Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Bài soạn những bài văn hay 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.17 KB, 34 trang )

SUNDAY, 17. JUNE 2007, 09:54:40
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi
bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút
theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của
văn chương…
Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo
những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo những con
đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn chương…
Nói về đề tài mùa thu, một tác giả đã nhận định: “Đề tài "Mùa Thu" bao giờ
cũng có vẻ là dễ viết. Mùa thu dường như luôn luôn nấp sẵn trong ngòi bút của
chúng ta, nhất là những ngòi bút thơ: hễ động bút là mùa thu cứ chực đổ ùa ra
trên mặt giấy. Tưởng như với đề tài thơ mộng muôn thuở này có thể dễ dàng
chắp bút. Chỉ đến khi bắt đầu cầm bút ngồi trước mặt giấy, tôi mới thấy đề tài
này thật là khó” Tại sao lại có nghịch lí trong kinh nghiệm của người sáng tác
như vậy? Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê”
ngòi bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo
những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn
chương…
Sang thu của Hữu Thỉnh xuất hiện khi trước nó đã có rất nhiều bài thơ nổi tiếng
đông tây kim cổ: Thu hứng (Đỗ Phủ), Chùm thơ thu (Nguyễn Khuyến), Đây mùa
thu tới (Xuân Diệu)… Nhưng nó vẫn có cái hay, cái độc đáo riêng của một hồn
thơ sâu lắng, nhạy cảm khi mùa thu tới.
Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời điểm giao
mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng
cao, không phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét
mùa đông đã lẩn vào trong gió…Sang thu nghĩa là mới chớm thu thôi, cái tứ kết
buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng chỉ gói gọn trong chút “chớm” mỏng
manh đó.
Đặc biệt ở góc độ miêu tả tạo vật. Không hề có một từ định tính để miêu tả thế
giới thu. Có hương ổi, mùi hương vừa đặc trưng cho mùa vừa đặc trưng cho


làng thôn ngõ xóm. Nhưng hương ổi “thơm” như thế nào thì thi sĩ hoàn toàn
không miêu tả. Có gió, nhưng gió se chứ không phải là gió lạnh. Se gợi một
động thái, hơn là gợi một cảm giác. Làn sương giăng phủ ngõ thôn chẳng được
đặc tả ở mức độ (mù mịt) hay màu sắc (trắng mờ)... Dòng sông, cánh chim, hay
đám mây cũng không tô điểm cho phong cảnh thu bằng những gam màu đặc
trưng của nó. Truyền thống thơ thường kiến trúc ngôi nhà thu bằng những chất
liệu quen thuộc như cúc, liễu, ngô đồng hay màu trời, sắc nước…Hữu Thỉnh
hầu như khơi gợi cảm giác về mùa trong trạng thái mơ hồ của tạo vật. Thành
công nổi bật nhất của bài cũng là ở một hệ thống những động từ miêu tả rất
giàu cảm giác: “phả”, “se”, “chùng chình” “dềnh dàng” “bắt đầu vội vã” “vắt nửa
mình”… “Chùng chình” trước hết gợi tả chính xác những làn sương như ngưng
lại và nhẹ nhàng tỏa lan ngõ xóm. Dòng nước thu vốn trong trẻo và sâu hút làm
người ta khó mà thấy rõ được sự chuyển động nó nên cảm giác sông lững lờ
trôi cũng rất hiện thực. Đám mây như tấm khoăn voan của người thiếu nữ,
duyên dáng nối hai mùa là một liên tưởng thực sự độc đáo. Song trên hết, hệ
thống động từ toàn bài còn đặc sắc ở chỗ, nó không chỉ miêu tả chính xác trạng
thái của tạo vật mà còn thổi vào tạo vật những cảm giác rất người. Tinh tế và
sống động sao một buổi sáng chớm thu, sương như người khách ngập ngừng
nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút lạnh xa xăm, những cánh chim vội vã tìm về
phương ấm áp…
Song thời điểm chớm thu không phải chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu mơ hồ
trong trạng thái biến chuyển của cảnh vật, mà ở cả chút ngỡ ngàng bâng
khuâng của lòng người: “Bỗng nhận ra hương ổi”; “Hình như thu đã về”…
Tiếp tục thể hiện những dấu hiệu mùa thu rõ rệt hơn nhưng ý nghĩa của khổ
cuối không chỉ dừng lại ở đó:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa thu tới:

