Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

KHUC THUA DU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.07 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Họ Khúc (lịch sử Việt Nam)</b>



<b>Họ Khúc là dòng họ nắm quyền cai trị </b>Việt Nam đầu thế kỷ 10, mở đầu Thời kỳ tự chủ Việt
Nam sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Họ Khúc truyền nối làm chức Tiết độ sứ gồm 3 đời: Khúc
Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ, cai trị từ năm 905 tới năm 923 hoặc 930.


<b>Nắm lấy vận hội</b>



Cuối thế kỷ 9, chính quyền trung ương nhà Đường suy yếu nghiêm trọng. Nạn cát cứ của quân
phiệt địa phương ngày càng ác liệt, khởi nghĩa Hoàng Sào (874-884) làm triều đình nhà Đường
càng thêm suy yếu.


Đầu thế kỷ 10, nhà Đường rơi vào tay quyền thần Chu Ôn, các thế lực cát cứ nổi lên đánh giết
lẫn nhau, tạo ra thế chia cắt 5 đời 10 nước (Ngũ Đại Thập Quốc). Năm 905, ở Tĩnh Hải quân (tên
gọi Việt Nam lúc đó), Tiết độ sứ Độc Cơ Tổn mới sang đã rất độc ác mất lịng người, bị gọi là
"Ngục Thượng thư" (thượng thư ác). Tổn lại khơng cùng phe với Chu Ơn nên chỉ vài tháng lại bị
Chu Ôn dời tiếp ra đảo Hải Nam và giết chết. Tĩnh Hải qn do đó khơng có người cai quản.
Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã tiến ra chiếm đóng
phủ thành Đại La (Tống Bình cũ - Hà Nội), tự xưng là Tiết độ sứ.


<i>Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 5) viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng</i>


Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hịa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi
loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ...".


<i>Sau khi đã nắm được quyền lực thực tế trên đất Tĩnh Hải quân, ông đã cho xây dựng chính </i>
quyền dựa trên danh xưng của chính quyền đơ hộ nhà Đường, nhưng thực chất là một chính
quyền độc lập và do người Việt quản lý. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường"
buộc triều đình nhà Đường phải cơng nhận chính quyền của ông. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua
Đường phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự".
Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành


quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ.

<b>Thời điểm bắt đầu</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Một số bộ sử như Việt Sử lược, Đại Việt Sử ký Toàn thư chỉ nhắc tới Khúc Hạo và Khúc Thừa </i>
Mỹ mà không nhắc tới Khúc Thừa Dụ. Có thể việc tiến vào nắm quyền ở Đại La do con ông là
Khúc Hạo thực hiện nhân danh Khúc Thừa Dụ vì lúc đó ông đã quá già yếu, chỉ làm việc "chỉ
đạo" phương sách.


<b>Cải cách hành chính</b>



Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên kế vị và phong cho con là Khúc
Thừa Mỹ làm "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu" để kế vị. Nhà Hậu Lương lên thay


nhà Đường công nhận ông làm "An Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ". Khúc Hạo là nhà cai trị ơn hồ
nhưng rất vững vàng.


Khúc Hạo đã tiến hành cải cách quan trọng về các mặt. Đường lối chính trị của ơng được sử sách
tóm lược ngắn gọn song rất rõ ràng: “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều
được yên vui”. Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế mà lực dịch nặng nề của thời thuộc Đường.
Ông ra lệnh “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho
giáp trưởng (quản giáp) trơng coi”.


Khúc Hạo đã có những cố gắng đầu tiên nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất từ
trung ương đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu,
giáp, xã. Mỗi xã đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một
số xã ở gần nhau thời thuộc Đường gọi là hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và
một phó tri giáp để trông nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách “An Nam
chí nguyên”, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây nhà Đường đặt, cả
thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.



<b>Thân xa bỏ gần</b>



Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngơi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa
nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907. Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là


Chu Ôn lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức “Tĩnh Hải quân tiết
độ, An Nam đô hộ”. Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam. Sự
cai trị vững vàng của Khúc Hạo khiến họ Lưu khơng dám nhịm ngó tới phương nam.


