Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

đề bài 21 sử dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.75 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Đề bài 21: Sử dụng Style để định dạng đoạn văn bản cho trong tệp “bai21Text.”
1. Các mục lớn được đánh số từ 1 đến 9 có style là “Heading 1”


2. Các mục con trong các mục trên sẽ có style là “Heading 2”, “Headnig 3”,… tùy theo
mức.


3. Các đoạn văn có style là “Normal”
Trong đó:


<b>Heading 1 có cỡ chữ là 18, kiểu chữ là “Times New Roman”, in đậm, căn đều hai bên.</b>
<b>Heading 2 có cỡ chữ là 16, kiểu “Times New Roman”, in đậm và căn đều hai bên.</b>
….


<b>Normal có kích thước là 13, kiểu “Times New Roman”. Cách đoạn phía sau 0.4 cm, thụt</b>
đầu dòng 0.5cm, căn đều hai bên.


4. Sử dụng Outline number để đánh số các chương, mục…
5. Sử dụng caption để ghi chú cho hình ảnh.


6. Tạo mục lục


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Mục lục


Phần 1 Các nguyên lý cơ bản...4


Phần 2 Phát triển...5


Phần 3 Phân loại máy tính...6


3.1 Theo mục đích sử dụng...6



3.2 Theo mức cải tiến công nghệ...7


3.3 Theo đặc trưng thiết kế...7


3.4 Kỹ thuật số và kỹ thuật tương tự...7


3.5 Nhị phân và Thập phân...8


3.6 Khả năng lập trình...8


3.7 Lưu trữ...8


3.8 Theo năng lực sử dụng...8


3.9 Các máy tính có mục đích khơng nhất định...9


3.10 Các máy tính có sẵn chương trình...9


3.11 Các máy tính có mục đích đặc biệt...10


3.12 Các máy tính có một mục đích...11


3.13 Theo hình thức hoạt động...11


Phần 4 Các ứng dụng máy tính...11


4.1 Internet...12


Phần 5 Phương thức hoạt động...12



5.1 Bộ nhớ...12


5.2 Bộ xử lý (CPU)...13


5.3 Thiết bị Xuất/Nhập (I/O)...13


5.4 Các chỉ thị...14


5.5 Kiến trúc...15


5.6 Chương trình...15


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Danh sách hình vẽ


<i>Hình 1:Một bộ máy tính để bàn</i>...4


<i>Hình 2:Hình con chíp Intel Pentimum II 300 MHz</i>...12


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>GIỚI THIỆU VỀ MÁY TÍNH</b>



<b>Máy tính, cũng gọi là máy vi tính hay máy điện tốn, là những thiết bị hay hệ thống</b>
dùng để tính tốn hay kiểm sốt các hoạt động mà có thể biểu diễn dưới dạng số hay quy luật
lơgic.


Máy tính được lắp ghép bởi các thành phần có thể thực hiện các chức năng đơn giản đã
định nghĩa trước. Quá trình tác động tương hỗ phức tạp của các thành phần này tạo cho máy tính
một khả năng xử lý thơng tin. Nếu được thiết lập chính xác (thơng thường bởi các chương trình
máy tính) máy tính có thể mơ phỏng lại một số khía cạnh của một vấn đề hay của một hệ thống.
Trong trường hợp này, khi được cung cấp một bộ dữ liệu thích hợp nó có thể tự động giải quyết
vấn đề hay dự đoán trước sự thay đổi của hệ thống.



Khoa học nghiên cứu về lý thuyết, thiết kế và ứng dụng của máy tính được gọi là khoa
học máy tính, hay khoa học điện tốn.


Từ "máy tính" (<i>computers</i>), đầu tiên, được dùng cho những người tính tốn số học, có
hoặc khơng có sự trợ giúp của máy móc, nhưng hiện nay nó hồn tồn có nghĩa là một loại máy
móc. Đầu tiên máy tính chỉ giải các bài tốn số học, nhưng máy tính hiện đại làm được nhiều
hơn thế. Máy tính có thể mua ở Anh đầu tiên là máy Ferranti Mark 1 Star sản xuất năm 1951
[1]theo đề cương "bé".


Đến những năm 1990, khái niệm máy tính đã thực sự tách rời khỏi khái niệm điện toán
và trở thành một ngành khoa học riêng biệt với nhiều lĩnh vực đa dạng và khái niệm hơn hẳn
ngành điện tốn thơng thường và được gọi là cơng nghệ thông tin. Tuy vậy đến ngày nay, một số
người vẫn cịn nhầm lẫn giữa hai khái niệm điện tốn và công nghệ thông tin.