mưa và sấm thưa dần, không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả các dấu hiệu
của mùa hạ vẫn còn nhưng đã giảm dần mức độ, cường độ… Hàng cây như
đã quá quen với nắng lửa mưa giông, được gọi một cách hình ảnh là “hàng cây
đứng tuổi”. Chính các từ “bất ngờ”, “đứng tuổi” khiến ý nghĩa của câu thơ
không dừng lại ở nét nghĩa tả thực mà có chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm
chớp… hay là những vang động của cuộc đời? Trong tương quan ấy, hàng cây
tượng trưng cho con người từng trải mà bao dâu bể biến đổi không còn đáng
ngạc nhiên. Cảnh như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu đời
người.
Không hiểu sao, khi đọc bài thơ này, tôi chợt thấy nhớ rất nhiều những năm
tháng đã qua của mình. Miền kí ức tuổi thơ được đánh thức bởi mùi hương ổi,
bởi ngõ xóm thân quen ấy. Và có lẽ cũng nhờ giọng điệu êm nhẹ dễ cuốn
người đọc vào dòng cảm xúc, suy nghĩ tự nhiên của tác giả. Nét độc đáo nhất
của bài là những hình ảnh chính xác và giàu sức gợi tạo nên một bức tranh thu
giản dị mà sống động. Đây xứng đáng là một bài thơ thu hay trong thế giới thi
ca![/SIZE]

• Viếng lăng Bác
SATURDAY, 16. JUNE 2007, 08:08:50
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Nét độc đáo trước hết ở bài thơ này là nhịp thơ
Nét độc đáo trước hết ở bài thơ này là nhịp thơ. Nhịp thơ chậm rãi
như nhịp đi khoan thai, thành kính của dòng người vào Lăng viếng
Bác với những bước chân lặng lẽ, bồi hồi xao xuyến. Khổ thơ mở đầu
cho thấy tác giả đang chuẩn bị vào lăng viếng Bác, vì thế mới nhìn
thấy cảnh từ xa: "Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát". Ống kính
tâm hồn của nhà thơ bắt khá nhạy khi chọn cây tre làm biểu tượng
cho tinh thần Việt Nam với tư thế: "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".
Ở đây nhà thơ đặc biệt chú ý khi dùng từ láy "Ơi! Hàng tre xanh xanh
Việt Nam" chỉ hai chữ "xanh xanh" đã thổi hồn Việt vào từng cây cỏ

của một đất nước bốn mùa xanh tốt. Tiếp đó, cùng với hai từ láy
"ngày ngày" trong câu: "Ngày ngày mặt trời đi qua trên Lăng" đã dãn
rộng câu thơ, cho ta hình dung dòng người đang bước chậm lại. Khổ
thơ thứ hai này có sự chuyển dịch về không gian, khi tác giả bước
đến gần Lăng Bác hơn mới: "Thấy một mặt trời trong Lăng rất đỏ". Hai
câu thơ bất ngờ và hay nhất của bài thơ: "Ngày ngày dòng người đi
trong thương nhớ/Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân" đã
vĩnh cửu hóa tình cảm của dân tộc đối với lãnh tụ kính yêu.
Khổ thơ thứ ba là lúc nhà thơ đã bước vào trong Lăng. Hình ảnh Bác
hiện lên thật đẹp như huyền thoại: "Bác nằm trong giấc ngủ bình
yên/Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền". Vầng trăng chính là vầng
sáng ánh đèn, nhưng cũng là vầng trăng tình cảm dân tộc dành cho
Bác. Hàng tre, mặt trời và vầng trăng là những biểu tượng giàu tính
khái quát có sức gọi lớn lao. Cao trào của cảm xúc được dồn nén từ
thăm thẳm: "Dẫu biết trời xanh là mãi mãi" đến trào lên nức nở: "Mà
sao nghe nhói ở trong tim", chỉ một từ nhóiiii thôi mà tim ta bỗng thắt
lại. Tôi nghĩ sẽ không có một từ nào thay thế, gây xúc động hơn trong
văn cảnh này.
Khổ thơ cuối là lúc nhà thơ ra khỏi Lăng Bác và bước vào khu nhà
sàn của Bác ngập tràn trong hương hoa cây lá. Nhà thơ viết thật chân
thành: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt" và tiếp đó là ý
nguyện: "Muốn làm con chim ca hát quanh Lăng", "Muốn làm đóa
hoa", "Muốn làm cây tre" như một sự giãi bày cho ta thấy hình ảnh
lãnh tụ hòa quyện với thiên nhiên, với hồn Việt.
Bài thơ "Viếng Lăng Bác" viết giản dị, ngắn gọn, xúc tích, giàu nhạc
tính, cân đối như một khúc ca từ, ngôn ngữ thơ chọn lọc có sức gợi
mở. Vì thế khi được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc đã chắp cánh cho
tứ thơ bay xa, ngân vang mãi trong lòng chúng ta.
• So sánh bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu
đội xe không kính

