Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án chi tiết - Đề số 28 | Ngữ văn, Đề thi đại học - Ôn Luyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.8 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỀ SỐ 28</b> <b>BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC</b>
<i>Môn: Ngữ văn</i>


Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề



<b>I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)</b>


<i>Tôi yêu chuyện cổ nước tôi</i>
<i>Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa</i>


<i>Thương người rồi mới thương ta</i>
<i>Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm</i>


<i>ở hiền thì lại gặp hiền</i>


<i>Người ngay thì được Phật, tiên độ trì</i>
<i>Mang theo chuyện cổ tơi đi</i>
<i>Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa</i>


<i>Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa</i>
<i>Con sơng chảy có rặng dừa nghiêng soi</i>


<i>Đời cha ơng với đời tơi</i>
<i>Như con sơng với chân trời đã xa</i>


<i>Chỉ cịn chuyện cổ thiết tha</i>
<i>Cho tơi nhận mặt ơng cha của mình</i>


(Trích Truyện cổ nước mình, Lâm Thị Mĩ Dạ
SGK Tiếng Việt 4, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018)


<b>Câu 1. Phong cách ngơn ngữ và phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên là gì?</b>


<b>Câu 2. Nêu nội dung chính của đoạn thơ?</b>


<b>Câu 3. Hãy liệt kê ít nhất hai câu tục ngữ, ca dao được gợi ra trong đoạn thơ trên. Tại sao tác</b>
giả lại nói: Tơi u chuyện cổ nước tôi/ Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa?


<b>Câu 4. Anh (chị) có đồng tình với quan niệm của tác giả trong hai câu thơ: Chỉ còn chuyện</b>
<i>cổ thiết tha/ Cho tơi nhận mặt ơng cha của mình? Vì sao?</i>


<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm)</b>


<b>Câu 1. (2,0 điểm) Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị)</b>
về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: ở hiền thì lại gặp lành


<b>Câu 2. (5,0 điểm) Cảm nhận về đoạn văn dưới đây:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>sông Hương uốn một nhánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dịng</i>
<i>sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như</i>
<i>sông Xen của Paris, sông Đanp của Buđapet, sơng Hương nằm ngay giữa lịng thành phố</i>
<i>yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ</i>
<i>sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi</i>
<i>khắp phố phường với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm</i>
<i>xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh</i>
<i>hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào cịn nhìn thấy được. Những chi lưu</i>
<i>ấy cùng với hai hịn đảo nhỏ trên sơng đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho</i>
<i>sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ</i>
<i>n tĩnh. Tơi đã đến Leningrad, có lúc đứng nhìn sông Nêva cuốn trôi những đám băng lô xô</i>
<i>nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải</i>
<i>âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và</i>


<i>đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước</i>
<i>cung điện Peterburg cũ để ra bể Bantich. Tơi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu</i>
<i>năm xa Huế, và chính Leningrad đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi</i>
<i>dại; ôi tơi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra</i>
<i>biển. Tôi cuống quýt vẫy tay, nhưng sông Nêva đã chảy nhanh q, khơng kịp cho lũ hải âu</i>
<i>nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trơng theo. Hai nghìn năm trước, có</i>
<i>một người Hi Lạp tên là Hêracơlit, đã khóc suốt đời vì những dịng sơng trôi đi qua nhanh,</i>
<i>thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi; chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó</i>
<i>khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận</i>
<i>được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng</i>
<i>bảy từ điện Hịn Chén trơi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên</i>
<i>mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên:</i>
<i>“Đó chính là Tứ đại cảnh!”.</i>


