Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Bản chất khoa học, cách mạng của triết học mác và vấn đề giảng dạy triết học Mác - Lênin trong trường đại học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.15 KB, 11 trang )

Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

BẢN CHẤT KHOA HỌC, CÁCH MẠNG CỦA TRIẾT HỌC
MÁC VÀ VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY
PGS.TS. Vũ Cơng Thương
Trường Đại học Sài Gịn
Tóm tắt
Chủ nghĩa Mác do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ XIX với ba bộ
phận cấu thành (Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học), đầu thế
kỷ XX đã được V.I. Lênin phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư
duy nhân loại, được thừa nhận là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy nhất
đúng đắn và khoa học. Mặc dù đến nay, nhân loại đã trải qua nhiều biến cố,
quanh co, phức tạp, song với bản chất khoa học, cách mạng chủ nghĩa Mác nói
chung, triết học Mác nói riêng vẫn thể hiện sức sống trong xã hội hiện đại. Bài
viết trình bày bản chất khoa học, cách mạng của triết học Mác và vấn đề giảng
dạy triết học Mác - Lênin trong trường đại học hiện nay.
Từ khóa: Bản chất khoa học, cách mạng; triết học Mác, giảng dạy triết học Mác - Lênin.

I. MỞ ĐẦU
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự trong tiến trình phát
triển của lịch sử tƣ tƣởng nhân loại. Với bản chất tự nó - bản chất cách mạng và khoa học
và với tƣ cách là “một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho lồi ngƣời và
nhất là giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” [6; tr.54], nó là hệ thống mở,
ln tự đổi mới nhƣ một nhu cầu tự thân để đáp ứng sự biến đổi không ngừng của thực
tiễn cuộc sống. Hiện nay, triết học Mác vẫn thực sự là một công cụ nhận thức sắc bén,
mang tầm thời đại. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác phù hợp với
điều kiện đổi mới đất nƣớc hiện nay có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.
II. NỘI DUNG
2.1. Bản chất cách mạng và khoa học của triết học Mác
2.1.1. Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác


Thứ nhất, thế giới quan duy vật và phép biện chứng duy vật là tinh hoa của trí tuệ
nhân loại đƣợc C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, tiếp

|2


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

thu một cách sáng tạo những thành tựu của tƣ duy nhân loại, những thành quả của các
nhà triết học tiền bối, nhất là phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc, đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại và thực
tiễn xã hội - lịch sử toàn nhân loại. Sau này đã đƣợc V.I. Lênin bổ sung và phát triển trên
cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng, nhất là thực tiễn cách mạng Nga và dựa vào những
thành quả mới nhất của khoa học, trƣớc hết là khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX.
Những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật, phƣơng pháp luận cơ bản của
triết học Mác mang tính phổ qt, bao qt và có ảnh hƣởng đối với giới tự nhiên, đời
sống xã hội và tƣ duy con ngƣời trong mọi giai đoạn lịch sử. Do đó, phép biện chứng
duy vật trở thành thế giới quan và phƣơng pháp luận khoa học, là kim chỉ nam cho suy
nghĩ và hành động của con ngƣời trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi phép biện chứng duy vật ra đời cho đến nay, nhân
loại đã chứng kiến những biến đổi to lớn trong khoa học cũng nhƣ trong đời sống xã
hội. Những thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc cách
mạng 4.0 hiện nay khơng chỉ đóng vai trị trọng yếu của nền sản xuất xã hội, mà còn
tác động trực tiếp đến làm biến đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy năng
suất lao động tăng lên vƣợt bậc. Trong điều kiện đó địi hỏi triết học Mác phải đƣợc bổ
sung và phát triển hơn nữa, nhƣ V.I. Lênin đã khẳng định “Chính vì chủ nghĩa Mác
khơng phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hồn thành hẳn, có
sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động,
chính vì thế nó khơng thể khơng phản ánh sự biến đổi mạnh mẽ của điều kiện sinh hoạt