SATURDAY, 16. JUNE 2007, 08:00:28
So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ “Đồng chí” và “Tiểu đội xe
không kính”.
Câu hỏi:So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ “Đồng chí” và
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Thí sinh cần nêu được 3 ý sau:
Ý 1: Giới thiệu chung
- Về đề tài: Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh
liệt chống Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm chưa
rời tay súng. Hình ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” là hình ảnh “con người đẹp nhất”
đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc.
- Về hai tác phẩm: Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ “Đồng chí” sáng tác
vào đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc,
bài thơ “Tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật
tham gia họat động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề
tài người lính.
- Về luận đề: hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ
trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong
hai thời kỳ lịch sử.
Ý 2: Phân tích lịch sử
1. Những điểm chung: Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang
những vẻ đẹp chung:
- Yêu nước, yêu quê hương yêu đồng chí:
+ Có thể phân tích các câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra trận” (Đồng
chí) và “Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước” (Tiểu đội xe không kính).
+ Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả
hai bài thơ thể hiện sự gắn bó đồng chí
- Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm
vụ:
+ Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết

hết sức thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ.
+ Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường “chờ giặc tới”, “ung
dung nhìn thẳng”.
- Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người
lính. Từ “miệng cười buốt giá” của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến
“nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” của anh lính lái xe thời chống Mỹ đều thể hiện
tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng.
2. Những điểm riêng khác nhau
- Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện người lính nông dân thời kỳ đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình
đồng chí thiềng liêng hòa quyện với tình giao tiếp khi lý tưởng chiến đấu đãa
rực sáng trong tâm hồn.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
- Bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật thể hiện người lính lái
xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với vẻ đẹp trẻ trung, ngang tàng. Đây là
thế hệ những người lính có học vấn, có bản lĩnh chiến đấu, có tâm hồm nhạy
cảm, có tính cách riêng mang chất “lính”đáng yêu. Họ tất cả vì miền Nam ruột
thịt với trái tim yêu nước cháy bỏng.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Ý 3: Đánh giá chung
- Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến
chống Mỹ đều mang phaẩm chất cao đẹp của “anh bộ đội cụ Hồ” thời đại đã
cung cấp cho các nhà thơ nhưng nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tại nên những hình
tượng làm xúc động lòng người.
- Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người
đồng đội của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động
SUNDAY, 17. JUNE 2007, 11:33:58

GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Phân tích những phẩm chất cao đẹp, đáng quý ở anh thanh
niên.
Phân tích những phẩm chất cao đẹp, đáng quý ở anh thanh niên.
Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về công việc và
cuộc sống.
+ Công việc là niềm vui, niềm đam mê cháy bỏng.
+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
Anh thanh niên có những hành động cao đẹp.
+ Vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm quen với cuộc sống chỉ có một
mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.
+ Dồn tất cả thời gian công sức, tự nguyện tự giác hoàn thành xuất sắc công
việc vốn hết sức vất vả và đơn điệu.
Anh thanh niên có phong cách sống rất đáng quý, đáng trân trọng.
+ Tổ chức cuộc sống ngăn nắp, khoa học, phong phú cả về vật chất và tinh
thần.
+ Khiêm tốn, cởi mở, chân thành với mọi người.
Đánh giá nhân vật, phát biểu cảm nghĩ.
Nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho những con người lao động mới, sống
có lý tưởng, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết mình cho đất nước.
Nhân vật anh thanh niên giúp ta hiểu thêm về thế hệ cha anh đi trước trong
một giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Trân trọng, khâm phục những nhân vật đáng quý, đáng mến trong “Lặng lẽ
Sa Pa”, ta nghĩ tới trách nhiệm, hành động của thanh niên chúng ta trong
công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.

SUNDAY, 17. JUNE 2007, 10:14:25
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Phân tích tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
* Yêu cầu về kỹ năng, phương pháp

- Học sinh cần nắm vững phương pháp, kỹ năng phân tích tác phẩm trữ tình.
- Bài viết có bố cục cân đối, hợp lý. Diễn đạt trôi chảy, có hình ảnh, bộc lộ cảm
xúc... Biết sử dụng hiệu quả các thao tác bình, so sánh đối chiếu trong quá trình
phân tích.
- Phải có phần phát biểu cảm nghĩ: Bài thơ gợi cho em những suy nghĩ gì về một
lối sống đẹp, sống có ích ?
Tuy nhiên thí sinh có hai cách giải quyết: Các em có thể lồng suy nghĩ của mình
khi phân tích ý thơ: Mùa xuân và tâm niệm của nhà thơ; hay các em có thể
chuyển thành một phần riêng sau khi đã phân tích toàn bộ bài thơ.
* Yêu cầu về nội dung:
Nội dung chính: Bài thơ được viết tháng 11.1980, khoảng 1 tháng sau thì nhà
thơ qua đời. Bài thơ là khúc ca xuân, là tấm lòng tha thiết, gắn bó của Thanh Hải
đối với đất nước, cách mạng.
Các em có thể dựa vào 3 ý sau để phân tích:
1/ Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời:
- Miêu tả theo lối phác hoạ nhưng nhà thơ vẽ ra được cả không gian gợi cảm vô
cùng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng rộn ràng, tươi vui.
- Cảm xúc say sưa ngây ngất của nhà thơ được diễn tả đa dạng và tập trung
nhiều ở chi tiết tạo hình
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
2/ Mùa xuân của đất nước và cách mạng: Từ mùa xuân của thiên nhiên chuyển
sang cảm nhận về mùa xuân đất nước, cách mạng với hình ảnh “lộc non” gắn
liền với hình ảnh người chiến sĩ và người nông dân đều trào dâng sức sống mãnh
liệt, tự tin với tương lai xán lạn rộng mở (Đất nước như vì sao...)
3/ Tâm niệm của nhà thơ:
- Nhà thơ khéo chọn vẻ đẹp của thiên nhiên để thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, ước
nguyện nung nấu của chính mình. Đấy cũng là những hình ảnh đơn sơ, nhỏ bé
(con chim hót, một nhành hoa, nốt trầm...) nhưng giàu sức gợi, thể hiện vẻ đẹp
cao quý của tâm hồn, lối sống của con người cách mạng. Và nghệ thuật điệp

