Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Nguyen Cong Tru

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.1 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nguyễn Công Trứ: Sự lên ngôi của cái Tôi - Cá thê</b>


<b>GS. Nguyễn Đình Chu</b>


<i>Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội</i>




<b>LTS: Nhân kỷ niệm 220 năm sinh </b>


(1788-2008) và 150 năm mất danh nhân - thi nhân Nguyễn


Công Trứ, vào ngày 17-18/11/2008, Sở Văn hóa - Thơng tin và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh phối hợp
với Trường Đại học KHXH & NV Hà Nội đã tổ chức trọng thể Lễ tưởng niệm và Hội thảo
khoa học tại quê hương nhà thơ. Sau quá trình tuyển chọn, biên tập, trong số này Tạp chí tập
trung giới thiệu 4 tham luận từ Hội thảo trên và đã được các tác giả chỉnh lý, hoàn thiện bản
thảo.


<i><b>NCVH</b></i>


C

ái Tôi - cá thể, hay là con người - cá nhân, hay con người - cá thể, hay cái
Thằng Tôi tương ứng trong tiếng Pháp I'individu, Le Moi, là vấn đề, là đối tượng nhận
thức của triết học và đối tượng khám phá của văn học vốn đã diễn ra không đơn giản,
không đồng đều giữa các quốc gia, các khu vực, giữa phương Tây và phương Đông
trong lịch sử nhân loại. Có thể nói, ở nước ta, cho đến hơm nay, vấn đề rất có ý nghĩa
này trong sự sống, về cơ bản, chưa được nhận thức ở độ tường minh cần thiết, không
chỉ với số đông, mà ngay ở nhiều bậc thức giả. Mặc dù, trong một số văn kiện gần đây
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có được quan niệm "Con người vừa là mục tiêu vừa
là động lực phát triển của xã hội"(1)<sub>...</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

vựng của mọi ngôn ngữ trên thế giới, bằng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất. Trong
tiếng Việt của ta các từ: tơi, ta, tớ, tao, mình và các từ Hán Việt: "ngô", "ngã", đều


thuộc cái Tôi tự phát này. Chúng chưa thuộc vấn đề cái Tôi cá thể của triết học và văn
học đang được nói đến. Chỉ với cái Tôi được nhận thức tự giác, hữu thức mới là vấn
đề của triết học và văn học. Ở đây, cái Tôi vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong nhận
thức. Cái Tôi không chỉ thuộc cá thể mình mà cịn là cá thể người khác. Nó là một
khách thể cần được nhận thức, khám phá. Quan trọng nữa là cần được tôn trọng, tạo
mọi điều kiện cho nó phát triển để trở thành tế bào khoẻ cho mọi cơ thể khoẻ. Tình
trạng nhận thức, phát hiện về cái Tơi mang tính khách thể này trong lịch sử thế giới đã
diễn ra khơng đồng bộ. Có thể nói phương Tây đã đi trước phương Đông ở sự nhận
diện cái Tôi - cá thể. Trong văn học La Mã cổ đại, thấp thống đã thấy bóng dáng cái
Tơi - cá thể. Đặc biệt, đến thời đại Phục hưng của phương Tây, cái Tôi - cá thể, con
người - cá thể đã trỗi dậy một cách bề thế, trong đó cái Tơi - trí tuệ, lý trí, sáng tạo trở
thành điểm nhấn, từ đó đã tạo nên một nền văn hố Phục hưng vĩ đại được nhân loại
mn đời bái phục. Mệnh đề "Tồn tại hay không tồn tại" (To be or not to be) mà nhân
vật Hamlet của Shakespeare phát ngơn từng được coi là lời tun ngơn có ý nghĩa triết
học về cái Tôi - cá thể, về con người - cá thể, của thời đại Phục hưng. Sau thời Phục
hưng, với các nhà tư tưởng của công cuộc cách mạng tư sản phương Tây. cái Tôi - cá
thể lại thêm một lần được khẳng định. Mệnh đề "Tôi tư duy ấy là tôi tồn tại" (Je pense
donc je suis) của Descartes cũng được coi là lời tuyên ngơn triết học thứ hai về sự có
mặt của cái Tôi - cá thể, với ý nghĩa nhân văn cao cả, vĩnh hằng. Sự xuất hiện của cái
Tôi - cá thể ở phương Tây, từng được cắt nghĩa từ nguồn gốc là vai trị của tầng lớp
chủ nơ cơng thương ở thời cổ đại và vai trò của tầng lớp thị dân tiền tư bản chủ nghĩa
và tiếp đó là vai trò của giai cấp tư sản đang ở giai đoạn cách mạng. Vận mệnh của cái
Tôi - cá thể đúng là gắn liền với nền sản xuất kinh tế hàng hố, cơng thương, với giai
cấp tư sản thế giới ở cả hai chiều: tích cực và tiêu cực. Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, ngoài
ý nghĩa phần nào là sản phẩm của nhân tính, cịn là đặc sản của chủ nghĩa tư bản sau
thời kỳ cách mạng. Tất nhiên, tại các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa hiện tại cái
Tôi - cá thể mang giá trị nhân văn cao cả vẫn tồn tại, bởi đó là sản phẩm tinh thần đã
trở thành truyền thống, có độ bền của nhân dân, của các dân tộc đó, nhất là ở những
nước đang đi theo chủ nghĩa xã hội dân chủ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

