Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN lớp 5 Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt văn tả cảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.39 KB, 15 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong chương trình Tiểu học hiện nay, Tiếng Việt được chia thành các phân mơn,
mỗi phân mơn có nhiệm vụ rèn lụn cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn
Tập làm văn là phân mơn mang tính tổng hợp cao nhất, nó có vai trị rèn cho học sinh cả
bốn kĩ năng, trong đó quan trong là các kĩ năng nghe, nói, viết. Đối với phân mơn này,
các em được rèn luyện năng lực trình bày ở dạng văn bản với nhiều thể loại khác nhau.
Qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học An Thạnh 1A, tôi nhận thấy phân mơn
Tập làm văn là phân mơn khó nhất trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Để thực
hiện được mục tiêu của phân môn Tập làm văn là phải xây dựng được kĩ năng nói và
viết thành thạo, các em cần huy động tất cả các kiến thức của các phân mơn Tập đọc,
Chính tả, Lụn từ và câu, Kể chụn,…Trong khi đó, các em phát triển chậm thì rất
“ngán” học phân môn này.
Với học sinh lớp Năm, việc rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho các em là cần thiết.
Học tốt văn tả cảnh sẽ là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và
học tiếp lên các lớp trên. Việc giúp các em hoàn thành tốt bài văn tả cảnh sẽ góp phần
nâng cao năng lực cảm thụ văn học mà còn giúp các em khám phá được những cái đẹp
qua việc xây dựng văn bản.
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà
trường nói chung, dạy cho học sinh lớp 5 học tốt văn tả cảnh nói riêng, tơi đã chọn đề
tài: Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5A trường tiểu học An Thạnh 1A học tốt văn
tả cảnh.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài, tơi khơng có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng
góp một phần cơng sức của mình vào cơng tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên
cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực
tiễn giảng dạy mơn Tập làm văn trong trường Tiểu học An Thạnh 1A nói riêng, trong
ngành giáo dục Huyện Cù Lao Dung nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài
thành cơng, đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh cũng sẽ được nâng lên
một cách đáng kể.
1




Chỉ tiêu: Cuối năm học, 100% học sinh có thể làm được bài văn tả cảnh theo yêu
cầu. Trên cơ sở kiến thức, kĩ năng về văn tả cảnh đã được học, các em vận dụng tốt ở
các lớp trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1.Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Tiểu học An Thạnh 1A. Trong q trình áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm, tơi có chú ý phân loại đối tượng học sinh theo trình độ “
Hồn thành tốt, hồn thành và chưa hồn thành”
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm nên tôi
chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài văn tả cảnh cho học
sinh lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Các phương pháp nghiên cứu thuộc phạm trù lí luận: Sưu tầm tập hợp tài liệu,
phân tích, so sánh đề xuất ý kiến.
- Các phương pháp nghiên cứu thuộc phạm trù thuộc tiễn: Quan sát, kiểm tra, đối
chiếu kết quả nhận thức của học sinh.
5. Tính mới của dề tái:
- Lập được dàn bài chi tiết theo nộ dung, yêu cầu của đề bài trên cơ sở các câu hỏi
gợi ý của giáo viên kết hợp với quan sát.
- Viết được một đoạn văn, bài văn hay giàu hình ảnh,diễn đạt trơi chảy, sắp xếp các
ý theo một trình tự hợp lí. Mỗi đoạn văn đảm bảo được câu mở đoạn và câu kết đoạn.
Biết viết câu chuyển giữa các đoạn
- Thông qua việc trình bày đoạn văn đã viết trước lớp, học sinh phát triển khả năng
diễn đạt, giao tiếp và học tập những điểm hay ở bài văn tả cảnh.
PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các

kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một
bài Tập làm văn.