<i>Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ơm lấy đảo Cồn Hến</i>
<i>quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu</i>
<i>xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại</i>
<i>một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại</i>
<i>thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia</i>
<i>tay dõi xa ngồi mười dặm trường đình. Riêng với sơng Hương, vốn đang xi chảy giữa</i>
<i>cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ</i>
<i>với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tơi gọi đấy là nỗi</i>
<i>vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình u. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình</i>
<i>tự, ở ngã rẽ sơng này, sơng Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời</i>
<i>thề trước khi về biển cả: “Cịn non - còn nước - còn dài. Còn về - cịn nhớ....”. Lời thề ấy</i>
<i>vang vọng khắp lưu vực sơng Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi</i>
<i>Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với q hương xứ sở.</i>



(Trích Ai đã đặt tên cho dịng sơng? – Hồng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, trang 199 – 200 - 201)
<b>HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI</b>


<b>I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)</b>


<b>Câu 1.– Phong cách ngôn ngữ của đoạn thơ trên là phong cách nghệ thuật.</b>
– Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ là phương thức biểu cảm.


<b>Câu 2.– Nội dung chính của đoạn thơ: tình cảm u mến của tác giả đối với truyện cổ dân</b>
gian, cảm nhận thấm thía về bài học làm người ẩn chứa trong những truyện cổ dân gian mà
ông cha ta đã đúc rút, răn dạy.


<b>Câu 3.– Tục ngữ: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Thương người như thể thương thân; Lá</b>
lành đùm lá rách…


– Ca dao: yêu nhau mấy núi cũng leo/ Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua; Dịng
sơng chảy nặng phù sa/ Đưa ta qua những tháng ngày trong mơ…


– Tác giả yêu những câu chuyện cổ vì:


+ Trong mỗi câu chuyện ta sẽ học được một bài học bổ ích.
+ Vun đắp và ni dưỡng trong ta tình yêu thương con người.
+ Nhận thức được những điều hay lẽ phải.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Câu 4. ở câu hỏi này có hai cách trả lời, đồng tình hoặc khơng đồng tình. Dù chọn cách nào</b>
thì HS cũng phải có sự lí giải hợp lí. Dưới đây là một gợi ý:


– Trường hợp một: Truyện cổ dân gian chính là nhịp cầu nối liền bao thế hệ.



– Trường hợp hai: Truyện cổ dân gian kết tinh những vẻ đẹp tình cảm, tư tưởng của
người xưa.


<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm)</b>


<b>Câu 1. (2,0 điểm) HS tham khảo nội dung dưới đây để viết đoạn văn:</b>
<b>1. Mở đoạn</b>


– Cái thiện luôn chiến thắng cái ác, người tốt gặp dữ hóa lành, kẻ ác gieo gió gặt
bão… là những mơ típ quen thuộc trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong các câu
chuyện cổ tích.


– Ẩn sau những câu chuyện đầy màu sắc đó là những triết lí sống, triết lí làm người.
Mối quan hệ nhân – quả ở hiền thì lại gặp lành ln là cái tâm, cái cốt lõi của đa số tác phẩm
văn học và được nhiều người lấy đó là phương châm sống.


2. Giải thích


– Ở hiền là hiền lành, không dữ, không làm điều sai trái, gây hại cho người khác,
mưu lợi cho bản thân…


– Từ “hiền” ở đây mang ý nghĩa lớn lao, bao trùm lên cả ý nghĩa nhân đạo – đạo lí
làm người.


<b>3. Bàn luận và chứng minh</b>


– Có thể nói, “ở hiền” là sống sao có ích cho đất nước, xã hội, biết quan tâm giúp đỡ
người khác lúc khó khăn, hoạn nạn, đồng thời phải biết lên án, đấu tranh chống lại cái ác,
những thế lực xấu xa luôn muốn làm hại con người…



– Vậy “ở hiền” thì sẽ “gặp lành” như thế nào?


