nhiệm và cẩn trọng

3

Đối xử cơng bằng với mọi cổ đông

2


Áp dụng các chuẩn mực đạo đức cao

2

7. Đánh giá chung về tình hình quản trị cơng ty

2.47

Tổng hợp và tính tốn từ các nguồn dữ liệu [2], [3].
237


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

Đánh giá chung về tình hình QTCT trong các doanh nghiệp Việt Nam chỉ nhận
được mức điểm khá thấp (2.47/5), chỉ đạt mức dưới trung bình. Trong đó việc tuân thủ
nguyên tắc đảm bảo quyền của cổ đơng và các chức năng sở hữu chính nhận được sự
đánh giá cao nhất (2.87/5), nguyên tắc đối xử công bằng với các cổ đông được đánh giá
tuân thủ kém nhất (2/5).
3.2 Bàn luận và nhận định về hạn chế của QTCT từ kết quả điều tra
Với kết quả điều tra được lượng hóa như ở bảng 1, kết hợp với việc phỏng vấn
sâu các thành viên của doanh nghiệp và sử dụng các dữ liệu thứ cấp [3, 4], có thể rút ra
những nhận định chung về các hạn chế của tình hình QTCT tại Việt Nam hiện nay như
sau:
- Về khuôn khổ pháp lý quản trị công ty
Kết quả đánh giá chung nhận được khá thấp (2.33/5). Tuy nhiên trên cơ sở
những văn bản pháp luật đã được ban hành như Luật Doanh nghiệp (2005); Luật Chứng
khoán (2006) có thể rút ra nhận định: khn khổ pháp lý về QTCT ở Việt Nam đã khá
đầy đủ và từng bước tiếp cận các chuẩn mực QTCT của thế giới. Tuy nhiên nhiều quy

định trong Luật còn khá chung và cho đến nay vẫn chưa có các Nghị định hướng dẫn,
do vậy các doanh nghiệp thiếu cơ sở để thực hiện. Kết quả đánh giá nhận được thấp,
theo chúng tôi chủ yếu do các thành viên của doanh nghiệp ít tìm hiểu về pháp luật nói
chung cũng như các vấn đề liên quan đến QTCT nói riêng. Nhiều nội dung Luật quy
định khá rõ ràng, tuy nhiên doanh nghiệp ít sử dụng.
- Về vấn đề tổ chức bộ máy và phân chia quyền hạn trong các doanh nghiệp
Có thể nói đây là điểm hạn chế lớn nhất trong QTCT hiện nay ở Việt Nam. Việc
tổ chức, quản lý và điều hành doanh nghiệp phổ biến hiện nay là đều theo cơ chế tập
quyền. Quyền hạn tập trung ở một số ít người, họ vừa là cổ đông lớn, vừa là thành viên
của Hội đồng quản trị (HĐQT) và đồng thời giữ các chức vụ chủ chốt trong ban điều
hành (Ban Giám đốc). Lãnh đạo doanh nghiệp hoạt động thực tế thiên về điều hành hơn
là hoạch định chiến lược và giám sát thực thi chiến lược phát triển doanh nghiệp; chưa
thực hiện được chức năng giám sát và cân bằng quyền lực giữa các bên trong doanh
nghiệp, nhất là giữa chủ sở hữu và điều hành.
Điểm mấu chốt nhất của QTCT là tạo ra được một HĐQT có đủ “tầm” để chỉ
đạo và kiểm sốt cơng ty. Theo thơng lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực
cao nhất của doanh nghiệp, nơi vạch ra những chiến lược và giám sát hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các thành viên HĐQT phải là những người mẫu
mực và đa năng, có vai trị hình mẫu cho cổ đơng và các bên có lợi ích liên quan. Tuy
nhiên trên thực tế, kết quả điều tra cho thấy: Đối với doanh nghiệp dưới hình thức cơng
ty, 95% giám đốc doanh nghiệp là thành viên của HĐQT, trong đó trên 60% vừa giữ
chức chủ tịch HĐQT vừa giữ chức giám đốc hoặc tổng giám đốc; đối với các doanh
nghiệp tư nhân, tuyệt đại bộ phận giám đốc doanh nghiệp là chủ sở hữu doanh nghiệp
và thực hành QTCT theo kiểu “gia đình”, một mình hoặc một số người thân đảm nhận
238