đợi đến thời đại Minh Thanh, một khi nền kinh tế công thương phát triển, các đô thị phát
triển, tầng lớp thị dân đông đảo hẳn lên, thì mới thấy cái Tơi - cá thể xuất hiện. Đặc biệt
là trong một số tiểu thuyết cổ điển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

từ sau 1975, chiến tranh đi qua, đặc biệt từ khi có khơng khí đổi mới tồn diện của đất
nước, trong văn học, cái Tôi - cá thể lại tái xuất. Trong đó, phần thuộc về giá trị nhân
văn chân chính khơng phải khơng có, nhưng phần phi nhân bản cũng không phải
không rõ. Bởi lẽ, ở đây, với những người cầm bút, sự hạn chế trong nhận thức về vấn
đề cái Tôi - cá thể trong sự sống loài người theo yêu cầu triết học đã là một sự thật
đáng suy nghĩ.


*


Những gì trình bày trên đây về cái Tôi - cá thể, con người - cá thể có thể nói là
vừa thừa vừa thiếu. Thừa là với ai khơng muốn, khơng quen nghĩ đến vấn đề. Cịn
thiếu là với ai đã thấy vấn đề là phức tạp. Dầu vậy, đây vẫn là điều cần thiết cho việc
nhận diện Nguyễn Công Trứ: sự lên ngôi của cái Tôi - cá thể, một hiện tượng nổi trội,
hiếm lạ so với lịch sử đương thời, kể cả với hôm nay, vẫn còn nhiều điều làm chúng ta
phải suy nghĩ trước vấn đề: CON NGƯỜI LÀ GÌ vốn là vấn đề lớn nhất của triết học,
dù đã có bao nhiêu sự khám phá, nhưng vẫn mãi mãi khơng bao giờ có sự chấm dứt
khám phá.


Nguyễn Công Trứ quả không phải là một anh hùng cứu quốc lớn như Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...; một nhà tư tưởng lớn như Trần Nhân Tông, Nguyễn
Trãi, Lê Thánh Tông...; một học giả lớn như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú...; một nhà
văn thiên tài cỡ Nguyễn Du... nhưng Nguyễn Công Trứ là sự lên ngôi của cái Tôi - cá
thể hiếm và trội mà khoa học nhân văn, khoa học về con người cần khám phá. Và
muốn khám phá, trước hết phải có triết học, phải vượt qua những giới hạn ít nhiều đã
định hình từng cản trở cách nghĩ về thế giới con người, về bảng giá nhân cách.



