Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đối với sự hình thành con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.4 KB, 11 trang )

Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

SƠ THẢO LẦN THỨ NHẤT NHỮNG LUẬN CƯƠNG VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA CỦA V.I. LÊNIN ĐỐI VỚI SỰ
HÌNH THÀNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
GVC.TS. Phạm Quang Trung*
GVC.TS. Trần Văn Lực**
Trường Đại học Sư phạm, Đại học huế
Tóm tắt
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I. Lênin là một đóng góp quan trọng vào học thuyết Mác - Lênin, vào quá trình
hoạt động của Quốc tế Cộng sản, nhất là ở Đại hội II và vào sự phát triển của
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Trên hành trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc
Việt Nam khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa. Tư tưởng của Lênin trong Luận cương như thắp sáng cho Nguyễn Ái
Quốc một niềm tin, đặt cơ sở, nền tảng vững chắc về mặt lý luận để Người có thể
hình thành con đường cách mạng Việt Nam.
Từ khóa: Luận cương, con đường cách mạng, Nguyễn Ái Quốc.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin (1870 - 1924) đã mãi mãi rời xa chúng ta nhƣng tƣ
tƣởng và những đóng góp của Ngƣời cho phong trào cách mạng thế giới thì vẫn trƣờng
tồn cùng dịng chảy bất tận của lịch sử nhân loại. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Lênin đã tập trung tồn bộ tâm lực, trí lực cho sự nghiệp giải phóng
lồi ngƣời khỏi áp bức và bóc lột. Một trong những cống hiến vĩ đại của Ngƣời là sáng
lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Quốc tế Cộng sản có vai trị lớn đối với phong trào
cộng sản và cơng nhân thế giới. Đóng góp lớn nhất của tổ chức này là đặt vấn đề giải
phóng dân tộc thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng ở các nƣớc tƣ bản. Bản Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin
đƣợc thông qua tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản đã đặt nền tảng chính trị và tƣ


tƣởng cho việc giải quyết đúng đắn những vấn đề phức tạp của phong trào giải phóng
*, **

Trƣởng Khoa và Phó Trƣởng Khoa Giáo dục Chính trị

|138


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

dân tộc ở các nƣớc thuộc địa và phụ thuộc, đặc biệt là đối với cách mạng Việt Nam mà
Nguyễn Ái Quốc chính là ngƣời tiếp nhận và hình thành con đƣờng cách mạng cho dân
tộc Việt Nam.
II. NỘI DUNG
2.1. Nội dung cơ bản của Luận cương
Năm 1917, Cách mạng tháng Mƣời Nga thắng lợi, đó là cuộc cách mạng vơ sản
đầu tiên trên thế giới. Với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga, đó là một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trƣớc cách mạng “nƣớc Nga là nhà tù của các dân
tộc”. Cách mạng tháng Mƣời Nga đã nêu tấm gƣơng sáng về sự giải phóng dân tộc bị
áp bức, đã “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng
dân tộc” [4; tr.562]. Nó làm cho phong trào cách mạng vơ sản ở các nƣớc tƣ bản chủ
nghĩa phƣơng Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa phƣơng Đơng có
quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
đế quốc.
Sau Cách mạng tháng Mƣời Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hiện thực, đƣợc
truyền bá rộng rãi khắp nơi, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản ở nhiều nƣớc tƣ
bản chủ nghĩa và thuộc địa vào năm 1918 nhƣ: Đảng Cộng sản Áchentina, Đảng Cộng
sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari, Đảng Cộng sản Phần Lan, Đảng Cộng sản Áo,
Đảng Cộng sản Ba Lan... Tháng 3/1919, theo sáng kiến của Lênin, Quốc tế Cộng sản
(Quốc tế III) đƣợc thành lập tại Mátxcơva để lãnh đạo thống nhất các Đảng Cộng sản

và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.
Từ Đại hội I (3/1919) đến Đại hội II (từ 19/7 đến 7/8/1920) của Quốc tế Cộng sản
là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới và ngày càng có thêm
nhiều quần chúng lao động đƣợc thu hút vào cuộc đấu tranh theo con đƣờng của Cách
mạng tháng Mƣời Nga. Trong điều kiện đó, Lênin soạn Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa1. Tác phẩm tuy ngắn gọn nhƣng vơ
cùng quan trọng. Nó đã củng cố những nguyên tắc mácxít về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa, đồng thời phát triển thêm những luận điểm mới về cách mạng giải phóng dân
tộc ở một nƣớc thuộc địa. Những luận cƣơng đó đã đƣợc Đại hội II Quốc tế Cộng sản
thông qua và coi là Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng
sản trong tình hình lúc bấy giờ.
Ngoài phần yêu cầu sửa chữa, bổ sung, điều chỉnh, nội dung của Sơ thảo lần thứ
1