<b>Phần 1 Các nguyên lý cơ bản</b>



Máy tính có thể làm việc thơng qua sự chuyển động của các bộ phận cơ khí, điện tử
(electron), photon, hạt lượng tử hay các hiện tượng vật lý khác đã biết. Mặc dù máy tính được
xây dựng từ nhiều công nghệ khác nhau song gần như tất cả các máy tính hiện nay đều là máy
tính điện tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong phần lớn các máy tính ngày nay, trước hết, mọi vấn đề sẽ được chuyển thành các
yếu tố tốn học bằng cách diễn tả mọi thơng tin liên quan thành các số theo hệ nhị phân (hệ
thống đếm dựa trên các số 0 và 1 hay còn gọi là hệ đếm cơ số 2). Sau đó, mọi tính tốn trên các
thơng tin này được tính tốn bằng đại số Bool (Boolean algebra).


Các mạch điện tử được sử dụng để miêu tả các phép tính Bool. Vì phần lớn các phép tính
tốn học có thể chuyển thành các phép tính Bool nên máy tính điện tử đủ nhanh để xử lý phần
lớn các vấn đề toán học (và phần lớn thông tin của vấn đề cần giải quyết đã được chuyển thành


các vấn đề toán học). Ý tưởng cơ bản này, được nhận biết và nghiên cứu bởi Claude E. Shannon
- người đã làm cho máy tính kỹ thuật số (digital computer) hiện đại trở thành hiện thực.


Máy tính không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của toán học. Alan Turing đã sáng tạo ra
khoa học lý thuyết máy tính trong đó đề cập tới những vấn đề mà máy tính có thể hay khơng thể
giải quyết.


Khi máy tính kết thúc tính tốn một vấn đề, kết quả của nó được hiển thị cho người sử
dụng thấy thơng qua thiết bị xuất như: bóng đèn, màn hình, máy in...


Những người mới sử dụng máy tính, đặc biệt là trẻ em, thường cảm thấy khó hiểu về ý
tưởng cơ bản là máy tính chỉ là một cái máy, nó khơng thể "suy nghĩ" hay "hiểu" những gì nó
hiển thị. Máy tính chỉ đơn giản thi hành các tìm kiếm cơ khí trên các bảng màu và đường thẳng
đã lập trình trước, rồi sau đó thơng qua các thiết bị đầu ra (màn hình, máy in,...) chuyển đổi
chúng thành những ký hiệu mà con người có thể cảm nhận được thơng qua các giác quan (hình
ảnh trên màn hình, chữ trên văn bản được in ra). Chỉ có bộ não của con người mỡi nhận thức
được những ký hiệu này tạo thành các chữ hay số và gắn ý nghĩa cho chúng. Trong quan điểm
của máy tính thì mọi thứ mà nó "nhận thấy" (kể cả khi máy tính được coi là có khả năng tự nhận
biết) chỉ là các hạt electron tương đương với các số 0 và 1. Xem thêm trí tuệ nhân tạo (artificial
intelligence) và robot.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Hình 1: Một bộ máy tính để bàn</i>


Các thiết bị tính tốn tăng gấp đơi năng lực (được định nghĩa là số phép tính thực hiện
trong một giây cho mỗi 1.000 USD chi phí) sau mỗi 18 đến 24 tháng kể từ năm 1900. Gordon E.
Moore, người đồng sáng lập ra Intel, lần đầu tiên đã miêu tả tính chất này của sự phát triển vào
năm 1965 (Xem định luật Moore). Cùng với việc tăng khả năng tính tốn trên một đơn vị chi phí
thì tốc độ của sự thu nhỏ kích thước cũng tương tự. Những chiếc máy tính điện tử đầu tiên
nhưENIAC (ra đời năm 1946) là một thiết bị khổng lồ nặng hàng tấn, tiêu thụ nhiều điện năng,
chiếm một diện tích lớn, thực hiện được ít phép tính và địi hỏi nhiều người điều khiển để có thể


hoạt động được. Những cỗ máy này đắt đến mức chỉ có các chính phủ hay các viện nghiên cứu
lớn mới có đủ điều kiện để duy trì hoạt động của chúng. Ngược lại, các máy tính ngày nay có
nhiều sức mạnh hơn, rẻ tiền hơn, có kích thước nhỏ hơn, tiêu thụ ít điện năng hơn và phổ biến ở
mọi nơi.


<b>Phần 3 Phân loại máy tính</b>



Những phần dưới đây miêu tả các xu hướng khác nhau trong sự phân loại các máy tính.