Ở Nguyễn Công Trứ, người với văn là một - Trông văn càng thấy người. Hiểu
người càng hiểu văn. Với Nguyễn Công Trứ, vấn đề “Tồn tại hay khơng tồn tại” đã có
đáp án dõng dạc: "Ông Hy văn tài bộ đã vào lồng", có nghĩa đã tun bố: tơi tồn tại.
<i>Tơi có kiếp đời của tơi, cũng như người khác có kiếp đời của người khác bởi "Kết cục</i>


<i>lại một người riêng một kiếp" (Nghĩa người đời) và "Người có biết ta hay thì chớ/</i>
<i>Chẳng biết ta, ta vẫn là ta" (Thích chí ngao du) và "Thiên phú ngơ, địa tái ngô/ Thiên</i>
<i>địa sinh ngộ nguyên hữu ý" (Trời che ta, đất chở ta/ Trời đất sinh ta là có ý - (Nợ công</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>giai phận sự"(Giữa vũ trụ này đều có phận sự - Luận kẻ sĩ), "Vũ trụ chức phận nội,</i>
<i>"Đấng trượng phu một túi kinh luân" (Việc trong vũ trụ đều là chức phận của ta - Gánh</i>
<i>trung hiếu), "Vũ trụ nội mạc phi phận sự" (Trong vũ trụ khơng có chuyện gì là không</i>


<i>phải phận sự - Bài ca ngất ngưởng). Phận sự trên cương vị một kẻ sĩ: "Tước hữu ngũ sĩ</i>


<i>cư kỳ liệt/ Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên/ Có giang san thì sĩ đã có tên/ Từ Chu, Hán vốn sĩ</i>
<i>này là quý!" (Luận kẻ sĩ). Là kẻ sĩ lại muốn thành trượng phu thì với Nguyễn Cơng</i>


Trứ trước hết vẫn phải học hành để thi cử. Thi thì phải đậu. Dù đã 36 tuổi mới đậu tú
tài. Nhưng tú tài rồi còn phải cử nhân dù tuổi đã 42. Mà cử nhân lại phải giải nguyên.
Đâu chịu thua ai. Nguyễn Công Trứ làm quan, thăng chức cũng nhanh và làm đủ loại
quan. Nhưng thăng trầm thì chẳng có ai như Nguyễn Cơng Trứ. Những 5, 6 lần bị tố
cáo, bị giáng chức. Thảm nhất là đã leo đến Tham tri bộ Hình, Tổng đốc Hải An,
Thượng thư bộ Hình mà bị án "trảm giam hậu", mà bị cách tuột làm lính thú. Với
người khác, gặp cảnh ngộ đó sẽ thế nào. Với Nguyễn Cơng Trứ, vẫn khơng nản, vẫn
khơng chịu nằm bẹp xuống giữa cuộc đời. Đó là gì? Nếu khơng nhờ có cái Tơi tự tin,
cái Tôi đã sống quyết ra sống, đã "vào lồng" quyết vào đến nơi đến chốn. Cái Tôi
Nguyễn Công Trứ là cái Tơi hành động. Trong hành động, có sai, có đúng. Nhưng
động cơ chỉ một: cống hiến cho đất nước, cho đời. Trong cuộc đời Nguyễn Cơng Trứ,
có hai hành động nổi trội, đầu bảng. Một là khẩn hoang trong vai trị một ơng quan


doanh điền sứ, dựng lên hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải và mấy xã thuộc Nam Định.
Xong chuyện, phủi tay ra đi, không mảy may tơ vương. Nhưng được nhân dân ở đây
muôn đời thờ cúng. Không chỉ với người bên lương, mà cả người bên giáo vốn khơng
có việc thờ cúng này. Cịn sau này thì cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng suy tơn là một
nhà "khẩn hoang lỗi lạc". Hai là làm ông tổ và cũng là ơng vua của thể loại hát nói
trong lịch sử văn học dân tộc, một khi nó đã có mầm mống từ trước nhưng phải đến
cái tài, cái tình, cái triết lý nhân sinh của Nguyễn Cơng Trứ, nó mới định hình, mới có
giấy chứng sinh. Trong hành động của Nguyễn Cơng Trứ có chuyện đàn áp các cuộc
nông dân khởi nghĩa của Lê Duy Lương, của Phan Bá Vành, của Nùng Văn Vân, mà
đến thời đại Mác Xít, đã coi đó là sai lầm, tội lỗi. Nhưng sự lên án này đã là tiếng nói
cuối cùng chưa một khi có thể nghĩ khác, nghĩ đến yêu cầu ổn định của đất nước, của
cuộc sống xã hội, tựa như những chuyện đã xảy ra và cách giải quyết của Chính phủ ta
từng xảy ra trên đất nước hơm nay, trong đó có chuyện ở Thái Bình, cách đây chưa
lâu.