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

tất cả các chức năng quản lý. Như vậy giữa chức năng lãnh đạo với nhiệm vụ chính là

xây dựng chiến lược (thường của chủ doanh nghiệp và HĐQT) và chức năng quản lý
việc vận hành hàng ngày của người quản lý (Ban điều hành) không rõ ràng. Với việc
kiêm nhiệm “2 trong 1” này, các chủ doanh nghiệp trở nên rất bận rộn với việc điều
hành, không đủ năng lực và thời gian dành cho việc xây dựng chiến lược phát triển. Kết
quả tất yếu là phần lớn doanh nghiệp khơng có chiến lược, hoạt động chủ yếu mang tính
ngắn hạn, nhằm vào lợi nhuận trước mắt, tư duy chủ yếu dựa trên các “chiêu, chước”
mang tính ứng phó, thiếu tính dài hạn và bền vững.
Về Ban kiểm soát trong các doanh nghiệp: Hiện tại, trong các doanh nghiệp vai
trị của Ban kiểm sốt lại khá mờ nhạt. Hầu hết thành viên của Ban kiểm soát đều là
nhân viên của công ty, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Theo quy định, ban kiểm soát
phải kiểm tra và kiểm soát được hoạt động của HĐQT và Ban điều hành, tuy nhiên họ
lại là nhân viên cấp dưới, do vậy tính độc lập trong kiểm tra là rất hạn chế. Trên thực tế
hiện nay, hầu hết ban kiểm sốt đều hoạt động rất hình thức, phụ thuộc vào HĐQT và
ban điều hành. Với các đặc điểm nêu trên, Ban kiểm sốt khó có thể hồn thành được
chức năng, nhiệm vụ như luật định và trở nên hình thức, thường chỉ là người “đóng
dấu” cho ban lãnh đạo khi cần thiết. Vì vậy, thực trạng về ban kiểm sốt ở nước ta có lẽ
chỉ tồn tại dưới hình thức “người giám sát bị kiểm duyệt”, chứ chưa phải là một thể chế
giám sát nội bộ độc lập, chuyên môn và chuyên nghiệp để cân bằng hoạt động của
doanh nghiệp, phục vụ lợi ích tối đa của doanh nghiệp.
- Về công khai và minh bạch thông tin trong QTCT
Kém công khai và không minh bạch đang là một trong số các vấn đề lớn của
QTCT hiện nay ở Việt Nam. Chủ sở hữu, các cổ đông không nhận được một cách kịp
thời, chính xác và đầy đủ các thơng tin cơ bản về doanh nghiệp. Các thông tin cơ bản đó
bao gồm từ tổng tài sản đến đánh giá chính xác về thực trạng tài chính hiện nay và thông
tin về lưu chuyển tiền tệ trong quá khứ cũng như các thông tin về dự báo trong tương lai.
Điều này làm cho các nhà đầu tư và cổ đông khơng thể đánh giá chính xác giá trị doanh
nghiệp trong hiện tại cũng như tương lai. Các doanh nghiệp chưa có các chuẩn mực cơng
bố thơng tin, do vậy khá tùy tiện khi thực hiện. Cơng tác kiểm tốn nội bộ và kiểm toán
độc lập chưa được chú trọng. Chất lượng báo cáo tài chính và mức độ cơng bố thông tin đối
với các công ty niêm yết, đặc biệt là đối với các công ty cổ phần không niêm yết và doanh

nghiệp nhà nước chưa cao. Những cơ quan chịu trách nhiệm thúc đẩy quản trị công ty tốt
hoặc chưa có hoặc cịn yếu kém. Cần phải có nhiều nỗ lực để xây dựng một văn hóa kinh
doanh góp phần nâng cao việc thực thi có trách nhiệm, cơng bằng và minh bạch.
- Vấn đề bảo đảm quyền lợi của cổ đơng, nhất là những cổ đơng có cổ phần nhỏ
Về vấn đề này, kết quả điều tra cho thấy các doanh nghiệp đã bước đầu thực
hiện, tuy nhiên chưa đạt yêu cầu. Trong quá trình hoạt động, nhiều cổ đông nhất là các
cổ đông nhỏ không hoặc chưa được tham gia biểu quyết các vấn đề lớn như: sửa đổi các
văn bản quan trọng điều chỉnh hoạt động của công ty, phát hành thêm cổ phiếu hoặc tiến
hành các giao dịch bất thường…
239