2


Theo quan điểm tích hợp, các phân mơn được tập hợp lại xung quanh trục chủ
điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ
với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả Tập làm văn tả cảnh nhất thiết người
giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Lụn từ và câu. Vì trong các bài
đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ- câu thường xuất hiện các đoạn văn,
khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người,...
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khơ cứng, góp nhặt
của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn
của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu
quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp
Tiểu học.
Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ
năng của Chương trình giáo dục phổ thơng cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng
của từng môn học và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp. Tôi tin rằng đề tài
này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho phân mơn Tập
làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5.
2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu:
2.1. Thực trạng học sinh:
Năm học 2017-2018 và 2018-2019, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A . Hầu
hết học sinh của lớp 5A tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm văn tả cảnh.
Sau khi nghiên cứu tôi nhận thấy học sinh đã được học văn tả cảnh tả. Nhưng qua khảo
sát chất lương cuối năm học 2017-2018 học sinh bị điểm dưới chuẩn về Tập làm văn,

dẫn đến môn Tiếng Việt của lớp tôi đạt kết quả không khà quan..
Các hạn chế của học sinh là:
- Bài viết của học sinh cịn mắc nhiều lỗi chính tả.
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài tả cảnh.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều em
chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
- Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật cịn hời hợt.
3


- Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi làm văn tả cảnh .
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở
thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập
làm văn là một phân mơn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức
chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 5.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn tả cảnh của học
sinh không đạt yêu cầu ? Qua q trình giảng dạy lớp 5, tơi nhận thấy học sinh học chưa
đạt Tập làm văn là do nhiều ngun nhân.
2.2. Ngun nhân của thực trạng
Theo tơi có sáu nguyên nhân như sau:
+ Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
+ Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng tả cảnh.
+ Khi quan sát thì các em khơng được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát
những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần
tả cảnh.
+ Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật khi quan sát.
+ Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc,
chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về
một con người cụ thể nào đó.
+ Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. (nhất là giáo viên lớp

5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa
bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó
các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thơng viết thạo Tiếng Việt và
phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
3. Các giải pháp tiến hành giải quyết vấn đề:
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ
của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra bảy giải pháp sau đây,
hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tơi nói riêng cho
nhà trường nói chung.
3.1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập
làm văn:
4


Dạy biện pháp nào để học sinh học tốt Tập làm văn, viết được những bài văn tả
cảnh sinh động ? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung chương trình, đồng
thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh.
Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác
lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp
tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững những vấn đề sau :
a. Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và làm
bài tập thực hành theo các biện pháp sau:
- Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
- Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
b. Trình tự dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại bài
Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy từng loại bài,
giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội dung cho học sinh học
tốt; có nội dung cho học sinh hơc chưa tốt,...
Ví dụ:

Muốn dạy học sinh làm văn tả cảnh đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào là
văn tả cảnh, đặc điểm thể loại văn tả cảnh, biết yếu tố nào là quan trọng và cần thiết để
giúp học sinh làm được bài văn tả cảnh sinh động thông qua quan sát đối tượng tả cảnh.
3.2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Tả cảnh là viết lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của cây
cối… để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy, tức là lấy câu
văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt.
Vì vậy, khi dạy văn tả cảnh , giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và tả theo
các trình tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự khơng gian:
Quan sát tồn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngồi
vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại).
Ví dụ 1:
Tả từ ngoài vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh.
Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc
5


bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà
uy nghiêm đề ở bức hồnh phi treo chính giữa.”
Ví dụ 2:
Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cành
khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành”.
b. Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì tả sau.
Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ :
“...Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe. Những
em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc sỡ đang chơi
đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị trấn, người ngựa dập dìu

chìm trong sương núi tím nhạt” (Đường đi Sa Pa).
c. Tả theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc
mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi tả
cảnh vườn cây nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng của
cảnh trong khu vườn trước nhất rồi tả đầy đủ chi tiết sau.
Ví dụ 1:
“Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức đặc biệt, mùi
thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa đậu từng chùm màu trắng
ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tơi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng
khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...”.
Tác giả đã tả cảnh nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng.
Ngồi các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh
kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...) để quan sát, cảm
nhận sự vật.
Ví dụ2:
Phân tích tả cảnh bài “Mưa rào” ta thấy tác giả đã quan sát bằng các giác quan như
sau:
+ Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
6


+ Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
+ Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận
mưa đầu mùa.
+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót của
chào mào.
3.3. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng đầu là
các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3

yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công
viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học sinh
hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: tả cảnh (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh một
buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. chỉ có yêu cầu về
thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu
cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả cảnh một cơn mưa khi em đang trên
đường đi học”...
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các em
có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
3.4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài tả cảnh:
Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung và thể
loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em nắm vững
các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng tả cảnh. Trong
mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc của mình.
* Kiểu bài tả cảnh: Cần xác định các yêu cầu sau:
7


a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn trình tự
quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng vẫn phải có một
vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều cơ bản nhất của nó. Khi

đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao qt toàn cảnh đồng thời phải
biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để quan sát.
b. Xác định trình tự miêu tả:
Khi tả phải xác định một trình tự phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên xuống hay từ
dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ thuộc đặc điểm của cảnh.
c. Chọn nét tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm đó
lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm cho cảnh
sinh động hơn, đẹp hơn.
d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong nó
cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh như thế nào sẽ
đem đến cho cảnh những tình cảm như thế.
e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:
Khi làm văn tả cảnh cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh hoặc
nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang đứng trước
cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví dụ :
Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức
(Sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chịm cây cao, rồi
nhạt dần và như hồ lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.”
Ta thấy câu văn tả cảnh sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn” với
“ánh sáng trắng nhợt”.
Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã
dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã sử dụng
nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết:
“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.”
8



“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng
trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
3.5. Làm giàu vốn từ cho học sinh
- Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài đọc,
từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ- câu cùng chủ điểm.
- Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một cảnh
vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh giá được bằng
vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về dùng từ, viết câu, làm
văn...
a. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt:
- Môn Tập đọc giúp các em hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, hiểu được nội dung
của các đoạn văn, khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, cảnh con người, thành
phố...). Mỗi tiết dạy Tập đọc nên thêm một vài câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự
miêu tả của tác giả để học sinh thấm dần về Tập làm văn tả cảnh.
- Môn Luyện từ & câu là mơn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất khi
dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ
thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ tả cảnh , dùng từ đặt câu, sắp xếp các
từ thành nhóm như nhóm từ ngữ tả đặc điểm cảnh vật, nhóm tả hoạt động,... Đặc
biệt ở chính phân mơn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ
theo các đề tài nhỏ:
Ví dụ 1:
Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dịng sơng (bì bọp, ì ọp, ì ầm, xơn xao, ào ào...)
Ví dụ 2:
Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dịng sơng: dịng sơng như dải lụa,
dịng sơng như con trăn khổng lồ, dịng sơng như người mẹ hiền ơm ấp đồng lúa chín
vàng...
b. Sử dụng từ ngữ trong tả cảnh:
Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh cách sử dụng
vốn từ trong văn tả cảnh như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (đỏ mọng, đặc

sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ...).
9


Ví dụ : Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ từ...”
Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng chim... báo
hiệu một ngày mới bắt đầu. Ơng mặt trời... nhơ lên sau luỹ tre xanh. Khói bếp nhà ai...
bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường làng đã... người qua lại.”
3.6. Lập và hồn thiện dàn ý
Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp về
hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... địi hỏi học sinh phải có vốn
kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản.
Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ văn tả cảnh rồi, giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích xây
dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân
bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng tả cảnh để tránh tình trạng học sinh viết tràn
lan, lạc đề và tả không trọng tâm.
Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan trọng,
cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở, học sinh cần
chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp học sinh thành cơng
trong q trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài xong học sinh cần kiểm tra
lại bài viết của mình trước khi nộp bài.
3.7. Giáo viên nhận xét bài và trả bài viết cho học sinh:
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh. Ta nhận thấy rằng có nhận
xét bài chu đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả.
a. Nhận xét bài:
Khi nhận xét bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có cái
nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài đúng thể
loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ nhận xét bài những chỗ hay,
chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng HS.