xã hội” [5; tr.103].
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong hai phát kiến vĩ đại của C. Mác là
cơ sở thế giới quan và phƣơng pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và cải tạo
xã hội.
Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa có
chọn lọc những tƣ tƣởng biện chứng trong triết học Hêghen, đem phép biện chứng
thống nhất với chủ nghĩa duy vật, tạo nên phép biện chứng duy vật - khoa học về mối
liên hệ phổ biến và phát triển, sử dụng nó để cải tạo thế giới. Đây là hình thức cao của
phép biện chứng, đối lập căn bản với phép biện chứng của Hêghen, mở rộng vào tất cả
các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tƣ duy và giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế
siêu hình, làm cho nó trở nên “hồn bị” và đƣợc mở rộng “từ chỗ nhận thức thế giới tự
nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài ngƣời”, sáng tạo chủ nghĩa duy vật lịch sử với tƣ
cách là “thành tựu vĩ đại nhất của tƣ tƣởng khoa học”.
3

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

Thời đại ngày nay thế giới có nhiều diễn biến phức tạp “Q trình tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế tiếp tục đƣợc đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nƣớc, nhất là giữa các nƣớc lớn ngày càng tăng. Cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh
mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức
đối với mọi quốc gia.
Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp,
khó lƣờng; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh
mạng,… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực… Những biểu hiện của chủ nghĩa dân

tộc cực đoan, chủ nghĩa cƣờng quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên
trong quan hệ quốc tế... Những vấn đề toàn cầu nhƣ an ninh tài chính, an ninh năng
lƣợng, an ninh nguồn nƣớc, an ninh lƣơng thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,
có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế ngày càng quyết liệt hơn với các thách
thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái
chiến tranh kiểu mới... Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực và trên
Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp” [4; tr.70-73]. Tất cả những biến đổi đó
khơng mâu thuẫn và “xung đột” với những nguyên lý và quy luật của chủ nghĩa duy vật
lịch sử với tƣ cách cơ sở thế giới quan và phƣơng pháp luận của nhận thức và cải tạo
xã hội.
Trong xã hội hiện đại, sản xuất vật chất vẫn giữ vai trò quyết định đối với sự tồn
tại, phát triển của xã hội. Nguồn gốc của sự vận động phát triển của xã hội, của lịch sử
nhân loại trên mọi phƣơng diện: kinh tế, chính trị, văn hóa,... suy đến cùng đều là do sự
phát triển của lực lƣợng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lƣợng sản xuất đã dẫn
đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Đến lƣợt mình, quan hệ sản xuất làm cho kiến
trúc thƣợng tầng thay đổi theo, do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ đƣợc thay thế
bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Sự phát triển của xã hội từ
hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác đƣợc thực hiện thông
qua cuộc cách mạng xã hội (với những hình thức và phƣơng pháp cách mạng phong phú
và thích hợp). Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp vẫn là một trong những
động lực phát triển của xã hội. Nói cách khác, quan điểm của triết học Mác về hình thái
kinh tế - xã hội, về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về cách mạng xã hội, nhà nƣớc, tồn tại
xã hội, ý thức xã hội, con ngƣời,… vẫn là cơ sở khoa học cho việc xem xét và giải quyết
những vấn đề căn bản của xã hội hiện đại hiện nay.

|4


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)