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

- Tình hình thực hiện các lĩnh vực quản trị chức năng trong các doanh nghiệp
Quản trị công ty, bên cạnh việc tạo ra một cơ chế quản lý nhằm bảo đảm sự cân
bằng về quyền và lợi ích giữa các bên trong và ngồi doanh nghiệp còn đòi hỏi phải
thực thi tốt các hoạt động quản trị chức năng như quản trị chiến lược, nhân sự, tài chính,
marketing…Từ kết quả điều tra, đặc biệt là việc sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu đối với
các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và giám đốc điều hành cho thấy:
Về quản trị chiến lược: Đại bộ phận doanh nghiệp đều không xác định rõ ràng sứ
mệnh tồn tại, không có mục tiêu dài hạn và khơng xác định được mơ hình chiến lược phát
triển (trên 95%). Hoạt động của doanh nghiệp chủ yếu được xác lập thông qua các kế hoạch
vận hành ngắn hạn, phần lớn là kế hoạch tháng, thậm chí ngắn hơn. Có thể nói, tư duy ngắn
hạn, thiếu phương hướng hoạt động dài hạn đang là một đặc điểm lớn chi phối quá trình
hoạt động của doanh nghiệp. Tuổi thọ bình quân của doanh nghiệp rất ngắn, chỉ khoảng 3,4
năm. Rất nhiều doanh nghiệp được thành lập chỉ nhằm mục đích khai thác một cơ hội kinh
doanh nào đó, khi cơ hội đó khơng cịn nữa, doanh nghiệp cũng kết thúc hoạt động.
Về quản trị tài chính và kế tốn: Đặc điểm chung là các doanh nghiệp của Việt
Nam chưa thực sự vận hành hệ thống quản trị tài chính một cách khoa học và minh

bạch, phần lớn chỉ mới chú trọng chức năng kế toán, đặc biệt là kế tốn thuế nhằm ứng
phó với cơ quan Thuế. Quản trị dòng tiền đang là một khái niệm khá mới mẻ, phần lớn
chỉ mới chú trọng việc hạch tốn đúng doanh thu và chi phí để xác định lợi nhuận trong
từng năm hoạt động hoặc từng tác nghiệp riêng rẽ. Nhiều doanh nghiệp doanh thu tăng
nhưng luồng tiền vào và ra doanh nghiệp vẫn bị ách tắc, lúng túng trong huy động và sử
dụng nguồn vốn. Chưa thiết lập kế toán quản trị hoặc kế toán quản trị chưa cung cấp
đầy đủ, kịp thời thông tin kế tốn, tài chính phục vụ ra quyết định quản lý của lãnh đạo
đơn vị. Về hoạt động kiểm soát của kế tốn, nhiều khoản chi chứng từ khơng hợp pháp,
hợp lệ; kế toán chỉ tập hợp chứng từ quyết toán, chưa thực hiện kiểm sốt hoặc kiểm
sốt khơng đầy đủ; khơng kiểm sốt được hoặc kiểm sốt khơng chặt chẽ tiêu hao vật
tư, nguyên liệu, chi phí sửa chữa máy móc, thiết bị, cơng cụ, dụng cụ; kế tốn khơng
tham gia kiểm soát vật chất, kiểm soát trực tiếp các hoạt động quan trọng của đơn vị.
Về quản trị nguồn nhân lực: Nhân lực là một yếu tố căn bản quyết định năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp, tuy nhiên tình hình chung của các doanh nghiệp Việt Nam
là chất lượng nguồn nhân lực thấp và rất thiếu ổn định. Bên cạnh các nguyên nhân về hệ
thống đào tạo quốc gia, một trong những lý do chính của tình trạng này là cách quản trị
công ty của doanh nghiệp. Cách quản trị ấy không đáp ứng những nhu cầu nhân bản của
người lao động là: công việc phù hợp khả năng, phân công hợp lý, phát huy được khả
năng, thù lao tương xứng và cơ hội thăng tiến. Do đó doanh nghiệp khơng sản sinh ra
những quản trị viên có khả năng, nhiều nhân viên chủ động thôi việc nhưng doanh nghiệp
rất lúng túng trong việc bố trí nhân sự thay thế cho những vị trí nghỉ việc. Động cơ làm
việc của nhân viên chủ yếu là thu nhập để đảm bảo cuộc sống, làm việc theo kiểu “tháo
khoán”, hết giờ hoặc hết nhiệm vụ là nghỉ, ít sáng tạo và ít sáng kiến cải tiến cơng việc.
Nhân viên khơng biết hoặc không hiểu thấu đáo định hướng, chiến lược phát triển của
240