Rõ ràng là con người - cá thể Nguyễn Công Trứ đã tự ý thức về mình rằng: đã
sống là phải ra sống. Không làng nhàng, không nhợt nhạt, không nửa vời, không uể
oải, không chán chường, không cầm chừng... Kể cả không "độc thiện kỳ thân", không
là "xuất xử, hành tàng" mà Nho giáo đã dạy. Nguyễn Công Trứ là một nho sĩ nên vẫn
<i>phải "Thượng vi đức hạ vi dân/ Sắp hai chữ quân thân mà gánh vác/ Có trung hiếu nên</i>


<i>đứng trong trời đất..." (Gánh trung hiếu) nhưng là có triết lý. Trong triết lý, có lý</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>"Thông minh nhất nam tử/ Yếu vi thiên hạ kỳ/ Trót sinh ra thời phải có chi chi/ Chẳng</i>
<i>lẽ tiêu lưng ba vạn sáu/ Đố kỵ sá chi con tạo/ Nợ tang bồng quyết trả cho xong/ Đã</i>
<i>xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung/ Làm cho rõ tu mi nam tử...". (Nam nhi). Chí</i>


nam nhi, hay nợ tang bồng vốn là sản phẩm của học thuyết Nho giáo. Ở Việt Nam, từ
<i>thời nhà Trần, Phạm Ngũ Lão đã thẹn về nợ làm trai của mình: "Nam nhi vĩ liễu công</i>



<i>danh trái/ Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu" (Cơng danh nam tử cịn vương nợ/ Luống</i>


thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu). Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu trong buổi lưu biệt xuất
<i>dương Đông du cứu nước cũng nói đến chí nam nhi, nam tử: "Sinh vi nam tử yếu hi kỳ/</i>


<i>Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di" (Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khơn tự</i>


chuyển dời). Đều là chí nam nhi cả, nhưng điều kiện đất nước và cá nhân đã hướng
mỗi cá nhân tới một nội dung khác nhau. Với Nguyễn Cơng Trứ từ chí nam nhi đó mà
có cuộc đời với những hành động như mọi người đã thấy. Trong đó có chuyện khẩn
hoang để được tơn vinh là "lỗi lạc", có chuyện sáng tác thể thơ hát nói để được mệnh
danh là ông tổ, ông vua.


Ở Nguyễn Cơng Trứ, chí nam nhi cịn được đẩy lên cao thành "chí anh hùng"!


<i>"Vịng trời đất dọc ngang ngang dọc/ Nợ tang bồng vay trả trả vay/ Chí làm trai nam</i>
<i>bắc đơng tây/ Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể/ Nhân sinh thế thượng thùy vô tử/</i>
<i>Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh/ Đã chắc rằng ai dại, ai khơn/ Mấy kẻ biết anh</i>
<i>hùng thời vĩ ngộ/ Cũng có lúc mây tn sóng vỗ/ Quyết ra tay buồm lái với cuồng</i>
<i>phong/ Chí những toan xé núi lấp sơng/ Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ" (Chí khí</i>


anh hùng).


<i>Ở Nguyễn Cơng Trứ chí nam nhi, chí anh hùng gắn với chữ danh: "Đã mang tiếng</i>


<i>ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sơng" (Đi thi tự vịnh), "Không công danh thời</i>
<i>nát với cỏ cây". Điều cần nói là ở đây, chữ "danh" gắn liền với chữ "thân", với chữ</i>


<i>"công", "Nhập thế cục bất khả vô cơng nghiệp/ Xuất mẫu hồi tiện thi hữu qn thân/</i>



<i>Mà chữ danh liền với chữ thân/ Thân đã có ắt danh âu phải có" (Nghĩa người đời). Với</i>