<b>3.1 Theo mục đích sử dụng</b>



Siêu máy tính


Siêu máy tính cỡ nhỏ
Mainframe


Máy chủ doanh nghiệp
Máy tính mini


Máy trạm (<i>workstation</i>)
Máy tính cá nhân (PC)
Máy tính để bàn (<i>Desktop</i>)
Máy tính xách tay (<i>Laptop</i>)
Máy tính bảng con


Thiết bị hỗ trợ kỹ thuật số cá nhân (PDA)
Máy tính tháo lắp


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

ngành cơng nghiệp máy tính. Sự phát triển nhanh chóng của cơng nghiệp máy tính đã làm cho
định nghĩa trên nhanh chóng trở nên lạc hậu. Rất nhiều loại máy tính hiện nay khơng được cịn
sử dụng nữa, như máy phân tích vi phân (differential analyzer), không được đưa vào danh sách


này. Những sơ đồ phân loại khác cần được đề ra để định nghĩa thuật ngữ máy tính một cách ít
(hoặc khơng) mơ hồ hơn.


<b>3.2 Theo mức cải tiến công nghệ</b>



Một cách phân loại máy tính ít mơ hồ hơn là theo mức độ hồn thiện của cơng nghệ.
Những chiếc máy tính có mặt sớm nhất thuần túy là máy cơ khí. Trong thập niên 1930, các thành
phần relay cơ-điện đã được giới thiệu vào máy tính từ ngành cơng nghiệp liên lạc viễn thơng.
Trong thập niên 1940, những chiếc máy tính thuần túy điện tử đã được chế tạo từ những bóng
điện tử. Trong hai thập niên 1950 và thập niên 1960, bóng điện tử dần dà được thay thế bởi bóng
bán dẫn, và từ cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970 là bởi mạch tích hợp bán dẫn (chíp bán
dẫn, hay IC) cho đến hiện nay.


Một hướng nghiên cứu phát triển gần đây là máy tính quang (optical computer) trong đó
máy tính hoạt động theo nguyên lý của ánh sáng hơn là theo nguyên lý của các dòng điện; đồng
thời, khả năng sử dụng DNA trong cơng nghệ máy tính cũng đang được thử nghiệm. Một nhánh
khác của việc nghiên cứu có thể dẫn cơng nghiệp máy tính tới những khả năng mới như tính tốn
lượng tử, tuy rằng nó vẫn còn ở giai đoạn đầu của việc nghiên cứu.


<b>3.3 Theo đặc trưng thiết kế</b>



Các máy tính hiện đại đã liên kết các đặc trưng thiết kế chính được phát triển bởi nhiều
người đóng góp trong nhiều năm. Các đặc trưng này phần lớn khơng phụ thuộc vào mức độ hồn
thiện của cơng nghệ. Các máy tính hiện đại nhận được khả năng tổng thể của chúng theo cách mà
các đặc trưng này tác động qua lại với nhau. Một số đặc trưng quan trọng được liệt kê dưới đây:

<b>3.4 Kỹ thuật số và kỹ thuật tương tự</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>3.5 Nhị phân và Thập phân</b>



Một phát triển quan trọng trong thiết kế tính tốn kỹ thuật số là việc sử dụng hệ nhị phân


như là hệ thống số đếm nội tại. Điều này đã bãi bỏ những yêu cầu cần thiết trong các cơ cấu kỹ
thuật phức tạp của các máy tính sử dụng hệ số đếm khác, chẳng hạn như hệ thập phân. Việc áp
dụng hệ nhị phân đã làm cho việc thiết kế trở lên đơn giản hơn để thực hiện các phép tính số học
và các phép tính lơgic.


<b>3.6 Khả năng lập trình</b>



Khả năng lập trình của máy tính (<i>programmability</i>), nghĩa là cung cấp cho nó một tập
hợp các chỉ thị để thực hiện mà khơng có sự điều khiển vật lý đối với nó, là một đặc trưng thiết
kế nền tảng của phần lớn các máy tính. Đặc trưng này là một sự mở rộng đáng kể khi các máy
tính đã được phát triển đến mức nó có thể kiểm sốt động luồng thực hiện của chương trình.
Điều này cho phép máy tính kiểm sốt được thứ tự trong sự thực thi các chỉ lệnh trong chương
trình dựa trên các dữ liệu đã được tính ra.


Điểm nổi bật chính trong thiết kế này đó là nó đã được đơn giản hóa một cách đáng kể
với việc áp dụng các phép tính số học theo hệ đếm nhị phân để có thể mơ tả hàng loạt các phép
tính lơgic.