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

doanh nghiệp. Mức độ gắn bó giữa nhân viên và doanh nghiệp rất thấp, họ khá thờ ơ với

những thành công hay thất bại của doanh nghiệp, xem đó như là vấn đề của chủ doanh
nghiệp. Đối với giới chủ, vấn đề quan tâm lại là chính là sự giàu có và thành đạt của chính
bản thân mình hơn là vì doanh nghiệp trong đó họ cũng chỉ là một bộ phận.
Về quản trị thương hiệu và marketing: Điểm hạn chế lớn của các doanh nghiệp
là chưa quan quan tâm đến công tác xây dựng thương hiệu. Một số doanh nghiệp mới
chỉ hướng tới định vị sản phẩm của mình là “Hàng Việt Nam chất lượng cao” chưa nghĩ
đến chuẩn quốc tế hoặc thấp hơn là khu vực, thừa nhận sản phẩm mình là sản phẩm nội
địa, thể hiện sự tự ti nếu so với thị trường thế giới. Những sản phẩm chất lượng cao theo
chuẩn quốc tế không bao giờ tự quảng cáo là hàng Mỹ chất lượng cao hay hàng Nhật
chất lượng cao. Công tác marketing chủ yếu chỉ tiến hành các hoạt động quảng cáo, một
chiến lược marketing mang tính hệ thống cịn vắng bóng trong các doanh nghiệp.
Những vướng mắc, hạn chế nêu trên thể hiện cơng tác QTCT có nhiều khiếm
khuyết, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác điều hành và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Vấn đề đáng chú ý là nhiều đơn vị không xác định được
nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, do vậy mặc dù rất nổ lực khắc phục, nhưng chỉ
dừng ở mức độ sửa chữa các biểu hiện bên ngoài, triệu chứng của vấn đề, chưa chữa trị
được tận gốc những hạn chế, nên không mang lại hiệu quả như mong muốn, những
vướng mắc, bất cập tương tự vẫn tiếp tục phát sinh.
4. Kết luận và kiến nghị
4.1 Kết luận
Quản trị công ty theo chuẩn mực quốc tế là một yếu tố quan trọng giúp doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đa dạng hóa được nguồn lực phát triển đặc biệt là
nguồn lực tài chính trong một “thế giới phẳng”. Trên bình diện quốc gia, việc tạo ra một
khn khổ pháp lý và thực thi tốt quản trị công ty có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc
thu hút đầu tư, đa dạng hóa các quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế. Sự gia tăng
nhanh về số lượng, tuy nhiên năng lực cạnh tranh vẫn còn hạn chế của các doanh nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng
là vấn đề QTCT còn hết sức yếu kém. Điều này được thể hiện dưới nhiều khía cạnh
khác nhau: cơ cấu tổ chức hết sức đơn giản nặng về quản lý theo kiểu gia đình, cơ chế
quản lý chủ yếu theo kiểu thuận tiện; chưa phân biệt rạch ròi quyền và nghĩa vụ của các

bộ phận cấu thành như: Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban kiểm soát và nhân
viên… Chức năng hoạch định và điều hành chưa được phân biệt, doanh nghiệp hoạt
động mang tính ngắn hạn, điều hành chủ yếu theo tư duy tác nghiệp; Tính minh bạch
cịn hạn chế và chưa có cơ chế để đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động; Quyền lợi của
cổ đông nhỏ và người lao động trong doanh nghiệp chưa được quan tâm đầy đủ; Các
hoạt động quản trị chức năng còn nhiều hạn chế và đơn giản. Những hạn chế này đã đặt
ra những rào cản cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp phát triển
thiếu định hướng dài hạn và thiếu bền vững.
241


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

4.2 Kiến nghị
Để tăng cường quản trị công ty trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, cần
phải giải quyết nhiều vấn đề trên cả bình diện quản lý vĩ mô của Nhà nước và trong
phạm vi của từng doanh nghiệp.
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước: Chúng ta đã đạt được một số thành tựu
quan trọng trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý về QTCT theo thông lệ quốc tế, vấn
đề quan trọng hiện nay là phải làm cho các chủ thể kinh tế trong nước thấu hiểu, đồng
thuận và tuân thủ. Để làm được điều này điều quan trọng đầu tiên cần phải làm là phải
tuyên truyền và giáo dục để xây dựng và nâng cao nhận thức về QTCT và ý nghĩa của
QTCT đối với quá trình phát triển của doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Cần có sự thống
nhất về khái niệm và nội dung của khoa học quản trị, xây dựng hệ thống các khái niệm,
thuật ngữ cơ bản thông dụng nhất trong QTCT phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc
tế. Bản chất và nội dung cơ bản của quản trị sẽ được thể hiện thông qua chính những
khái niệm, thuật ngữ về khung QTCT. Qua đó bản chất của quản trị sẽ được thể hiện
một cách thống nhất, có thể hiểu được và đến với chủ sở hữu, những cán bộ, công chức
nhà nước và người quản lý doanh nghiệp. Do vậy, việc nghiên cứu, biên soạn các cẩm
nang hay sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo khác về quản trị rõ ràng phải là một