<i>ơng, "danh" khơng đi liền với "lợi". Bởi "Ra trường danh lợi vinh liền nhục" (Tình cảnh</i>
<i>làm quan), "Lợi danh đường nhục cũng nên kinh" (Vui cảnh nghèo). Tốt nhất là phải xa</i>
<i>lợi danh, danh lợi: "Chẳng lợi danh chi lại hoá hay" (Tự thuật), mặc cho người đời vẫn</i>
<i>bám lấy lợi danh: "Thuỳ năng thế thượng vong danh lợi/ Tiên thị nhân gian nhất hố</i>


<i>cơng" (Ở đời ai mà qn được danh lợi. Ấy bởi ơng trời sinh ra lồi người là thế </i>
<i>-Quân tử cố cùng). Quả là ở Nguyễn Công Trứ, chữ "danh" có nội hàm riêng và tầm</i>


vóc riêng gắn với núi sông, với đất trời, với "công nghiệp" - với sự cống hiến, với sự
lên ngôi của cái Tôi - cá thể Nguyễn Công Trứ.


Ở Nguyễn Công Trứ, cịn một điều đáng nói lại bởi nó cũng là điều hiếm. Đó
<i>là ý thức "cậy tài", "khoe tài", "Trời đất cho ta một cái tài/ Giắt lưng dành để tháng</i>


<i>ngày chơi" (Cầm kỳ thi tửu), "Lúc tuổi xanh chi khỏi cậy tài" (Con tạo ghét ghen). Tài</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

"tài"cũng thành vấn đề. Thường là có hiện tượng dấu tài vì sợ nói ra bị cho là kiêu
ngạo, tự cao, tự đại. Ngay với Nguyễn Du thì chữ "tài" vẫn đặt thấp dưới chữ
<i>"tâm": "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" và sợ cho chuyện tài mệnh tương đố:</i>


<i>"Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "Có tài mà</i>
<i>cộng chi tài/ Tài tình chi lắm cho trời đất ghen". Với Nguyễn Cơng Trứ thì khác.</i>


Có tài cứ "khoe tài", "cậy tài" để thêm tự tin, thêm quyết tâm vươn tới trong hành
động vì mình và cũng vì cuộc đời. Cho nên Nguyễn Công Trứ đã không dấu tài, đã
<i>không sợ trời đất ghen tài mà cịn gắn tài với tình và dõng dạc tun bố: "Thế nhân</i>


<i>mạc ốn tài tình luỵ/ Khơng tài tình quang cảnh có ra chi" (Tài tình), "Càng tài tử</i>


<i>càng nhiều tình ái" (Vịnh sầu tình). Đúng là dưới chế độ phong kiến Việt Nam xưa,</i>


và không khéo cả với thời nay, không ai cậy tài, khoe tay và ngây ngất với tài tình
như Nguyễn Cơng Trứ.


Với Nguyễn Cơng Trứ, riêng chữ "tình" cũng thành một khoản phong phú, phì
nhiêu hiếm có mà bản chất chính là sống theo quy luật tự nhiên mà tạo hố đã ban cho
<i>lồi người. Ơng định nghĩa, giới thuyết chữ tình: "Cái tình là cái chi chi/ Dẫu chi chi</i>


<i>cũng chi chi với tình/ Đa tình là dở/ Đã mắc vào đố gỡ cho ra... Càng tài tình càng</i>
<i>ngốc càng si/ Cái tình là cái chi chi" (Vịnh chữ tình). Ơng đùa với tình: "Tao ở nhà tao</i>
<i>tao nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói răng khơng đến/ Đến thì</i>
<i>mi nói đến làm chi/ Làm chi tao đã làm chi được/ Làm được thì tao đã làm đi..." (Bỡn</i>


<i>tình nhân). Ơng cũng có phen phải sầu tình "Sầu ai lấp cả vịng trời/ Biết chăng chẳng</i>


<i>biết hỡi người tình chung/ Xuân sầu mang mang tắc thiên địa/ Giống ở đâu vơ ảnh vơ</i>
<i>hình/ Cứ tị mị quanh quẩn bên mình/ Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng" (Vịnh sầu</i>


tình). Nguyễn Cơng Trứ là con người hành động, chăm lo phận sự, nhưng đồng thời
không quên chữ nhàn mà gần ba thế kỷ trước Nguyễn Bình Khiêm đã hăng hái đề
<i>xướng. Nay đến ơng lại muốn nâng cấp lên tầm triết lý: "Thị tại môn tiền náo/ Nguyệt</i>