Tác phẩm đƣợc in trong sách V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.197-206.
139

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa bao gồm 12 luận điểm.
Phân tích những luận điểm đó, chúng ta nhận thấy rằng Luận cƣơng của Lênin nêu lên
một số vấn đề lớn:
- Vạch rõ bản chất của dân chủ tư sản và tố cáo chiến tranh đế quốc.
Luận điểm thứ nhất đã vạch rõ, chế độ dân chủ tƣ sản chỉ là hình thức và lừa dối,
bình đẳng dân tộc là trừu tƣợng, hình thức khơng thực tế vì dân chủ tƣ sản chỉ núp dƣới
tự do, bình đẳng cá nhân nói chung. Tun bố tự do bình đẳng “giữa kẻ hữu sản và
ngƣời vơ sản, giữa kẻ bóc lột và ngƣời bị bóc lột” [1; tr.198] về thực chất chỉ là muốn

thủ tiêu đấu tranh giai cấp, làm cho giai cấp bị áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm.
Luận điểm thứ ba chỉ rõ, chiến tranh đế quốc - chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 - 1918) đã làm cho tất cả các dân tộc và các giai cấp bị áp bức thấy hết đƣợc “tính
chất lừa dối trong những lời nói văn hoa của bọn dân chủ tƣ sản” [1; tr.199]2.
- Đặt vấn đề dân tộc gắn với vấn đề thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản.
Theo Lênin, quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm quyền tự quyết của các dân
tộc thuộc địa phải đi đến công nhận, thực hiện quyền độc lập tự chủ chứ khơng phải chỉ
có tự trị văn hóa. Quyền độc lập tự chủ này khơng phải riêng cho các dân tộc da trắng,
mà cho tất cả các dân tộc thuộc mọi màu da.
- Kết hợp chống đế quốc và chống các thế lực phản động ở trong nước.
Trong các luận điểm, Lênin đều khẳng định: Nhiệm vụ của giai cấp vô sản ở các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc là đấu tranh chống đế quốc, đồng thời còn phải thực
hiện nhiệm vụ chống các thế lực phản động trong nƣớc nhƣ: “Đấu tranh chống giới tu
hành cùng những phần tử phản động và trung cổ khác đang cịn có ảnh hƣởng trong
các nƣớc chậm tiến” [1; tr.203], “chống chủ nghĩa Đại Hồi và những xu hƣớng
tƣơng tự mƣu toan liên hợp phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc châu
Âu và châu Mỹ với việc củng cố địa vị của bọn vua chúa, bọn địa chủ, bọn mu-la”
[1; tr.203-204].
- Mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Khi bàn về mối quan hệ này, Lênin đề cập ở luận điểm thứ mười một nhƣ sau:
Đối với các quốc gia dân tộc thuộc địa và phụ thuộc thì: “Nhất thiết phải có sự giúp đỡ
Thông qua các hoạt động thực tiễn nhƣ: hòa ƣớc Brét Litốpxcơ (3/1918), Đức buộc Nga phải chịu
những điều khoản rất nghiệt ngã; hòa ƣớc Véc-xây (1919) của các nước dân chủ phương Tây khét
tiếng với chƣơng trình 14 điểm của Tổng thống Mỹ Uyn-xơn là một trò bịp bợm, một hành vi dối
trá với các dân tộc nhỏ yếu và các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc; Hội quốc liên và tồn bộ những
chính sách của khối Đồng minh còn bộc lộ sự giả dối, lừa bịp của chế độ dân chủ tƣ sản một cách
rõ ràng và đậm nét hơn.
2