ngữ, sự chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta” cũng góp phần làm sáng tỏ nội dung, ý
nghĩa bài thơ.
-“Mùa xuân nho nhỏ” là một ý thơ hay, vừa thể hiện sự khiêm tốn đồng thời
cũng là ý nguyện được sống có ích được cống hiến một phần công sức nhiệt
huyết của mình trong việc làm nên mùa xuân rộng lớn của đất nước xã hội.
- Đoạn kết bài thơ nghe nhẹ nhàng lan tỏa mà sâu lắng bởi làn điệu dân ca xứ
Huế, tỏ rõ niềm tin yêu lạc quan của Thanh Hải - người con xứ Huế.
4. Phát biểu nhận thức, suy nghĩ của bản thân:
* Gợi ý:
- Lối sống đẹp là biết phục vụ, cống hiến, hy sinh vì người khác, vì đồng bào, vì
quê hương đất nước thân yêu.
- Sống có mục đích, ước mơ, lý tưởng cao đẹp.
- Luôn trau dồi tri thức, rèn luyện nhân cách, đạo đức để trở thành công dân tốt,
có ích cho quê hương đất nước.
- Tuổi trẻ cần tránh xa những tệ nạn xã hội, đến với những hoạt động vui chơi
lành mạnh, bổ ích... vv
*Phân tích bài thơ.
1) Hình ảnh những chiếc xe không kính.
Đề tài xe cộ hiếm xuất hiện trong thơ ca từ cổ chí kim. Nếu có thì đó là những
chiếc xe tam mã trong thơ của us-kin một cách đầy lãng mạn. Còn với Phạm Tiến
Duật lại đưa một hình ảnh thực là những chiếc xe không kính vào thơ. Với hai
câu mở đầu tác giả đã giải thích nguyên nhân về việc xe không có kính " Không
có kính không phải ví xe không có kính/ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Hai
câu thơ này có vẻ giống như văn xuôi vì từ cách đặt câu cho đến số lượng từ ngữ
đều không vần. Hai câu này được viết với một giọng thản nhiên. Câu thơ thứ
nhất có tới ba từ không:" Không có kính không phải vì xe không có kính" chỉ để
thông báo một điều là hiện nay xe không có kính. Nguyên nhân của việc không
có kính này được giải thích ngay o câu thơ thứ hai. Không có kính vì bom giật
bom rung. Hai câu thơ không chỉ nhằm miêu tả một chiếc xe khác lạ mà còn diễn
tả sự dữ dội của chiến tranh. Chiến tranh là bom đạn, là mất mát. Các động từ

mạng giật, rung, vỡ diễn đạt sự khốc liệt của chiến tranh theo cấp số nhân.---Xe
không chi không kính mà còn không có đèn. Chắc hẳn những chiếc xe chở hàng
ra chiến trường không chỉ bị bom giật bom rung bởi vậy xe không chỉ không có
kình mà còn không có đèn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ thời kì đầu của đất nước
ta rất ác liệt. Từ việc hành quân đến việc chở hàng, vận chuyển vũ khí đều phải
tiến hành vào ban đêm. Khí thế ấy được Tô Hữu viết trong câu thơ:" Đêm đêm
rầm rập như là đất rung". Chính vì thws mà việc không có đèn khiến cho việc
chuyên chở bằng xe càng gian khổ hơn.--- Thế rồi bom rơi đạn lạc làm cho xe lại
không có mui. Như vậy chiếc xe đã trở nên biến dạng. Xe không có kính, không
có đèn, không có mui thế nhưng thùng xe thì chỉ bị xước bởi đơn giản những
chiếc xe vận tải mà không có thùng xe thì không thể chở đựoc đạn dược, lương
thực ra chiến trường. Bởi vậy thùng xe chỉ đựoc miêu tả là có vết xước mà thôi.
Có nhà phê bình đã bình luận đây là vết xước đáng yêu chứ không phải là thủng,
là không có. Có thwr nói rằng hình ảnh chiếc xe không kinh, không đèn, không
mui không phải là hiếm trong chiến tranh nhưng không phải nhà thơ nào cũng
nhận ra được va biến nó thành hình ảnh thơ độc đáo.
2) Hình ảnh những người lính.
So với những câu thơ viết về những chiếc xe thì số lưượng những câu thơ viết về
người lính nhiều hơn nhưng hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật
những hình ảnh của người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kinh, không đèn,
không mui là hình ảnh để người lính bộc lộ những phẩm chất hiên ngang, yêu
đời, tinh nghịch, giàu ý chí chiến đấu. Trước hết là tinh thần hiên ngang cho thấy
thái độ coi thường hiểm nguy của người lính. Trên những chiếc xe không kính,
không đèn, không mui người lính vẫn vững tay lái:" Ung dung buồng lái ta ngồi".
Không chỉ hiên ngang chấp nhận khó khăn mà người lính còn hiên ngang chấp
nhận nguy hiểm. Nào là gió vào xoa mắt đắng, nào là sao trời và cánh chim ùa
vào buồng lái. Song những người chiến sĩ không hề run sợ mà vẫn đối mặt với
những thử thách, giữ vững trận địa là buồng lái. Tác giả sử dụng biện pháp đảo
ngữ. Vị ngữ ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự tự tin, bình than
của những người lính lái xe. Ngoài ra còn các điệp từ" nhìn thấy" được nhắc lại