+ Người “ở hiền” sẽ nhận được nhiều điều tốt đẹp, may mắn. Khi bạn không làm điều
xấu, hại người bạn sẽ không cảm thấy bất an, tội lỗi, lo lắng mà suy sụp. Không những thế
khi làm việc thiện, giúp đỡ người khác bạn sẽ cảm thấy rất vui vẻ, thoải mái, tự hào…


+ Không chỉ vậy, mọi người xung quanh sẽ yêu quý bạn, giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó
khăn, cuộc sống sẽ ln tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhiều người mà là tất cả mọi người trên đất nước Việt Nam đều quý mến Bác, coi Bác là vị
Cha già kính u.


+ Khơng nói đâu xa, mới mấy tháng gần đây , thơng tin hai thí sinh bỏ thi để cứu
người đã làm cho bao con mắt phải trầm trồ thán phục. Đó là hai học sinh Lữ Đức Quân và
Tăng Ngọc Dũng. Trên đường tới trường thi tốt nghiệp môn Sinh, hai bạn bất ngờ thấy một
phụ nữ đi xe đạp bị ngã lăn ra đường bất tỉnh. Không chần chừ, hai bạn cố gắng hết sức bế
nạn nhân lên chiếc xe đạp và chạy thẳng đến bệnh viện. Sau khi làm thủ tục nhập viện, hai
bạn gắng sức đạp tới trường nhưng bị muộn năm phút nên không được dự thi. Người tốt ắt
gặp điều tốt, ngay sau kỳ thi tốt nghiệp, hai bạn đã được tuyên dương và khen thưởng về
hành động nhân ái của mình. Hai bạn được đặc cách lấy điểm tổng kết môn Sinh học lớp 12
của hai bạn thay cho điểm thi môn tốt nghiệp. Vậy đấy, những người tốt đều được đền đáp
xứng đáng, mối quan hệ nhân – quả: Ở hiền thì lại gặp lành thật khơng có sai.


– Nhưng có phải ai “ở hiền” cũng “gặp lành” khơng?


+ Có rất nhiều người sống và làm việc chuẩn mực, không làm điều gì trái lương tâm
nhưng sao cuộc sống của họ vẫn khó khăn, vẫn gặp nhiều biến cố trắc trở, bị nhiều tai ương
giáng xuống đầu?


+ Số phận không mỉm cười với nhiều đứa trẻ, những sinh linh nhỏ bé, ngây thơ. Nào


là những cô bé, cậu bé mồ côi, không nơi nương tựa, những đứa trẻ tật nguyền hay những em
bé bị di chứng chất độc màu da cam… Những tâm hồn trong sáng ấy có tội tình gì mà số
phận nỡ đối xử với chúng một cách tàn nhẫn đến như vậy. Những đứa bé ấy còn chưa có cơ
hội để “ở hiền” vậy mà đã “gặp dữ” rồi. Những đứa trẻ đó thật đáng thương! Chỉ cần một lần
nhìn thấy những khn mặt ngây thơ đó thôi, tôi đảm bảo các bạn cũng như tôi sẽ khơng cầm
nổi lịng mình và lúc đó, các bạn sẽ khẳng định lại câu nói của cha ơng ta: Ở hiền thì lại gặp
<i>lành là sai, hồn tồn sai!</i>


 Chúng ta có thể thấy rằng khơng phải ai “ở hiền” mà cũng “gặp lành” cả. Câu nói
của cha ơng ta chỉ có phần nào đúng thơi. Nhưng khơng phải vì thế mà ta phủ nhận nó. Qua
câu nói: Ở hiền thì lại gặp lành những người đi trước muốn răn đe, nhắc nhở mọi người phải
sống sao cho tốt, làm cơng dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.


4. Bài học nhận thức và hành động


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

mình, hãy làm những việc có ích để: Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân
tộc ta là một rừng hoa đẹp.


– Có thể nói, câu nói Ở hiền thì lại gặp lành là một câu nói hay, mang nhiều ý nghĩa.
Có thể câu nói có lúc khơng đúng nhưng chúng ta vẫn phải “ở hiền”, làm người tốt, việc tốt,
để xây dựng một đất nước giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc.