|140



“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

của tất cả các đảng cộng sản đối với phong trào giải phóng dân chủ tƣ sản của những
nƣớc ấy; công nhân của một nƣớc đang thống trị một dân tộc chậm tiến về mặt thuộc
địa hoặc về mặt tài chính phải có nhiệm vụ trƣớc tiên ủng hộ tích cực nhất phong trào
giải phóng của dân tộc ấy” [1; tr.203]3.
- Sự đồn kết chặt chẽ giữa phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức
với nhau và với các nước đã làm cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công.
Đây là một trong những nội dung quan trọng và là giải pháp liên kết các dân tộc
bị áp bức lại với nhau theo tinh thần chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa quốc tế chân
chính. Đồn kết, liên hiệp cơng nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân
dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, tiến tới hồn
thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Quốc tế Cộng sản đã tạo ra bƣớc chuyển biến lớn trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế cũng nhƣ trong phong trào giải phóng dân tộc hiện đại. Lần đầu tiên
trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế, Lênin và Quốc tế III đặt ra vấn đề liên minh
giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nƣớc tƣ bản công nghiệp phát triển với
phong trào giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa. Khi chủ nghĩa tƣ bản phát triển
thành chủ nghĩa tƣ bản đế quốc với hệ thống thuộc địa trải rộng khắp thế giới, giai cấp
vô sản ở các nƣớc tƣ bản có trách nhiệm giúp đỡ ngƣời anh em của mình tại các nƣớc
thuộc địa, cuộc cách mạng ở vô sản chính quốc cần phải phối hợp chặt chẽ với cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa.
Trong luận điểm thứ sáu, Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải thực hiện sự đoàn kết
giữa các dân tộc và thuộc địa đối với nƣớc Nga. Lênin cho rằng, những ngƣời lao động
thuộc các dân tộc khác nhau “cần phải thi hành một chính sách thực hiện sự liên minh
chặt chẽ nhất của tất cả các phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa với nƣớc Nga
Xơ viết” [1; tr.200]. Từ đó, vấn đề đặt ra là cần tìm một hình thức phù hợp để thực hiện
Trong Đại hội II của Quốc tế Cộng sản, Lênin cịn trình bày văn kiện Điều kiện kết nạp vào Quốc

tế Cộng sản với 21 điều, trong đó Điều 8 về vấn đề thuộc địa và dân tộc bị áp bức quy định: “Đảng
nào muốn gia nhập Quốc tế III đều buộc phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của bọn
đế quốc “nƣớc mình” trong các thuộc địa, ủng hộ trên thực tế - chứ không phải bằng lời nói - mọi
phong trào giải phóng ở thuộc địa; địi hỏi phải trục xuất bọn đế quốc nƣớc mình ra khỏi các thuộc
địa ấy; gây trong lịng cơng nhân nƣớc mình thái độ anh em chân thành với nhân dân lao động các
nƣớc thuộc địa và các dân tộc bị áp bức; và tiến hành tuyên truyền một cách có hệ thống trong quân
đội nƣớc mình chống mọi sự áp bức các dân tộc thuộc địa” [1; tr.252].
3

141

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

sự liên minh trên. Theo Lênin, hình thức đó chính là Liên bang - “hình thức q độ tiến
tới thống nhất hoàn toàn những ngƣời lao động thuộc các dân tộc khác nhau” [1; tr.200]4.
Ở luận điểm thứ mười, Lênin đặt vấn đề về sự đoàn kết quốc tế của giai cấp vơ sản:
“Lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vụ sản trong một nƣớc phải phục tựng lợi ích của
cuộc đấu tranh của giai cấp vụ sản trong phạm vi toàn thế giới” [1; tr.203].
Kết thúc bản Luận cƣơng, Lênin khẳng định: “Khơng có sự cố gắng tự nguyện tiến
tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần
chúng cần lao thuộc tất cả các nƣớc và các dân tộc trên toàn thế giới, thì khơng thể chiến
thắng hồn tồn chủ nghĩa tƣ bản đƣợc” [1; tr.206].
- Vai trị của chun chính vơ sản.
Luận điểm thứ năm khẳng định: “Tình hình chính trị thế giới hiện nay đã đặt vấn
đề chun chính vơ sản thành vấn đề trƣớc mắt” [1; tr.199]. Vì thế, phải bảo vệ, giữ
vững nền chun chính vơ sản Nga. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi lẽ nƣớc Cộng hịa
Xơ viết Nga là nƣớc tập hợp xung quanh mình các phong trào của công nhân tiên tiến ở