2.1.2. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác
Triết học Mác không chỉ là sự kế thừa những giá trị của các hệ thống triết học
trƣớc đó, mà điều quan trọng là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của loài ngƣời, nhất
là thực tiễn cách mạng. C. Mác và Ph. Ăngghen đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề lý luận,
thực tiễn và mối quan hệ giữa chúng. Các ơng đã tích cực trực tiếp tham gia vào hoạt
động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản, thành lập các tổ chức cộng sản, đồng
thời từ thực tiễn để khái quát, phát triển và kiểm nghiệm lý luận, nhờ đó làm cho lý
luận thống nhất với thực tiễn.
Việc đƣa phạm trù thực tiễn vào hệ thống lý luận của mình với tính cách là nền
tảng của tồn bộ đời sống xã hội, là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý, C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện một bƣớc ngoặt cách
mạng trong lĩnh vực lý luận, đem lại cho lý luận một nội dung mới, khác về chất so với
các hệ thống tƣ duy trƣớc đó. Điều đó đã đƣợc C. Mác đã khẳng định: “Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế
giới” [8; tr.12]. Ở luận đề 8, “Luận cƣơng về Phoiơbắc”, C. Mác viết: “Đời sống xã hội,
về thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đƣa lý luận đến chủ
nghĩa thần bí, đều đƣợc giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con ngƣời và
trong sự hiểu biết thực tiễn ấy” [8; tr.12].
Khẳng định vai trò quyết định của thực tiễn, song C. Mác và Ph. Ăngghen không
hạ thấp hay bỏ qua vai trò của lý luận, mà luận giải sâu sắc về mối quan hệ giữa lý luận
và thực tiễn. C. Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên khơng thể thay thế đƣợc sự
phê phán của vũ khí, lực lƣợng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lƣợng vật chất;
nhƣng lý luận cũng sẽ trở thành lực lƣợng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần
chúng” [7; tr.580]. Chính vì vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trở thành
nguyên tắc nền tảng của triết học Mác.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, sự phát triển của cuộc cách mạng 4.0, sự ra đời
của kinh tế tri thức… Song, triết học Mác luôn giữ vai trò định hƣớng thế giới quan và
phƣơng pháp luận cho hoạt động của con ngƣời; đồng thời, đƣợc thực tiễn kiểm
nghiệm, chứng minh và làm phong phú thêm bằng chính “hơi thở” của thời đại. Chính
vì vậy, Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh rằng lý luận của các ông không phải là giáo điều,

mà là kim chỉ nam cho hành động. Tuy nhiên, do điều kiện hoàn cảnh lịch sử quy định
nên khi vận dụng triết học vào thực tiễn cách mạng ở mỗi dân tộc, quốc gia là khác
nhau. Việc vận dụng, bổ sung, phát triển triết học Mác phải dựa trên cơ sở bảo vệ, kế
5

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

thừa, phát huy bản chất cách mạng, khoa học vốn có của triết học Mác, không hoang
mang, dao động, mất phƣơng hƣớng. Cần chống việc nhân danh vận dụng, bổ sung,
phát triển triết học Mác để phủ định bản chất khoa học cách mạng vốn có của nó, rơi vào
chủ nghĩa xét lại; hoặc là nhân danh “bảo vệ” triết học Mác, khơng nhìn thấy những đổi
thay của thực tiễn, rơi vào giáo điều, kinh viện, bảo thủ. Vấn đề này, V.I. Lênin đã chỉ
rõ, tuyệt đối không coi lý luận của Mác là một cái gì đó nhất thành bất biến và khơng
thể xâm phạm, mà trái lại chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở cho một khoa học, và
những ngƣời xã hội chủ nghĩa, nếu không muốn lạc hậu với đời sống thực tế, cần tiếp
tục bổ sung, phát triển triết học Mác phù hợp với thực tiễn.
2.1.3. Sự thống nhất giữa ổn định và tính phát triển, tính mở trong hệ thống lý luận
của triết học Mác
Là hệ thống lý luận khoa học, triết học Mác - Lênin là sự khái quát thực tiễn cách
mạng và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
Sức mạnh của lý luận đó chính là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với thực tiễn, đƣợc thực tiễn
kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Toàn bộ các khái niệm, phạm trù,
nguyên lý và quy luật của triết học Mác là hệ thống lý luận mở và phát triển, đem lại
một cơ sở khoa học đúng đắn cho việc luận chứng và giải thích những hiện tƣợng của
đời sống xã hội, nhất là cho việc cải tạo thế giới hiện thực. Nó đem lại cho chúng ta
quan điểm tồn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức,
xem xét các sự vật, hiện tƣợng cũng nhƣ trong hoạt động thực tiễn để có cách thức giải

quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Tính mở và phát triển của triết học Mác đƣợc thể hiện: một là, triết học Mác luôn
hƣớng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, cải tạo xã hội, phát triển khoa học - công
nghệ và phát triển sản xuất chứ không phải chỉ là thứ lý luận giáo điều, kinh viện; hai
là, triết học Mác ra đời là do C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa của triết học trƣớc đó, đặc biệt là phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc để xây dựng hệ thống lý luận của mình. Hiện nay, hồn cảnh lịch sử xã hội đã có những biến đổi to lớn, vì vậy để xem xét, tiếp thu một cách có phê phán
những giá trị nhằm mở rộng tầm nhìn, phát triển và hồn thiện triết học Mác cần phải
đứng trên lập trƣờng của chủ nghĩa duy vật biện chứng; ba là, thế giới quan duy vật
biện chứng và phƣơng pháp luận biện chứng duy vật của triết học Mác là kim chỉ nam
cho hành động, mở đƣờng và chỉ dẫn cho con ngƣời tiếp tục nhận thức chân lý chứ
không đi tới chân lý tuyệt đích, cuối cùng.

|6


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

Trong triết học Mác, tính mở và tính phát triển thống nhất biện chứng với tính ổn
định của lập trƣờng duy vật biện chứng và phƣơng pháp luận cơ bản của nó. Mặc dù,
hiện nay thế giới đã, đang và tiếp tục có những biến đổi to lớn và phức tạp. Song, do
triết học Mác ra đời là tinh hoa trí tuệ của tồn nhân loại, thế giới quan và phƣơng pháp
luận khoa học của triết học Mác vẫn là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức, cải tạo
xã hội, nên ở bất cứ quốc gia, dân tộc nào đều có thể vận dụng sáng tạo triết học Mác
phù hợp thực tiễn đất nƣớc mình; đồng thời, do bản chất khoa học, cách mạng và đòi
hỏi bức thiết của thực tiễn thời đại tất yếu dẫn đến việc đổi mới lý luận triết học mácxít.
Tuy nhiên, việc đổi mới khơng phải là xét lại, phủ định, mà là tiếp tục khẳng định và làm
sâu sắc hơn bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác trong điều kiện mới.
2.2. Vấn đề đổi mới giảng dạy triết học Mác - Lênin trong trường đại học hiện nay
2.2.1. Sự cần thiết đổi mới giảng dạy triết học Mác - Lênin

Trong thời đại hiện nay, trí tuệ đƣợc coi là sức mạnh hàng đầu, khẳng định vai
trò, vị thế của một quốc gia, dân tộc. Vì vậy, bất kỳ quốc gia, dân tộc, ở giai đoạn phát
triển nào, muốn thúc đẩy và phát triển kinh tế không thể không quan tâm và đầu tƣ cho
giáo dục. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ “Phát triển giáo dục và đào tạo là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con ngƣời - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trƣởng kinh tế nhanh và bền vững” [2; tr.108-109].
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và cơng nghệ, xu thế tồn cầu hóa thâm
nhập ngày càng sâu rộng vào mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Điều đó,
tạo ra những thay đổi lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia, dân tộc trên
toàn thế giới. Trên lĩnh vực tƣ tƣởng, văn hóa, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục dùng
mọi thủ đoạn và âm mƣu “diễn biến hịa bình” tác động vào xã hội nƣớc ta, nhất là vào
thanh niên, sinh viên, trí thức,... nhằm làm tan rã hệ tƣ tƣởng, làm mất niềm tin vào chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, thực tế ở các trƣờng đại học vẫn
còn một số sinh viên có thái độ thờ ơ, coi nhẹ, thiếu niềm tin đối với các mơn Lý luận
chính trị, có nhận thức lệch lạc về mục đích, lý tƣởng sống làm ảnh hƣởng đến quá
trình giáo dục, đào tạo của nhà trƣờng cũng nhƣ việc hình thành nhân cách mỗi sinh
viên. Vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nƣớc ta hiện nay là “chất lƣợng giáo dục tồn
diện, trƣớc hết là chất lƣợng giáo dục chính trị, lý tƣởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt ở
bậc cao đẳng, đại học” [3; tr.40-41]. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: “Đặc biệt
đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức,
7