Khi nhận xét bài xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh
và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung để chuẩn
bị cho tiết trả bài sắp tới…..
b. Trả bài viết:

10


Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, theo sách
giáo khoa xác định có 3 hoạt động chính:
1. Nghe thầy (cơ) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút kinh
nghiệm
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của học sinh
và thực hiện các hoạt động trả bài một cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất
lượng Tập làm văn của lớp.
*Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:
+ Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh đọc đề
bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình hình làm bài
của lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu của đề, số bài chưa đạt hoặc đạt
chưa đủ 3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp...).
+ Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của kiểu bài
tả cảnh. Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh nghe và nhận xét, cuối cùng
giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn tả cảnh đó.
*Hoạt động 2: Chữa bài:
Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:
+ Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà trong quá trình
nhận xét bài, GV đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính tả … Đến lúc
này GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định hướng như vậy sẽ giúp

cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ năng diễn đạt cho lớp. Tuy nhiên,
sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán trong HS vì tiết trả bài nào cũng sửa chữa
những lỗi đó.
+ Riêng tơi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho lớp, mỗi tiết
trả bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một cách bền vững, tức
là cần có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.
* Hoạt động 2 này tiến hành theo 3 bước :
+ Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:
11


Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu và thực
trạng viết câu.
+ Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi lời khen,
chê của cơ giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết câu, lỗi chính
tả…)
+ Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.
* Hoạt động 3:
Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số em cho cả lớp nghe
để học tập và rút kinh nghiệm.
4. Thực nghiệm và kết quả thực hiện:
Qua học năm học 2017 – 2018 các em đã nắm được một số vốn kiến thức chưa
nhất định để học phân môn Tập làm văn nên kết quả chưa đạt khả quan.
* Năm học 2017- 2018: Sĩ số lớp là 26 học sinh
Bài văn tốt
Số lượng
Tỉ lệ
Cuối
HKI

Cuối
năm

Bài văn đạt
Số lượng
Tỉ lệ

Bài văn chưa đạt
Số lượng
Tỉ lệ

6

23,08%

14

53,85%

6

23,07

8

30,77%

16

61,54%


2

7,69

Qua những biện pháp và giải pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến cuối học
năm học 2018 – 2019 các em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất định để học có
hiệu quả phân mơn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích môn học, không sợ sệt khi đến
tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em đa số đã có tiến bộ, học sinh
nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết câu văn trơi chảy,
mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ
trong các bài tập làm văn của mình. Các em cảm thụ được bài văn, đọc bài trôi chảy,
hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin khi đến tiết học Tập làm văn và đạt kết quả rất
khả quan.
* Năm học 2018- 2019: Sĩ số lớp là 31 học sinh
Bài văn tốt
Số lượng
Tỉ lệ
Cuối
HKI

10

32,26%

Bài văn đạt
Số lượng
Tỉ lệ
16
12


51,61%

Bài văn chưa đạt
Số lượng
Tỉ lệ
5

16,13%


Cuối
năm

22

70,97%

13

41,93%

Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này thật đáng
phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của tôi và học sinh lớp 5A trường
Tiểu học An Thạnh 1A. Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã góp phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp và của tổ chun mơn.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Sau một học kì áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhoi
nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn miêu tả sinh động,
đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, cơng sức nghiên cứu soạn

giảng, có lịng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy cô giáo đã
miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh học tốt văn sẽ khơng cịn là
khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học
sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân mơn Tập làm văn nói riêng và
mơn Tiếng Việt nói chung.
Tập làm văn đúng là phân mơn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên mỗi
bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta phải tơn trọng
nó, giúp đỡ nó để mỗi ngày có được nhiều học sinh học tốt văn. Biết đâu sau này trong
các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ...
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng
cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng nội dung
đề tài này khơng có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của giáo viên mà
thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì bây giờ ta dốc
hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt hái
được thành cơng.

13


Nhận xét, đánh giá
của nhà trường

An Thạnh 1, ngày tháng11 năm 2019
Người thực hiện

Nhận xét, đánh giá của Hội đồng
xét duyệt sáng kiến cải tiến kỹ thuật
ngành giáo dục

14



15



×