nhiều lần biểu hiện 1 nét đặc trưng của ngươif chiến sĩ, thi sĩ vừa tập trung hoàn
thành nhiệm vụ vừa không quên hưống tới vẻ đẹp thiên nhiên. Thiên nhiên
không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lãng mạn: bầu trời có sao, có cánh chim mà
cón có sự khốc liệt của bụi, của gió, của mưa như là 1 sự thách thức. Không cú
kính đương nhiên là có bụi, có mưa, có gió. Chỉ có điều cách diễn đạt của tác giả
làm cho chúng ta thây thía độ ngang tàng, bất chấp của người lính lái xe đó là "
ừ thì", là "chưa cần". Như vậy trước khó khăn gian khổ mà người lính không 1 lời
kêu ca. Lời thơ lúc này nhẹ nhõm, trôi chảy, nhịp nhàng giống như hình ảnh
chiếc xe bon vun vút ra chiến trường. Tâm hồn sôi nổi, tình đồng chí đồng đội
sâu sắc được thể hiện qua những câu thơ khổ 3,5,6. Ta thấy những chiến sĩ lái xe
là những chàng trai trẻ vui tính. Bom đạn không làm mất đi sự tinh nghịch. hóm
hỉnh. Họ đã " phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha". Tiếng
cười của những chàng trai như 1 khúc nhạn vui xua đi khó khăn, gian khổ và
giựo cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản. Họ hồn nhiên tếu táo nhưng ho cũng thậy
đoàn kết. Càng khó khăn gian khổi họ càng gắn bó keo sơn. Không chỉ chia nhau
từng điếu thuốc mà trong bom đạn nguy hiểm những người lính lái những chiếc
xe không kình đã tụ hopk lại thành 1 tiểu đội. Tiếu đội này không phải là tiểu đội
1 hay tiểu đội 2 mà là tiểu đội xe không kính. Nếu trong bài thơ đồng chí những
người lính thương nhau tay nắm lấy bàn tay thù những người lính trong bài thơ
này bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 1 cái bắt tay qua cửa kính đã vỡ không chỉ là 1
chút đùa vui mà còn đủ làm ấm lòng, đủ động viên nhau. Cái bắt tay giúp con
người xít lại gần nhau trong nhiều cái chung: chung hoàn cảnh, chung bếp lửa,
chung bát đũa và nhất là chung con đường nơi vô vàn thách thức hiểm nguy phía
trước. Ta thấy dù trong khoảng khắc nào của cuộc hành quân những người lính
cũng luôn dộng viên, cháo hỏi nhau. Trên dường đi họ bắt tay nhau qua cửa
kính, lúc nghỉ cùng nhau châm điếu thuốc, đén bữa chung bát đũa. Tất cả nhận
nhau là người cùng 1 gia đình, để rồi họ lại cùng nhau lên đường:" lại đi lại đi trời
xanh thêm". Câu thơ này không chỉ chan chứa hy vọng về 1 tương lai tốt đẹp
đang tới gần mà còn thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Một số biện pháp
tu từ trong bài thơ như: đảo vị trí các từ trong cụm từ ( phì phèo châm điếu