tất cả các nƣớc ủng hộ nhà nƣớc Xô viết và tất cả các phong trào giải phóng dân tộc ở
các nƣớc thuộc địa.
- Nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản đối với vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Nhiệm vụ cơ bản của các Đảng Cộng sản là đấu tranh chống chế độ dân chủ tƣ
sản, vạch trần sự dối trá và giả nhân giả nghĩa của nó; lãnh đạo giai cấp công nhân và
quần chúng cần lao thực hiện sứ mệnh thiêng liêng, cao cả là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng con ngƣời.
- Nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản đối với vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu và các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc thành lập Đảng
Cộng sản và chỉ đạo, uốn nắn quá trình trƣởng thành của các Đảng non trẻ mới ra đời;
“làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nƣớc gần
gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai
Trên thực tế, hình thức này đã tỏ rõ tính chất hợp lý trong mối liên hệ giữa Cộng hòa liên bang xã
hội chủ nghĩa Xơ viết Nga với các Cộng hịa Xơ viết khác nhƣ: Hunggari, Phần Lan, Adécbaigian và
Ucraina. Cho đến ngày 30/12/1922 tại Mátxcơva, Đại hội lần thứ nhất các Xô viết tồn Liên bang
đƣợc tiến hành và nhất trí thơng qua bản Tun ngơn thành lập Liên bang Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Xô viết (Liên Xô). Sự kiện này đánh dấu sự thắng lợi của chính sách dân tộc theo chủ nghĩa
Lênin, của tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc trong quốc gia công nông đầu tiên trên thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử, loài ngƣời tiến bộ đã thấy một con đƣờng giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc, đó là thủ tiêu mọi bất bình dân tộc và xây dựng một cộng đồng anh em giữa các dân tộc.
4

|142


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

cấp tƣ sản. Bởi vì, chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tƣ bản,
nếu khơng có chiến thắng đó thì khơng thể thủ tiêu đƣợc ách áp bức dân tộc và tình
trạng bất bình đẳng” [1; tr.199]; vạch rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nền dân chủ

tƣ sản và chứng minh đƣợc tính ƣu việt của chế độ và chun chính Cộng hịa Xơ viết;
tiếp tục phát triển, nghiên cứu và dùng kinh nghiệm để kiểm tra lại các liên bang đã
đƣợc thành lập; tiếp tục tuyên truyền và hiện thực hiện những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Thông qua Luận cƣơng, Lênin đã nêu lên các luận điểm mới quan trọng đối với
phong trào giải phóng dân tộc là giai cấp vơ sản các chính quốc và quần chúng lao động
ở tất cả các dân tộc phải gần gũi nhau để tiến hành cuộc cách mạng chung lật đổ bọn địa
chủ và tƣ sản; là cơng nhân các chính quốc phải tích cực ủng hộ phong trào giải phóng
dân tộc; là chế độ Xô viết, một chế độ thật sự bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc.
Đại hội II của Quốc tế Cộng sản đã đề ra đƣợc một chiến lƣợc liên minh, đoàn kết
của tất cả các lực lƣợng vô sản yêu nƣớc và tiến bộ trên thế giới. Khẩu hiệu nổi tiếng
của C. Mác nêu ra ở cuối tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Vô sản toàn thế
giới liên hiệp lại!” đã đƣợc Đại hội II phát triển thành: “Vơ sản tồn thế giới và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đây là bƣớc ngoặt to lớn trong nghệ thuật lãnh đạo
chính trị của những ngƣời cộng sản, làm cho Quốc tế Cộng sản trở thành ngƣời lãnh
đạo của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Luận cƣơng đã giúp những ngƣời yêu nƣớc và cộng sản trên tồn thế giới hiểu rõ
hơn về vai trị, vị trí của cách mạng thuộc địa. Từ đó, họ có những suy nghĩ và hành
động đúng đắn nhằm tìm ra con đƣờng cứu nƣớc cho dân tộc mình và giúp đỡ, ủng hộ
thiết thực đối với phong trào cách mạng chung của toàn thế giới. Hàng loạt các Đảng
Cộng sản ở nhiều nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và thuộc địa đƣợc thành lập nhƣ: Đảng Cộng
sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Đảng Cộng sản Mông Cổ, Đảng Cộng sản Italia, Đảng Cộng sản Ai Cập, Đảng
Cộng sản Nam Phi (1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản, Đảng Cộng sản Braxin (1922),
Đảng Cộng sản Cuba (1925), Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)...
2.2. Ảnh hưởng của Luận cương đối với sự hình thành con đường cách mạng Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đã
giúp các dân tộc nhỏ yếu, thuộc địa và phụ thuộc tìm thấy con đƣờng đi cho dân tộc
mình: con đường cách mạng vơ sản. Trong hàng loạt các nƣớc tìm thấy và lựa chọn