<b>3.7 Lưu trữ</b>



Trong q trình tính tốn, máy tính thông thường cần phải lưu trữ các giá trị trung gian
để có thể sử dụng trong các tính tốn sau đó. Khả năng thực hiện của máy tính phần lớn phụ
thuộc vào tốc độ đọc các giá trị từ bộ nhớ và tốc độ ghi vào bộ nhớ, cũng như dung lượng bộ
nhớ. Ban đầu bộ nhớ chỉ được sử dụng cho các giá trị trung gian, nhưng từ thập niên 1940 thì
chính bản thân chương trình cũng có thể được lưu trữ theo cách này. Điểm nổi trội này đã dẫn
đến việc ra đời của những chiếc máy tính có sẵn chương trình đầu tiên của thế hệ máy tính ngày
nay.


<b>3.8 Theo năng lực sử dụng</b>




Có lẽ cách tốt nhất để phân loại các thiết bị máy tính là theo năng lực nội tại của nó, hơn
là theo việc sử dụng, sự hồn thiện cơng nghệ hay các đặc trưng thiết kế. Máy tính có thể chia
làm ba dạng chính dựa theo năng lực sử dụng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>Các thiết bị có mục đích đặc biệt có thể thực hiện một số chức năng hữu hạn (ví dụ</b>
động cơ vi phân số 1. - Difference Engine No 1 - của Charles Babbage năm 1832 và máy phân
tích vi phân củaVannevar Bush năm 1932)


Các thiết bị có mục đích khơng nhất định là các dạng máy tính sử dụng ngày nay.

<b>3.9 Các máy tính có mục đích khơng nhất định</b>



Theo định nghĩa thì một máy tính có mục đích khơng nhất định (<i>general-purpose</i>
<i>computer</i>) có thể giải quyết bất kỳ vấn đề nào có thể biểu diễn bởi một chương trình và thực thi
trong các giới hạn tạo bởi: khả năng lưu trữ của máy, kích thước của chương trình, tốc độ thực
thi chương trình và độ tin cậy của máy tính. Năm 1934, Alan Turing đã chứng minh rằng, nếu
được cung cấp một chương trình đúng, bất kỳ máy tính có mục đích khơng nhất định nào cũng
có thể có hành vi như những máy tính khác. Chứng minh tốn học này là hồn tồn lý thuyết vì
khi đó chưa có máy tính có mục đích khơng nhất định nào cả. Hệ quả của chứng minh này thật
sâu sắc, ví dụ: bất kỳ một máy tính có mục đích khơng nhất định nào hiện nay đều có khả năng
như những máy tính có mục đích khơng nhất định trong tương lai, mặc dù chậm hơn.


Các máy tính có mục đích khơng nhất định cịn được gọi là các máy loại Turing hoàn tất
và điều này được sử dụng như khả năng ngưỡng để định nghĩa các máy tính hiện nay, tuy nhiên,
định nghĩa này có vài vấn đề. Một số thiết bị tính tốn với thiết kế đơn giản đã được chứng tỏ là
có tính Turing hồn tất. Cho đến nay, Z3, phát triển bởi Konrad Zuse năm 1941, là chiếc máy
tính hoạt động đầu tiên đã được chứng tỏ đạt được tính chất này, (chứng minh được hoàn thành
vào năm 1998). Trong khi Z3 và có thể một số thiết bị khác có tính Turing hồn tất trên lý
thuyết, trên thực tế chúng khơng phải là những máy tính có mục đích khơng nhất định. Chúng
thuộc về những cái được gọi một cách hài hước là Turing Tar-Pit - "chỗ ở đó mọi điều đều có thể
nhưng chẳng có gì là thực tế" (Xem Jargon File). Các máy tính hiện đại khơng những có mục


đích khơng nhất định trên lý thuyết mà cịn có mục đích khơng nhất định trên thực tế. Các máy
tính hiện đại như loại kỹ thuật số, loại điện tử hay loại có mục đích khơng nhất định được phát
triển bởi nhiều người đóng góp trong một khoảng thời gian dài từ giữa thập niên 1930 tới cuối
thập niên 1940. Trong giai đoạn này rất nhiều cỗ máy thử nghiệm đã được phát triển có thể coi là
có tính Turing hoàn tất (như ABC, ENIAC, Harvard Mk I, Colossus v.v.) (Xem thêm Lịch sử
phần cứng máy tính). Tất cả các cỗ máy này trong thời đại của chúng đều được cho là chiếc máy
tính đầu tiên, nhưng tất cả đều có những giới hạn nhất định trong mục đích sử dụng và thiết kế
của chúng đã sớm bị thải loại.