– Liên hệ bản thân.
<b>Câu 2. (5,0 điểm)</b>


<b>1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm</b>


– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc
trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa
nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học,


văn hóa, lịch sử, địa lí… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích mê đắm
và tài hoa.


– <i>Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế, năm 1981 in</i>
trong tập sách cùng tên. Với sự tinh tế của một nghệ sĩ, với tình u dịng sơng Hương của xứ
Huế mộng mơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả thành cơng vẻ đẹp dịng sơng Hương.
2. Khái qt sơ lược đoạn trước đó


– Sơng Hương và thượng nguồn – cánh đồng Châu Hóa.


– Đến ngoại ơ Kim Long, dịng sơng khơng cịn mang vẻ trầm mặc, cổ thi nữa mà trở
nên vui tươi hẳn lên vì đã tìm thấy đường về. Đó chính là vẻ đẹp chủ động của cơ gái trong
tình u.


3. Cảm nhận chung về đoạn văn


a. Niềm vui của Hương giang khi tìm đúng đường về thành phố


– <i>Từ đấy, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền</i>
<i>bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây</i>
<i>nam - đơng bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trăng của thành phố in</i>
<i>ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.</i>


– Sông Hương chảy qua lòng thành phố Huế mang tâm trạng của một người thiếu nữ
đang yêu.


– Sự e thẹn, ngượng ngùng khi gặp thành phố Huế đường cong ấy làm cho dịng
<i>sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u</i>


– Vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lòng thành phố Huế và những chi lưu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

– Từ cảm xúc của một người xa xứ lâu năm, nhà văn nói về nỗi nhớ sơng Hương
cùng điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.


– Dịng sơng bỗng lãng mạn hơn bao giờ hết bởi nó gắn liền với sinh hoạt văn hóa
Huế: có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào
<i>những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hịn Chén trơi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như</i>
<i>muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lịng.</i>


b. Sơng Hương gắn liền với âm nhạc cổ điển Huế


– Nhà văn nhân cách hóa Hương giang như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm
<i>khuya và liên tưởng thú vị đến Tứ đại cảnh – một thiên nhạc huyền thoại mở đầu cho nhã</i>
nhạc cung đình Huế.


– Thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh
trên dịng sơng Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu
thơ


<i>Trong như tiếng hạc bay qua</i>
<i>Đục như tiếng suối mới sa nửa vời</i>
mang điệu nhạc cung đình Tứ đại cảnh.


– Sơng Hương chung tình với kinh thành Huế như nàng Kiều một đời chung tình với
Kim Trọng.


c. Sơng Hương rời khỏi kinh thành


– Sông Hương rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc
<i>và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ, rồi nó lại đổi dịng đột ngột gặp lại thành phố</i>


lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói. Phải chăng
khúc lượn này, sơng Hương có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Tác giả
cho rằng đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình u.


– Hồng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm
tình tự, ơng dẫn bng hai câu thơ của Nguyễn Du để nói về sự lưu luyến chí tình với lời thề
trước khi về biển cả. Thật khơng có sự so sánh nào hay hơn khi nói về con sơng mang tình
người, tình son sắt chung thủy của lứa đơi. Cịn non - cịn nước - còn dài. Còn về - còn
<i>nhớ....”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sơng Hương thành giọng hị dân gian.</i> Sâu xa
hơn nữa lời thề ấy là tấm lịng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê
<i>hương xứ sở thân thương.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

– Soi bóng tâm hồn với tình u say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết quê hương
xứ sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời
sống, như tâm hồn con người.


– Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lí, văn hóa nghệ
thuật và những trải nghiệm của bản thân.


– Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử
dụng nhiều phép tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,…


– Có sự kết hợp hài hịa cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan.
<b>4. Nhận xét và đánh giá</b>


– Làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình u đắm say với dịng sơng
được thể hiện bằng tài năng của Hồng Phủ Ngọc Tường


</div>

<!--links-->

×