<i>tại môn hạ nhàn/ So lao tâm lao lực một đàn/ Người nhân thế muốn nhàn sao được/</i>
<i>Nên phải giữ lấy nhàn làm chước/ Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài tri nhàn tiện</i>
<i>nhàn, đãi nhàn hà thị nhàn chữ nhàn là chữ làm sao" (Chữ nhàn), "Đoạn tống nhất sinh</i>
<i>duy hữu tửu/ Trầm tư bách kế bất như nhàn" (Muốn quên sự đời chỉ có rượu/ Suy nghĩ</i>


<i>trăm kế không bằng nhàn - Vịnh Nhàn), "Cơn chếnh choáng vần trời đất lại/ Chốc</i>



<i>ngâm nga xáo lộn cổ kim đi/ Cái công danh là cái chi chi/ Quý nhân tướng bất như</i>
<i>nhàn nhân quý" (Nhàn nhân với quý nhân). Với Nguyễn Công Trứ, hành lạc cũng đã</i>


trở thành triết lý cuồng nhiệt. Ơng có một bài thơ không biết nhan đề do ông tự đặt
hay do đời sau làm sách đặt là "Đánh thức người đời" trong đó có hai câu mà có lẽ đến
<i>hơm nay, khơng ít thuộc lớp người có tuổi hẳn là phải kinh ngạc. Đó là: "Nhân sinh bất</i>


<i>hành lạc/ Thiên tuế diệc vi thương" (Người sống ở đời mà khơng hưởng lạc - Thì có thọ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nguyễn Cơng Trứ hồi làm doanh điền sứ, ngày thì xơng pha, năng nổ với cơng việc
khẩn hoang, đêm thì chìm đắm trong điệu phách câu ca với các ả đào non xinh đẹp.
Rồi chuyện Nguyễn Công Trứ, lúc tuổi đã ngồi bảy mươi, lên chơi chùa Hương Tích
trên núi Ngàn Hống gần nhà, vẫn đem theo "một đơi dì", mà chính ơng đã ngang nhiên
<i>kể lại trong Bài ca ngất ngưởng: "Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì/ Bụt cũng nực</i>


<i>cười ông ngất ngưởng"...</i>


Riêng trong văn chương, trước Nguyễn Cơng Trứ, có lẽ khơng ai, kể cả Tản Đà
<i>về sau, có độ cuồng nhiệt với triết lý hành lạc như ơng: "Sách có chữ nhân sinh thích</i>


<i>chí/ Đem ngàn vàng chác lấy cuộc cười/ Chơi cho lệch mới là chơi/ Chơi cho đài các</i>
<i>cho người biết tay" (Cầm kỳ thi tửu, II), "Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên/ Cuộc</i>
<i>hành lạc vẫy vùng cho phí chí" (Cầm kỳ thi tửu, III), "Lần lựa tiết xuân dương có mấy/</i>
<i>Bóng quang âm chơi lấy kẻo già/ Trăm năm trong cõi người ta/ Xóc sổ tính ngày chơi</i>
<i>đã được mấy" (Trong trần mấy mặt làng chơi), "Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy/ Cuộc hành</i>
<i>lạc bao nhiêu là lãi bấy/ Nếu không chơi thiệt lấy ai bù/ Nghề chơi cũng lắm công phu"</i>


(Chơi xuân kẻo hết xuân đi)...