<b>3.10Các máy tính có sẵn chương trình</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

được biết đến như là kiến trúc Von Neumann, mang tên của nhà toán học Jon von Neumann mặc
dù các thành viên của trường công nghệ điện Moore mới thực sự sáng chế ra thiết kế này. Kiến
trúc Von Neumann đã giải quyết vấn đề thuộc về thiết kế của máy ENIAC và sửa đổi bằng cách
lưu trữ chương trình của máy trong bộ nhớ của nó. Von Neumann cung cấp thiết kế này cho các
nhà nghiên cứu khác ngay sau khi ENIAC được công bố vào năm 1946. Nhiều kế hoạch đã được
phát triển để hoàn thiện thiết kế này tại trường Moore trong chiếc máy có tên gọi là EDVAC.
EDVAC đã không hoạt động được cho đến tận năm 1953 vì những khó khăn kỹ thuật trong việc
hồn thiện độ tin cậy của bộ nhớ. Từ bản sao của thiết kế này, các viện nghiên cứu khác đã giải
quyết được vấn đề đó trước trường Moore và hồn thiện các máy tính có sẵn chương trình của
họ. Theo thứ tự của việc hoạt động thành cơng thì 5 chiếc máy tính có sẵn chương trình đầu tiên
dựa trên cơ sở của kiến trúc Von Neumann là:


Manchester Mk I nguyên mẫu (Baby) Đại học Manchester, Anh 21 tháng 6, 1948.


EDSAC Đại học Cambridge, Anh 6 tháng 5, 1949.


BINAC Mỹ, tháng 4 1949 hoặc tháng 8, 1949.
CSIR Mk 1 Úc tháng 11, 1949.



SEAC, Mỹ, 9 tháng 5, 1950.


Thiết kế "chương trình có sẵn", được định nghĩa bởi kiến trúc Von Neumann, cuối cùng
đã cho phép máy tính khai thác tiềm năng "mục đích khơng nhất định" của chúng. Bằng cách lưu
trữ chương trình trong bộ nhớ, chúng có thể nhanh chóng "nhảy" từ chỉ thị này tới chỉ thị khác
dựa trên kết quả của một điều kiện như đã được định nghĩa sẵn trong chương trình. Các điều kiện
này thơng thường lượng giá các dữ liệu đã được tính tốn bởi chương trình và cho phép chương
trình trở thành động hơn. Thiết kế này cũng hỗ trợ vào khả năng tự động viết lại chương trình
ngay trong khi nó đang thực thi - một đặc trưng rất mạnh nhưng cần sử dụng một cách cẩn thận.
Các đặc trưng này là nền tảng cho các máy tính hiện đại.


Nói một cách chính xác, phần lớn các máy tính hiện đại là thiết bị tính tốn theo phép nhị
phân, bằng điện tử, có sẵn chương trình và có mục đích khơng nhất định.


<b>3.11Các máy tính có mục đích đặc biệt</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

máy chơi trò chơi điện tử, PDA) nhưng rất nhiều trong số chúng được lập trình một lần tại nhà
máy sản xuất và rất ít khi phải lập trình lại. Chương trình mà các thiết bị này thực thi thơng
thường được lưu trữ trong bộ nhớ chỉ đọc (ROM) mà khi cần thiết có thể thay thế để thay đổi
hoạt động của máy. Các máy tính được nhúng bên trong các thiết bị khác thông thường được gọi
là bộ vi điều khiển (<i>microcontroller</i>) hay máy tính nhúng (<i>embedded computer</i>).


<b>3.12Các máy tính có một mục đích</b>



Các máy tính có một mục đích (<i>single-purpose computer</i>) là loại xuất hiện sớm nhất của
thiết bị máy tính. Khi được cung cấp dữ liệu, nó có thể tính kết quả của một hàm đơn giản đã
được thiết lập trong cơ chế của nó. Các máy tính có mục đích khơng nhất định gần như đã thay
thế hồn tồn các máy tính có một mục đích và, do đó, đã phát sinh một lĩnh vực hoạt động mới
của lồi người: phát triển phần mềm. Các máy tính có mục đích khơng nhất định cần phải được
lập trình với một bộ chỉ thị liên quan đến hành động mà chúng được yêu cầu thực hiện và các chỉ


thị này được biết đến một cách tổng quát như làphần mềm máy tính. Việc thiết kế các thiết bị
tính tốn có một mục đích hay có mục đích đặc biệt hiện nay là những bài tập khái niệm thuần
túy bao gồm các phần mềm thiết kế.