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

mờ nhạt lý tƣởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tƣơng
lai của bản thân và đất nƣớc” [1; tr.24]. Tình hình đó do nhiều ngun nhân cả chủ

quan và khách quan, song một trong những nguyên nhân cơ bản là do: “Cơng tác giáo
dục chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức và nhân cách cũng nhƣ việc giảng dạy các môn khoa
học xã hội và nhân văn,... bị xem nhẹ. Hiệu quả giảng dạy các môn khoa học Mác Lênin bị hạn chế” [1; tr.26]. Điều đó, đặt ra yêu cầu phải chú trong hơn nữa công tác
giảng dạy, học tập các mơn Lý luận chính trị nhằm hình thành cho sinh viên thế giới
quan và phƣơng pháp luận khoa học, xây dựng cho sinh viên niềm tin vào chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tin vào đƣờng lối đổi mới của Đảng, vào sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã
khẳng định: “Tăng cƣờng giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống cho học sinh,
sinh viên. Cải tiến việc giảng dạy và học tập các bộ môn khoa học Mác - Lênin và tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh ở các trƣờng đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề” [2; tr.110-111].
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy triết học Mác
- Lênin trong trường đại học hiện nay
Thứ nhất, đổi mới nội dung chƣơng trình, phƣơng pháp giảng dạy phù hợp với
đối tƣợng sinh viên.
Với chức năng là môn khoa học cung cấp thế giới quan và phƣơng pháp luận
cũng nhƣ tƣ duy biện chứng cho ngƣời học, đổi mới nội dung và phƣơng pháp giảng
dạy triết học Mác - Lênin phù hợp với đối tƣợng sinh viên là một yêu cầu bức thiết,
một nhiệm vụ quan trọng. Việc xây dựng nội dung chƣơng trình phù hợp với đối tƣợng
dạy học quyết định đến việc lựa chọn phƣơng pháp dạy học phù hợp. Đối với sinh viên
các trƣờng đại học, họ cần đƣợc trang bị kiến thức về thế giới quan, phƣơng pháp luận
khoa học chung nhất. Song, do mục tiêu đào tạo của mỗi trƣờng, mỗi ngành khác nhau.
Do đó, trên cơ sở xác định chuẩn đầu ra của mỗi trƣờng, mỗi ngành đào tạo, giảng viên
phải xác định đối tƣợng để vận dụng những phƣơng pháp giảng dạy và đáp ứng các kỹ
năng cần thiết phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Trƣớc những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn và qua 12 năm giảng dạy các mơn
Lý luận chính trị theo 3 môn ở trƣờng đại học bộc lộ một số hạn chế, gây áp lực rất
lớn bởi sự quá tải về nội dung chƣơng trình. Mơn Những ngun lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin (phần 1) so với nội dung môn Triết học Mác - Lênin trƣớc đây thì gần
nhƣ khơng có sự thay đổi, trong khi đó thời gian giảng dạy chƣơng trình mới chỉ bằng