Khi Quảng Châu mạnh lên, tháng 9 năm 917, em Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm (lên thay từ năm 911)
bèn xưng đế, lập ra nước Nam Hán, một trong Mười nước thời Ngũ đại Thập quốc. Nhận thấy
nguy cơ từ phía họ Lưu, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm “khuyến hiếu sứ” sang Quảng
châu, bề ngoài là để ‘‘kết mối hoà hiếu’’, song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của
địch.


Cuối năm 917 khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Khúc Thừa Mỹ lên thay cha làm Tiết
độ sứ Tĩnh Hải qn. Ơng khơng tiếp tục chính sách "khoan thứ sức dân" mà Khúc Hạo đã áp
dụng. Nhân dân tại Tĩnh Hải quân phải lao dịch nặng nề, do đó sự ủng hộ với họ Khúc khơng
cịn được như trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Được sự hậu thuẫn của Hậu Lương, Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Lương rộng lớn
ở trung nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Ơng cơng khai gọi nước
Nam Hán là "nguỵ đình" (triều đình tiếm ngơi, khơng chính thống). Chính sách đối ngoại đó của
Khúc Thừa Mỹ khiến vua Nam Hán tức giận và quyết định sai Lý Khắc Chính cầm quân sang
đánh chiếm Tĩnh Hải quân.


Do mất sự ủng hộ của nhân dân trong nước, nhà Hậu Lương thừa nhận ông cũng sắp bị diệt vong
lại ở q xa càng khơng thể hỗ trợ được gì, Khúc Thừa Mỹ đơn độc và bị thua trận. Ông bị quân
Nam Hán bắt đưa về Phiên Ngung. Vua Hán cử Lý Tiến làm thứ sử Giao châu.



<b>Thời điểm kết thúc</b>



Sử sách chép không thống nhất về thời gian Nam Hán xâm lược Tĩnh Hải quân. Hai sách cổ sử
Việt Nam là Đại Việt Sử ký Toàn thư và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép thời
gian này là tháng 7 âm lịch năm 923, tức là 3 tháng trước khi nhà Hậu Lương mất. Sách Việt
Nam sử lược cũng lấy năm 923.


<i>Các sách sử Việt Nam hiện đại căn cứ vào các sách sử cổ của Trung Quốc như Tư trị Thông </i>


<i>giám (ra đời thời </i>nhà Tống<i>) và Tân Ngũ Đại sử đều ghi năm 930. Hai cuốn sử cổ này của </i>Trung
Quốc<i> đều ra đời trước các sách Đại Việt Sử ký Tồn thư và Khâm định Việt sử Thơng giám </i>


<i>cương mục của </i>Việt Nam nên được các nhà sử học Việt Nam coi là nguồn thông tin đáng tin cậy
<i>hơn. Trong các sách sử cổ của Việt Nam chỉ có Việt sử tiêu án cũng chép gián tiếp năm 930 là </i>
<i>năm họ Khúc mất (Việt sử Tiêu án tính họ Khúc từ năm 880 tới năm 930 là 51 năm). Các nhà sử </i>
<i>học hiện nay khi chú giải sách Đại Việt Sử ký Toàn thư cũng đưa ra câu hỏi không rõ sách này và</i>


<i>Khâm định Việt sử Thông giám cương mục căn cứ vào đâu để ghi Nam Hán bắt Khúc Thừa Mỹ </i>


vào năm 923.


Tính từ Khúc Thừa Dụ đến Khúc Thừa Mỹ, họ Khúc cầm quyền được 3 đời. Theo thuyết thứ
nhất, họ Khúc cầm quyền 18 năm (905-923). Theo thuyết thứ hai, họ Khúc cầm quyền 25 năm
(905-930).


<b>Nhận định</b>



Dù không xưng hiệu, họ Khúc vẫn được đời sau tôn như những vị vua. Khúc Thừa Dụ được gọi
<i>là Tiên chủ, Khúc Hạo là Trung chủ và Khúc Thừa Mỹ là Hậu chủ. Trong 3 đời họ Khúc, Khúc </i>
Hạo là người được nhắc đến nhiều nhất do những đóng góp của ơng đối với lịch sử Việt Nam lúc


đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4></div>

<!--links-->
<a href=' />

khúc thừa dụ
  • 4
  • 1
  • 1
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×