<b>3.13Theo hình thức hoạt động</b>



Máy tính có thể được phân loại tùy theo cách thức người dùng vận hành. Có hai loại
chính: kiểu xử lý tuần tự (<i>batch processing</i>) và kiểu xử lý tương tác (<i>interactive processing</i>).


<b>Phần 4 Các ứng dụng máy tính</b>



Các máy tính điện tử dùng kỹ thuật số (<i>digital computer</i>) đầu tiên, với kích thước lớn và
giá thành cao, phần lớn thực hiện các tính tốn khoa học, thơng thường để hỗ trợ các mục tiêu
quân sự. ENIAC đầu tiên được thiết kế để tính tốn các bảng đạn đạo cho pháo binh nhưng nó
cũng được sử dụng để tính tốn mật độ nơtron trên bình diện để hỗ trợ vào thiết kế bom khinh
khí. Cơng việc tính tốn này, xảy ra từ tháng 12, 1945 đến tháng 1, 1946 với hàng triệu thẻ đục
lỗ, vạch ra rằng một thiết kế cho bom kinh khí đang được xem xét lúc đó sẽ khơng thành cơng.
(Rất nhiều siêu máy tính hiện nay cũng được sử dụng để giả lập các vũ khí hạt nhân.) CSIR Mk
I, chiếc máy tính có sẵn chương trình (stored-program computer) đầu tiên của Úc được sử dụng
để lượng giá các mơ hình mưa cho lưu vực các sơng thuộc sơ đồ dãy núi Snowy, một dự án thủy
điện lớn. Các máy khác được sử dụng trong việc phân tích mã hóa, ví dụ như chiếc máy tính với
kỹ thuật số được lập trình đầu tiên trên thế giới (tuy khơng phải là máy tính có mục đích khơng
nhất định) là Colossus, được lắp ráp trong Đệ nhị thế chiến. Bất chấp sự định hướng ban đầu cho
các ứng dụng khoa học, máy tính đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

động và được sử dụng để quản lý hàng tồn kho, cũng như các mục đích khác, cho 3 năm trước
khi IBM lắp ráp chiếc máy tính có sẵn chương trình đầu tiên của họ. Việc giảm giá thành và kích
thước của máy đã liên tục làm nó phù hợp cho những tổ chức nhỏ hơn. Với sự phát minh ra bộ vi
xử lý trong thập niên 1970 thì việc lắp ráp máy tính rẻ tiền đã trở thành khả thi. Trong thập niên
1980 máy tính cá nhân trở lên phổ biến cho nhiều cơng việc từ kế tốn, soạn thảo, in ấn tài liệu


tới tính tốn các dự báo và các cơng việc tốn học lặp lại qua các bảng tính.


<b>4.1 Internet</b>



Trong thập niên 1970, các kỹ sư điện toán của các viện nghiên cứu trên khắp nước Mỹ
bắt đầu liên kết máy tính của họ với nhau thơng qua cơng nghệ của ngành liên lạc viễn thông.
Những cố gắng này được ARPA hỗ trợ, và mạng máy tính mà nó cung cấp được gọi là
ARPANET. Các công nghệ tạo ra Arpanet đã mở rộng và phát triển sau đó. Chẳng bao lâu, mạng
máy tính mở rộng ra ngoài các viện khoa học và được biết đến như là Internet.


Trong thập niên 1990, việc phát triển của công nghệ World Wide Web đã làm cho ngay
cả những người khơng chun nghiệp cũng có thể sử dụng internet. Nó phát triển nhanh đến mức
đã trở thành phương tiện liên lạc toàn cầu như ngày nay.


<b>Phần 5 Phương thức hoạt động</b>



Trong khi các công nghệ sử dụng trong máy tính khơng ngừng thay đổi kể từ những chiếc
máy tính có mục đích khơng nhất định đầu tiên của thập niên 1940 (Xem Lịch sử phần cứng máy
tính) thì phần lớn các máy tính vẫn cịn sử dụng kiến trúc Von Neumann.


Kiến trúc Von Neumann chia máy tính ra làm bốn bộ phận chính:
Đơn vị số học và lơgic (ALU),


Mạch điều khiển (<i>control circuitry</i>),
Bộ Nhớ


Các thiết bị Xuất/Nhập (I/O).


Các bộ phận này được kết nối với nhau bằng các bó dây điên (được gọi là các bus khi
mỗi bó hỗ trợ nhiều hơn một đường dữ liệu) và thường được điều khiển bởi bộ đếm thời gian hay


đồng hồ (mặc dù các sự kiện khác cũng có thể điều vận mạch điều khiển).