|8


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

một nửa so với chƣơng trình cũ. Việc nghiên cứu triết học Mác - Lênin chƣa đáp ứng
đƣợc yêu cầu thực tiễn phát triển của đất nƣớc đặt ra. Nhiều vấn đề cấp bách về sự phát
triển đất nƣớc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa chƣa đƣợc giải đáp. Từ thực
tế đó, Ban Bí thƣ đã có Kết luận 94-KL/TW ngày 28/3/2014 về “Tiếp tục đổi mới học
tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã đƣợc giao nhiệm vụ tổ chức biên soạn chƣơng trình, giáo trình các mơn lý luận
chính trị dùng chung trong đào tạo trình độ đại học đối với tất cả các cơ sở giáo dục đại
học và có Cơng văn số 3056/BGDĐT-GDĐH ngày 19/7/2019 hƣớng dẫn thực hiện
chƣơng trình, giáo trình các mơn Lý luận chính trị bắt đầu từ năm học 2019 - 2020.
Trong đó, mơn Triết học Mác - Lênin đƣợc bố trí 3 tín chỉ.
Việc nâng cao chất lƣợng giảng dạy các mơn Lý luận chính trị nói chung, giảng
dạy mơn triết học Mác - Lênin nói riêng là một thách thức rất lớn. Vì vậy, để kích
thích, khơi dậy đƣợc tính sáng tạo, say mê của sinh viên trong học tập triết học Mác Lênin, đòi hỏi cần quan tâm đến phƣơng pháp giảng dạy, từng bƣớc cải tiến phƣơng
pháp dạy và học theo hƣớng hiện đại, chuyển từ “việc truyền đạt thông tin khoa học
sang việc tổ chức quá trình nhận thức cho sinh viên phù hợp với tình hình mới hiện
nay. Thực hiện đổi mới phƣơng pháp giảng dạy cần chú ý về cách tiếp cận, nhận thức
đối tƣợng khoa học; cách chuyển tải thông tin về đối tƣợng khoa học đến ngƣời học;
cách vận dụng tri thức triết học của sinh viên vào thực tiễn. Đồng thời, trong giảng dạy
triết học Mác - Lênin cần đáp ứng yêu cầu làm hình thành ở sinh viên một thế giới
quan theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng; và cung cấp cho ngƣời học
một phƣơng pháp luận triết học đúng đắn, hợp lý triệt để.
Thứ hai, trong giảng dạy triết học Mác - Lênin cần cung cấp cho ngƣời học
phƣơng pháp luận triết học đúng đắn, hợp lý.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phƣơng pháp thống nhất hữu cơ với nhau.

Ở đây, các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít trở thành những nguyên tắc xuất
phát và phƣơng pháp luận. Trên cơ sở giải thích một cách đúng đắn, triệt để về thế giới
và con ngƣời trong thế giới ấy, triết học Mác - Lênin đã thể hiện chức năng phƣơng
pháp luận của nó, trở thành cái định hƣớng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con ngƣời. Nhờ phƣơng pháp luận mácxít, con ngƣời lựa chọn, xác định đúng đắn, hợp
lý con đƣờng cần thiết chung nhất cho một phƣơng hƣớng, cách thức để định hƣớng,
xác định và giải thích những vấn đề mà con ngƣời đang quan tâm. Triết học Mác Lênin góp phần bồi dƣỡng nhân sinh quan, đạo đức cách mạng, rèn luyện bản lĩnh
chính trị, nhân cách, phẩm chất, năng lực và niềm tin cho sinh viên.
9

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

Thứ ba, bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học triết học
Mác - Lênin.
Hệ thống các quan niệm, quan điểm, nguyên lý, quy luật, phạm trù của triết học
Mác - Lênin, do tính đúng đắn và triệt để của nó mang lại, đã trở thành nhân tố định
hƣớng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành nguyên tắc xuất phát của
phƣơng pháp luận. Do vậy, giảng dạy triết học Mác - Lênin ngƣời dạy phải luôn gắn
chặt nội dung tri thức của khoa học triết học với bản chất, xu hƣớng vận động của lịch
sử, quan tâm đƣa dẫn ngƣời học có năng lực lý luận chung để tiếp cận thực tiễn, làm cơ
sở cho nhận thức và hoạt động thực tiễn; gợi mở, định hƣớng cho sinh viên phƣơng
pháp luận đúng đắn trong cách xem xét, đánh giá những gì đang diễn ra trong đời sống
hiện thực, tránh tiếp nhận triết học một cách giáo điều. Nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trƣờng, quan điểm
và phƣơng pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trƣờng, quan điểm và
phƣơng pháp ấy mà giải quyết tốt cho những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng
của chúng ta. Nhƣ thế chúng ta học tập lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế” [9; tr.497].