thuốc), hoán dụ ( Những chiến xe từ trong bom rơi/ Đã về đây họp thành tiểu
đội), điệp ngữ ( lại đi lại đi) đã góp phần khảng định vẻ đẹp tâm hồn của những
người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ngoài ra họ còn là những con người
có ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cúng với những
người lính, những chiến xe chở hàng ra chiến trường trải qua mưa bom bão đạn
không có kính rồi không có đèn rồi thùng xe có xứôc. Chỉ trong 2 câu thơi mà
điệp từ không đưộc nhắc lại 3 lần, 1 mặt để nhấn mạnh sự khó khăn, mức độ ác
liệt của chiên trường, mặt khác lại khảng định quyết tâm của những người lính.
Xe dù không có kính, dù không có đèn thì xe vẫn bon ra chiến trường. Bom đạn
quân thù có thể làm biến dạng xe nhưng không thể đè bẹp được tinh thần chiến
đấu của những người lính lái xe. Xe chạy không chỉ vì có 1 động cơ máy móc mà
còn có 1 động cơ tinh thần " vì miên Nam phía trước". Đối lập với tất cả những
cái không có ở trên là 1 cái có dó là trài tim. là sức manhj tinh thần đã giuúp
người lính chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim ấy đã thay thế cho tất cả những
thiếu thốn: không kính, không đèn, không mui để tiến lên phía trưốc cho miền
Nam thân yêu. Hầu như trong tất cả những bài thơ đều có 1 từ quan trọng neu
lên chủ đề bài thơ gọi là nhãn tự của bài thơ. Trong bài thơ này từ trái tim cũng
được coi là nhãn tự của bài thơ. Tử này hội tụ vẻ đẹp, sức mạnh của người lính.
Như vậy trái tim người lính là sức mạnh tinh thân tỏa sáng rực rỡ cho người lính
thêm sức mạnh để hướng tới miền Nam.
TUESDAY, 27. NOVEMBER 2007, 00:27:58
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề
tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu
như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ
quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái
ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng”
của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu
sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (Nguyễn Vũ Như Ý - học sinh trường
PTNK thành phố Hồ Chí Minh).

Bài do cô giáo Lê Thị Kiều Nga, giáo viên trường THCS Coltete thành phố Hồ Chí
Minh, cung cấp.
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề
tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu
như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ
quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái
ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng”
của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu
sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân
ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa
tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà
thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng
thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi
quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và
trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong
sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả
một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra
và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi
chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên được. Cũng
chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông”
và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng
hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như
thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến

trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm
sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính
hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới
ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn,
nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm
tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời
người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người
bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm
điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn
đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn
nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và
giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của
những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ
phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phá
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại
trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người
không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần
với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. VàØ rồi trong chính sự xa hoa đó,
người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng
thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không

quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm
rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính
phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính
người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công
việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra
khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của
người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống
đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái
nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình
huống bất ngờ xảy ra buộc ngươiø lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật
chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột
ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng
phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người
ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta
lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi
con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình.
Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng
của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con
người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống
yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là
một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy,
những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ
gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như người lính
trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho không bị
quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người
đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận
đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha
của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy
như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có
“sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng
nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào!
Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn,
làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và
chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái
tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống
trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn
thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những
hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết
lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị
suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng
không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật
mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con
người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng
quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn

hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chởù cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi
người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy
thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy
nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ
không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể
thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể
hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu
tâmtình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc/./
• Bếp lửa (Bằng Việt)
MONDAY, 26. NOVEMBER 2007, 10:22:15
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết về Bếp lửa của em Nguyễn Vũ Như Ý, do cô Lê Thị
Kiều Nga (giáo viên trường THCS Colette, quận 3,TP Hồ Chí Minh) cung cấp.
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn
nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó
có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc
đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống
bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong
tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm
nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn
nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó
có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc
đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống
bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong
tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm
nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “
Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài

thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời
thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê
hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất
khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập
chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng
tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời
bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách
xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu
thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc
ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà
cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ
niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được vàcung
chính t? đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả
toàn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm
tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như
thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích
tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá
tiên, có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những
năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái
không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được
bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai,
đào từng củ sắn đểâ cháu ăn cho khỏi đói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái
mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua,
những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ
lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính
là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa

×