<b>5.1 Bộ nhớ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

thể là chỉ thị cho máy tính. Mỗi ơ cũng có thể chứa dữ liệu mà máy tính cần để thi hành chỉ thị.
Nội dung của một ơ nhớ có thể thay đổi ở bất kỳ thời điểm nào.


Kích thước một ơ nhớ cũng như số lượng ô nhớ thay đổi theo từng máy tính giống như
cơng nghệ sử dụng trong việc chế tạo bộ nhớ, từ relay cơ-điện tới ống chứa thủy ngân, từ băng từ
tới transistor hayIC.


<b>5.2 Bộ xử lý (CPU)</b>



<i>Hình 2:Hình con chíp Intel Pentimum II 300 MHz</i>


<b>Đơn vị lôgic và số học, (Arithmetic and Logic Unit, viết tắt ALU), là thiết bị thực hiện</b>
các phép tính cơ bản như các phép tính số học (cộng, trừ, nhân, chia, v.v), các phép tính lơgic
(AND, OR,NOT, v.v) cũng như các phép so sánh (ví dụ: so sánh nội dung của hai byte xem có
bằng nhau). Đơn vị này là nơi mà các "công việc thực sự" được thực thi.


Đơn vị kiểm sốt theo dõi các byte trong bộ nhớ có chứa chỉ thị để máy tính thực thi,
cung cấp cho ALU một chỉ thị cần phải thực thi cũng như chuyển kết quả thu được tới các vị trí
thích hợp trong bộ nhớ. Sau khi điều đó diễn ra, đơn vị kiểm sốt chuyển tới chỉ thị kế tiếp
(thơng thường nằm tại địa chỉ ngay sau), nếu khơng thì chỉ thị sẽ là chỉ thị nhảy thơng báo cho
máy tính là chỉ thị tiếp theo nằm tại một địa chỉ khác. Khi tham chiếu tới bộ nhớ, chỉ thị hiện thời
có thể sử dụng một số phương thức đánh địa chỉ (addressing mode) để xác định địa chỉ liên quan
trong bộ nhớ. Một số bo mạch chủ trong máy tính có thể gắn được hai hay nhiều bộ xử lý. Các
loại máy tính phục vụ thường có hai hay nhiều bộ xử lý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Thiết Bị Xuất/Nhập cho phép máy tính thu nhận thơng tin từ bên ngồi qua thiết bị Nhập.


Sau khi được xử lý bởi Hệ Điều Hành Trung Ương sẻ được gửi kết quả công việc của nó đến
Thiết Bị Xuất.


Các Thiết Bị Nhập bao gồm: Con Trỏ (Con Chuột), Bàn Phím, Ổ Đĩa Mềm, Ổ Đĩa CD,
Webcam, Touchpad


Các Thiết Bị Xuất bao gồm : Màn Hình, Máy In, Ổ Đĩa Flash (USB), Ổ Cứng Di Động
tới những thiết bị không thông dụng như Ổ ZIP.


Cơng việc của thiết bị nhập (<i>input</i>) là mã hóa (chuyển đổi) thông tin từ nhiều định dạng
sang dạng dữ liệu mà máy tính có thể xử lý.


Các thiết bị xuất (<i>output</i>) thì ngược lại, thực hiện cơng việc giải mã dữ liệu thành thơng
tin mà người sử dụng có thể hiểu được.


Với ý nghĩa này thì hệ thống máy tính có thể coi như một hệ thống xử lý dữ liệu.

<b>5.4 Các chỉ thị</b>



Tập hợp các ngôn ngữ dùng cho chỉ thị của máy tính thì khơng nhiều như ngơn ngữ của
con người. Máy tính có một tập hợp hữu hạn gồm các chỉ thị đơn giản đã được định nghĩa trước.


Nó chỉ có thể thực thi hai nhiệm vụ là đếm và so sánh. Các loại chỉ thị điển hình mà phần
lớn máy tính có thể hỗ trợ, chuyển sang ngôn ngữ con người, là "sao chép nội dung ơ 123, đặt
bản sao đó vào ơ 456", "thêm nội dung của ô 666 vào nội dung ô 042, đưa kết quả vào ô 013",
"nếu kết quả của ô 999 là 0, chỉ thị tiếp theo nằm tại ô 345"...


Các chỉ thị trong máy tính tương ứng với mã trong hệ nhị phân - hệ đếm cơ số 2. Ví dụ
mã của chỉ thị sao chép ("copy") có thể là 001.