nhiệm vụ ưu tiên. Tích cực và chủ động tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo về QTCT.
Cần nghiên cứu và đưa các nội dung của QTCT vào giảng dạy tại các Trường đại học
và các tổ chức đào tạo thay cho việc chỉ dạy về quản trị kinh doanh trong các trường
hiện nay.
Về phía các doanh nghiệp: Để áp dụng khoa học quản trị vào thực tiễn, doanh
nghiệp phải coi QTCT như một yêu cầu tự thân, nội tại vì chính lợi ích của doanh
nghiệp cũng như sự phát triển bền vững và lâu dài của doanh nghiệp, phải xem việc
nâng cao năng lực QTCT như một trong những yếu tố quyết định cấu thành năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Với những hạn chế như đã phân tích ở trên, tăng cường
QTCT trong các doanh nghiệp trước hết cần hết sức chú trọng việc xây dựng hệ thống
quản trị. Hệ thống đó phải bao gồm: tổ chức bộ máy, chính sách, quy chế, quy trình
nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm soát; quy định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận,
có sự phân cơng, phân nhiệm, ủy quyền rõ ràng, xác định được trách nhiệm cá nhân gắn
với chất lượng công việc và quyền lợi của người thực hiện; các quy trình nghiệp vụ phải
đủ chi tiết, cụ thể để hướng dẫn thực hiện, xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân,
từng bộ phận có liên quan. Hệ thống các quy chế, quy trình quản trị của doanh nghiệp
cần bao gồm: (1) Công tác điều hành của Ban giám đốc: Quy chế hoạt động của Ban
giám đốc; Văn bản phân công nhiệm vụ cho các thành viên Ban giám đốc; Quy định về
cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của các bộ phận, phòng ban trong đơn vị; Nội
quy hoạt động của doanh nghiệp; Quy chế hoạt động, quy trình nghiệp vụ của các
phịng, ban; Quy định về hệ thống thơng tin, báo cáo các lĩnh vực hoạt động phục vụ
điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp, lãnh đạo các phòng, ban; Quy chế quản lý tài
chính; Quy chế quản lý, sử dụng tài sản; Quy định về trình tự lập, xét duyệt, luân
242


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

chuyển và lưu trữ chứng từ kế toán; Quy định về kế toán quản trị, Quy định về hệ thống
định mức tiêu hao vật tư; Quy chế, quy trình về kiểm sốt nội bộ… Bên cạnh việc xây

dựng hệ thống, vấn đề tiếp theo là làm cho hệ thống đó thực sự vận hành được trong đời
sống của doanh nghiệp. Bên cạnh việc kiên định với mục tiêu phát triển và áp dụng hệ
thống, cần hết sức chú trọng việc giám sát, kiểm tra và đánh giá nhằm cải tiến liên tục
hệ thống cho ngày càng phù hợp hơn với điều kiện thực tế của doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Erik Berglof - Stijn Claessens. “Thực thi và quản trị công ty tốt ở các nước đang phát
triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi” - The World bank research observer, vol
21 no1 2006
[2] PGS.TS Nguyễn Trường Sơn – Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ trọng điểm “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp theo thành
phần kinh tế ở Đà Nẵng” – Mã số B2006 – ĐN01 – 08TĐ.
[3] PGS.TS Nguyễn Trường Sơn – Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Tỉnh “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Quảng Ngãi”.
[4] TS. Huỳnh Năm – “Tăng cường Quản trị Công ty, giải pháp nâng cao hiệu quả và
phát triển bền vững doanh nghiệp sau cổ phần hóa” – NXB Đà Nẵng – 2007.
[5] />quan-tri-cong-ty-nang-cao-hieu-qua-cua-doanh-nghiep.html

243



×