Thứ tư, phải đảm bảo mục đích của việc dạy học mơn triết học Mác - Lênin.
Do chuẩn đầu ra của từng ngành đào tạo khác nhau nên việc xác định mục đích
giảng dạy triết học ngày càng có nhiều yêu cầu và địi hỏi mang tính đặc thù hơn. Tuy
nhiên, trong điều kiện hiện nay, giảng dạy triết học Mác - Lênin ngoài việc phải gắn
với mục tiêu đào tạo của từng ngành, giảng dạy triết học học Mác - Lênin còn phải gắn
với việc nhận diện, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc và các thủ đoạn
chống phá con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta nhằm thực hiện thành công
chiến lƣợc “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực chính trị tƣ tƣởng của Đảng. Từ đó, giúp
sinh viên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhất là trƣớc âm mƣu, thủ đoạn hoạt
động “diễn biến hịa bình”, bạo loạn, lật đổ, phá hoại nền tảng văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, nâng cao trình độ, năng lực chun mơn của đội ngũ giảng viên trƣớc
yêu cầu mới.
Đây là điều kiện quan trọng cho việc đảm bảo và nâng cao chất lƣợng dạy và học
đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay. Ngƣời giảng viên giỏi phải là ngƣời truyền đƣợc
cảm hứng tới ngƣời học, dẫn dắt sinh viên học tập môn học có hiệu quả. Muốn nâng
cao chất lƣợng đào tạo thì một trong những yếu tố có tính quyết định là đội ngũ giảng
viên phải có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực và phƣơng pháp giảng dạy. Do vậy, đội
ngũ giảng viên cần đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng, tiếp tục nâng cao trình độ để có đủ khả
năng đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ giảng dạy.

|10


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

Để nâng cao trình độ, năng lực chun mơn, ngồi việc nắm vững, trang bị và cập
nhật những kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành theo chiều sâu, một mặt, ngƣời
giảng viên cần trang bị kiến thức liên ngành để có tầm hiểu biết rộng, đủ sức luận giải
những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra; mặt khác, mỗi giảng viên cịn phải
khơng ngừng nâng cao bản lĩnh nghề nghiệp, thực sự tâm huyết trong việc nghiên cứu,

giảng dạy, tự vƣơn lên để khẳng định vị thế của mình, khắc phục mọi biểu hiện thỏa
mãn, thiếu nhạy bén, thiếu tích cực.
Thứ sáu, khuyến khích sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Đây chính là một yêu cầu
cơ bản trong phƣơng pháp giáo dục hiện đại. Bởi lẽ, sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác - Lênin. Vì vậy, mục đích học để vận dụng
chứ khơng phải học lý luận vì lý luận. Để sinh viên vận dụng những kiến thức đã đƣợc
học vào thực tiễn cuộc sống, đòi hỏi họ phải chủ động, tích cực, tự giác học tập. Tuy
nhiên, để sinh viên thực hiện tốt việc tự học, tự rèn luyện, một mặt, sinh viên phải xác
định rõ mục đích học tập, xây dựng động cơ học tập đúng đắn, có kế hoạch sắp xếp
thời gian học tập và kiên trì thực hiện kế hoạch; mặt khác, giảng viên bộ môn cần chủ
động giao bài tập về nhà cho sinh viên, hƣớng dẫn sinh viên đọc tài liệu và nghiên cứu
bài học trƣớc khi lên lớp.
III. KẾT LUẬN
Triết học Mác với bản chất tự nó - bản chất cách mạng và khoa học “luôn là một
triết học mà không một thứ triết học nào có thể vƣợt qua đƣợc của thời đại chúng ta”.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tồn cầu hóa hiện nay, triết học Mác - cơ sở lý luận
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thực sự trở thành cơ sở lý luận và phƣơng pháp
khoa học giúp Đảng và Nhà nƣớc ta xây dựng và từng bƣớc hoàn chỉnh đƣờng lối đổi
mới theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu dân dân, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy,
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của triết học Mác - Lênin, nghiên cứu,
giảng dạy, học tập triết học Mác - Lênin giữ vai trị hết sức quan trọng, góp phần vào
sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xƣớng và lãnh đạo, để giữ vững độc lập dân tộc và
nâng cao chất lƣợng giáo dục - đào tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11

|



Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII, Văn
phòng Trung ƣơng, Hà Nội.
5. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
6. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
7. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

|12



×