Tập hợp các chỉ thị mà một máy tính hỗ trợ được gọi là ngôn ngữ máy của máy tính.


Trong thực tế, người ta thơng thường khơng viết các chỉ thị cho máy tính bằng ngơn ngữ
máy mà sử dụng các ngơn ngữ lập trình "bậc cao" để sau đó chúng được dịch sang ngơn ngữ máy
một cách tự động bởi các chương trình máy tính đặc biệt (trình thơng dịch (<i>interpreter</i>) và trình
biên dịch (<i>compiler</i>)).


Một số ngơn ngữ lập trình rất gần với ngơn ngữ máy như assembler gọi là <i>ngơn ngữ bậc</i>
<i>thấp</i>;


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>5.5 Kiến trúc</b>



<i>Hình 3: Số chân của con chíp Pentinum II này đã trở nên quá nhiều và do đó hãng Intel phải có một cơng nghệ đặc</i>
<i>biệt để nối nó ra một bo cắm (hãy chú ý các các răng vàng (golden teeth) mỗi răng là một chỗ tiếp xúc với hệ thống BUS được</i>


<i>dát bằng vàng thay cho ch</i>


Các máy tính hiện đại ghép chung ALU và đơn vị kiểm soát vào trong một IC gọi là đơn
vị xử lý trung tâm hay CPU. Thơng thường, bộ nhớ máy tính nằm trong một số IC nhỏ gần CPU.
Phần lớn trọng lượng máy tính là các bộ phận phụ thuộc như hệ thống cung cấp điện hay các
thiết bị đầu/cuối (I/O).


Một số máy tính lớn khác biệt với mơ hình trên ở điểm chính sau - chúng có nhiều CPU
và đơn vị kiểm sốt hoạt động đồng bộ. Ngồi ra, một số máy tính, sử dụng chủ yếu trong nghiên
cứu và tính tốn khoa học, khác biệt rất đáng kể với mơ hình trên, nhưng chúng ít có ứng dụng
thương mại vì mơ hình lập trình chúng vẫn chưa được chuẩn hóa.


Vì vậy, hoạt động của máy tính thì khơng phức tạp trên nguyên lý. Thông thường, trong
mỗi nhịp đồng hồ, máy tính sẽ nhận được các chỉ thị và dữ liệu từ bộ nhớ của nó. Các chỉ thị
được thực thi, kết quả được lưu lại và chỉ thị tiếp theo được nhận về. Quá trình này tiếp diễn cho
đến khi gặp chỉ thị <i>dừng</i>.



<b>5.6 Chương trình</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Hiện nay, phần lớn máy tính có thể thực hiện <i>cùng một lúc</i> vài chương trình. Điều này
được gọi là đa nhiệm (multitasking). Trên thực tế, CPU thực thi các chỉ thị của một chương trình,
sau một khoảng thời gian ngắn, nó chuyển sang thực thi các chỉ thị của chương trình thứ hai v.v.
Khoảng thời gian ngắn đó được xem như là sự phân chia thời gian của CPU và nó tạo ảo giác
như là các chương trình được thực thi đồng thời. Điều này cũng tương tự như phim là sự chuyển
động đơn giản của các ảnh kế tiếp nhau. Hệ điều hành là chương trình thơng thường kiểm sốt sự
phân chia thời gian đó.


<b>5.7 Hệ điều hành</b>



Máy tính cần ít nhất một chương trình ln ln chạy để đảm bảo sự hoạt động của nó.
Trong điều kiện hoạt động bình thường (đối với các máy tính tiêu chuẩn) chương trình
này được gọi là hệ điều hành (<i>operating system</i>).


Hệ điều hành sẽ quyết định chương trình nào được thi hành, khi nào và bao nhiêu tài
nguyên (như bộ nhớ hay đầu vào/đầu ra) chúng được cấp.


Hệ điều hành cũng cung cấp một lớp trừu tượng trên phần cứng và cho phép truy nhập
bằng các dịch vụ cung cấp cho các chương trình khác, như mã ("driver") cho phép lập trình viên
viết chương trình cho máy tính mà khơng cần thiết phải biết các chi tiết thuộc bản chất của các
thiết bị điện tử đính kèm.


Phần lớn các hệ điều hành có các lớp trừu tượng phần cứng đều có một giao diện người
dùng (<i>user interface</i>) chuẩn hóa. Hệ điều hành phổ biến nhất hiện nay là Windows của
Microsoft.


</div>

<!--links-->

Đồ họa máy tính với kỹ thuật biến đổi 2d
  • 38
  • 1
  • 12
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×