143

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

con đƣờng cách mạng vô sản vào những năm nửa đầu thế kỷ XX thì Việt Nam là một
trong những nƣớc sớm nhất và tiêu biểu nhất.
Việc tìm ra con đƣờng cách mạng vơ sản “để cho cả dân tộc theo đi” là một quá
trình đấu tranh, lựa chọn đầy gian khổ chứ không phải ngẫu nhiên. Chỉ có lịng u
nƣớc nồng nàn, ý chí quyết tâm sắt đá và phƣơng pháp tƣ duy sáng suốt của một bậc
anh minh mới đƣa Ngƣời đến với sự lựa chọn lịch sử ấy. Tƣ duy về con đƣờng giải
phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đƣợc hình thành trên cơ sở nền tảng
văn hố, thực tiễn của dân tộc và thời đại và vào những phẩm chất cá nhân của Ngƣời.
Trƣớc yêu cầu cấp bách phải tìm một con đƣờng cứu nƣớc mới, bằng thiên tài trí
tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, ngày 05/6/1911, Nguyễn Ái Quốc ra nƣớc ngồi tìm
đƣờng cứu nƣớc. Ngƣời đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nƣớc tƣ bản
phát triển nhƣ Mỹ, Pháp, Anh. Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn các cuộc
cách mạng tƣ sản Mỹ và Pháp, đồng thời tham gia lao động và đấu tranh trong hàng
ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các màu da, Ngƣời nhận ra rằng,
những cuộc cách mạng ấy là “những cuộc cách mạng chƣa đến nơi”, nghĩa là cách
mạng rồi mà nhân dân lao động ở đó vẫn chƣa đƣợc giải phóng, vẫn cịn bị áp bức, bóc
lột và rất cực khổ. Vì vậy, sự nghiệp cứu nƣớc, giải phóng dân tộc khỏi mọi áp bức,
bóc lột không thể đi theo con đƣờng của những cuộc cách mạng đó, mà phải theo con
đƣờng khác.
Cuối năm 1917, Ngƣời từ nƣớc Anh trở lại nƣớc Pháp và tham gia các hoạt động
xã hội, đặc biệt Ngƣời rất quan tâm tìm hiểu Cách mạng tháng Mƣời Nga. Ngƣời ủng
hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Nga chống lại sự can thiệp của bọn đế quốc, nhƣng
chƣa hiểu rõ ý nghĩa của Cách mạng tháng Mƣời. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc

đƣợc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Ngƣời tìm thấy sự chỉ dẫn về con
đƣờng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa nói chung và ở Việt Nam
nói riêng ở những luận điểm 5, 6, 8, 9, 11 của Luận cương. Những luận điểm ấy đã
nhấn mạnh rằng, cần phải có sự giúp đỡ của các Đảng cộng sản và giai cấp công nhân ở
các nƣớc tiên tiến đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và lạc hậu; tất cả
những ngƣời vô sản và quần chúng lao động của các nƣớc trên thế giới cùng nhau tiến
hành một cuộc đấu tranh cách mạng chung; đối với các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và
nhỏ yếu, khơng có con đƣờng nào khác ngồi con đƣờng liên minh với nƣớc Cộng hịa
Xơ viết. Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ở Luận cƣơng của Lênin con đƣờng giải phóng dân
tộc và rút ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản” [4; tr.314].