Với Nguyễn Công Trứ, chơi, hành lạc là đủ thứ: có tình, có cầm, kỳ, thi, tửu đã


<i>đành. Cịn có thú thiên nhiên với trăng gió, cỏ hoa, với "Liễu tía đào hường mai trắng</i>


<i>trắng/ Lan tươi huệ tốt lý xanh xanh/ Thêm hương khi gió lá mưa cành/ Mở mặt thấy</i>
<i>giang sơn cười chúm chím... Trân trọng lấy hương trời cho trọn vẹn/ Hoa với khách</i>
<i>như đà có hẹn/ Ưa màu nào màu ấy là xinh/ Trăm hoa cùng bẻ một cành" (Yêu hoa). </i>


Nguyễn Công Trứ với triết lý hành lạc như thế, quả thật là một sự táo bạo, cũng
có thể nói là đi trước thời đại. Bởi trong lịch sử tư tưởng Việt Nam xưa mà ảnh hưởng
chưa phải đã chấm dứt với nhiều người thời nay thì vấn đề hành lạc vẫn là vấn đề
không đơn giản, bởi một khi con người từng được Nho giáo dạy bảo "khắc kỷ phục lễ"
(phải thắng mình để tuân theo lễ), từng được Phật giáo khuyến khích diệt dục để diệt
khổ. Khác với phương Tây, ngay từ thời cổ đại Hy Lạp, chủ nghĩa hành lạc
(épicurisme) của Épicure đã được coi là tiến bộ, là có giá trị nhân văn, khơng có gì
mâu thuẫn với đạo đức. Trong cuộc sống quả đã có hai thứ hành lạc. Một thứ hành lạc
nhân văn chân chính. Một thứ hành lạc thú tính, đê hèn. Triết lý hành lạc và nội dung
hành lạc của Nguyễn Cơng Trứ thuộc trường hợp thứ nhất. Chính ơng đã nói rõ điều
<i>đó: "Tế suy vật lý tu hành lạc/ An dụng phù danh bạn thử thân/ Song bất nhân mà lại</i>


<i>chí nhân" (Xét kỹ thì ở đời nên ăn chơi/ Sao nỡ để cơng danh trói buộc thân mình/ Nói</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Việt Nam xưa, coi ơng là người có tư tưởng hiện đại khơng phải là khơng có lý. Tơi
cịn muốn nói thêm về mối nhân dun giữa nhà triết lý hành lạc Nguyễn Công Trứ
và ông tổ, kiêm ơng vua hát nói Nguyễn Cơng Trứ. Như đã biết, hát nói là một thể loại
đặc biệt ở tính chất tổng hợp, nguyên hợp giữa các thành tố: văn chương, thanh nhạc,
vũ đạo và sắc dục đang ở độ tinh khiết, thanh tao. Thưởng thức hát nói chính là
thưởng thức thành quả nghệ thuật nguyên hợp đó, đúng là cha ơng ta thuở trước, trong
đó nổi lên có Nguyễn Công Trứ đã quá thông minh, quá tài giỏi, q khơn trong việc
sáng tạo ra thể hát nói để hưởng thụ một cách phi Nho, phi Phật nhưng rất nhân bản,
rất người, rất nghệ thuật trong cuộc sống trần gian dưới chế độ phong kiến khắc
nghiệt. Nguyễn Công Trứ nếu khơng có nồng độ đắm say với triết lý hành lạc đó thì


làm gì trở thành ơng tổ, ơng vua của thể loại hát nói trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
Nói đến cái Tơi - cá thể Nguyễn Công Trứ lại cũng không thể bỏ quên cái ngất
ngưởng, cái ngơng của ơng. Trong cuộc sống lồi người, ngơng hay ngất ngưởng cũng
có hai trạng thái. Một là đáng ghét. Một lại đáng yêu. Nguyễn Công Trứ và sau ông là
Tản Đà, thuộc trạng thái đáng yêu, đáng kính. Bởi ở đây, ngông, hay ngất ngưởng
thực chất là một hình thức tồn tại đặc biệt của nhân phẩm cao đẹp. Ngông, ngất
ngưởng là khác người. Nhưng khác ở chỗ xa lạc với sự tham lam, nịnh hót, xỏ xiên,
<i>thủ đoạn, bần tiện... Ngược lại là điệu sống nhân bản hơn, người hơn và cũng triết lý</i>
<i>hơn dù trong một hình thức khơng bình thường. Đọc kỹ lại Bài ca ngất ngưởng của</i>
Nguyễn Cơng Trứ, sẽ thấy rõ điều đó.


*


</div>

<!--links-->
Nguyễn Công Trứ và bài Chí Nam Nhi
  • 5
  • 1
  • 3
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×