|144


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

Đi theo con đƣờng cách mạng vơ sản có nghĩa là cần phải xây dựng khối đoàn kết
và liên minh chiến đấu với giai cấp vơ sản thế giới, trong đó có giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động chính quốc. Ngƣời cho rằng: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có
một mối tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản” [2; tr.266].
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua, Nguyễn Ái
Quốc đã “bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III” và “hoàn toàn tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế III” [5; tr.471]. Ngƣời từ chối Quốc tế II vì nó ủng hộ chính sách đế quốc
chủ nghĩa mà bọn tƣ bản thực hiện ở các nƣớc thuộc địa, hoặc nếu có nói quyền tự
quyết thì chỉ đáp ứng cho các dân tộc da trắng, lờ đi các dân tộc da đen hoặc chỉ nói
quyền tự trị văn hóa. Nguyễn Ái Quốc đứng về phía Quốc tế III vì nó giải quyết hợp lý
vấn đề giai cấp và dân tộc, không chỉ quan tâm giải phóng nhân dân lao động và vơ sản

chính quốc, mà cịn giải phóng các dân tộc bị áp bức, trong đó có Việt Nam. Giải thích
một cách ngắn gọn lý do ủng hộ Quốc tế III, Ngƣời nói: “Tự do cho đồng bào tơi, độc
lập cho Tổ quốc tơi, đấy là tất cả những gì tơi muốn, đấy là tất cả những gì tơi hiểu”
[7; tr.65].
Dƣới ánh sáng Luận cƣơng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng, tinh thần
yêu nƣớc, tinh thần dân tộc cần phải gắn bó chặt chẽ với tinh thần quốc tế vô sản và
vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam cần phải gắn bó khăng khít với phong trào cách
mạng thế giới. Muốn giành thắng lợi hoàn toàn, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc
phải thực hiện cuộc cách mạng khơng ngừng, phải giữ vững tính độc lập của phong
trào vô sản, thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dƣới sự lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân - có thể liên minh với giai cấp tƣ sản dân tộc và các giai cấp, tầng lớp khác,
nhƣng khơng đƣợc xa rời mục tiêu của mình là thủ tiêu giai cấp. Trong lý luận cũng
nhƣ trong hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn nhấn mạnh mối quan hệ khăng
khít giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc. Ngƣời viết: “Chủ nghĩa
tư bản là một con đỉa, có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái
vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi” [2; tr.298]; đồng thời, kêu gọi giai cấp công
nhân ở các nƣớc phƣơng Tây phải đẩy mạnh việc ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của các nƣớc thuộc địa. Trong những bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản,
Ngƣời nói: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng, hiện nay nọc độc và sức sống của con
rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các
145

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho
quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản

cách mạng” [2; tr.274]. Vì vậy, muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, trƣớc hết cần xóa
bỏ hệ thống thuộc địa của nó. Từ đó, Ngƣời đề xuất luận điểm: “Cách mạng giải phóng
dân tộc cần chủ động và có thể giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
và bằng thắng lợi đó, tác động mạnh mẽ đối với cách mạng ở chính quốc”. Luận điểm
này đƣợc coi là một sáng tạo lớn của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng giải phóng dân
tộc, là sự bổ sung quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ khi trở thành ngƣời cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc
nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa
Mác - Lênin để truyền bá vào nƣớc ta, từng bƣớc chuẩn bị về tƣ tƣởng, chính trị và tổ
chức cho việc thành lập chính Đảng Cộng sản ở Việt Nam
Từ năm 1921 đến tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng sôi nổi ở
nhiều nƣớc: Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Bỉ, Đức, Xiêm. Trong thời gian này,
Ngƣời xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925 và tác phẩm Đường
Kách mệnh năm 1927. Thông qua hai tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc hình thành hệ
thống luận điểm chính trị tuyên truyền về nƣớc (sau này phát triển thành những nội
dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng) nhƣ sau:
Vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là
kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nƣớc thuộc địa...
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là làm cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có
quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa và cách mạng chính quốc có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhƣng không phụ thuộc vào nhau.
Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành cơng trƣớc cách mạng chính quốc, góp
phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Về lực lượng cách mạng: Cách mạng là sự nghiệp chung của quần chúng nhân dân,
chứ không phải việc của một vài ngƣời, công nông là chủ, là gốc của cách mệnh; cịn học

trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ,… là bầu bạn cách mệnh của công nông.

|146


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

Về phương pháp cách mạng: Ngƣời nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ chức
quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng
tâm hiệp lực, làm cách mạng phải biết cách làm, phải có mưu chước…
Về đoàn kết quốc tế: Đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới; phải thực hiện sự liên minh, đoàn kết với các lực lƣợng cách mạng thế giới.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Muốn đƣa cách mạng đến thắng lợi, trước hết phải
có Đảng cách mệnh. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tƣ
tƣởng và vận dụng học thuyết đó vào Việt Nam.
Đường Kách mệnh tạo nên bƣớc ngoặt trong nhận thức về đƣờng lối cách mạng
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và của dân tộc. Điểm mới của cuốn sách so với lý
luận cách mạng trƣớc đó là trình bày một cách hệ thống về đối tƣợng cách mạng, các
loại cách mạng trong lịch sử và điều cần thiết phải làm cách mạng “cho đến nơi” (tức
cách mạng triệt để), về gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thế
giới và điều kiện phải có để bảo đảm cho cách mạng thắng lợi… Nội dung và thực chất
của lý luận cách mạng trong cuốn sách là chƣa từng có ở nƣớc ta. Cuốn sách ra đời nhƣ
là kết quả của hàng loạt thử nghiệm cách mạng trƣớc đó của dân tộc. Lập trƣờng yêu
nƣớc của Nguyễn Ái Quốc đƣợc sự dẫn đƣờng của tƣ tƣởng Lênin trong Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đã giúp Ngƣời tạo ra
một lý luận mới về con đƣờng giải phóng dân tộc Việt Nam - một bƣớc ngoặt thật sự
trong lý luận giải phóng dân tộc.
Có thể khẳng định, những tƣ tƣởng cơ bản trong Luận cương có nhiều điểm phù
hợp với tƣ tƣởng của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự đau xót của Ngƣời trƣớc nỗi

thống khổ của quần chúng lao động khắp thế giới và sự quan tâm đến vấn đề giải
phóng các dân tộc thuộc địa cũng nhƣ tinh thần đoàn kết của quần chúng lao động
trong đấu tranh. Chính những nội dung lớn đó mang lại sự vui mừng, phấn khởi cho
Nguyễn Ái Quốc khi tiếp cận, tiếp thu những tƣ tƣởng cơ bản của Lênin trong Sơ thảo
luận cương. Sau này, Ngƣời đã kể lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng
bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta!”. Từ đó, tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc thế thứ ba” [5; tr.471].
Chính Ngƣời đã viết thƣ bằng tiếng Pháp gửi Quốc tế Cộng sản cho biết, Luận cƣơng
này có ảnh hƣởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan và giúp Ngƣời dứt khoát đi
theo Quốc tế III.
147

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

III. KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc - thuộc địa đã chiếm một vị trí to lớn trong công tác Đại hội II của
Quốc tế Cộng sản. V.I. Lênin đã có vai trị quan trọng trong việc thảo các văn bản về
mục này trong chƣơng trình nghị sự. Ngƣời đã soạn Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa mà về sau Đại hội II thông qua và đƣợc
coi là Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản. Luận cương
có ý nghĩa sâu sắc, to lớn về cả lý luận và thực tiễn đối với phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa và
phụ thuộc. Cũng chính từ bản Luận cương này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy
con đƣờng giải phóng dân tộc đúng đắn cho Việt Nam.
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của

Lênin đã ảnh hƣởng sâu sắc tới nhận thức của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình tìm
đƣờng cứu nƣớc. Qua nghiên cứu Luận cương, Ngƣời đã hoàn toàn tin theo Lênin và
Quốc tế thứ ba. Đồng thời, vận dụng sáng tạo và phát triển Luận cƣơng của Lênin,
khẳng định con đƣờng duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam là đi theo con đƣờng
cách mạng vơ sản. Chính Luận cƣơng của Lênin đã tạo ra bƣớc ngoặt căn bản về chất
trong sự phát triển nhận thức, tƣ tƣởng và lập trƣờng chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai
cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
Ngày nay, sau 100 năm, mặc dù tình hình thế giới có nhiều đổi thay, hầu hết các
nƣớc thuộc địa và phụ thuộc đã giành đƣợc độc lập tự do, chủ nghĩa tƣ bản vẫn đang phát
triển cùng với những điều chỉnh chính sách của nó nhƣng tƣ tƣởng cơ bản trong Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin vẫn
giữ nguyên giá trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
2. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, tập 1 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,.
3. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên) (2003), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
7. Mai Chí Thọ (1985), Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.

|148



×