Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

bai thi 1000 nam thang long ha noi Thi Trung uong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 42 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh</b>
<b>Trờng th đơng phong </b>–<b> n phong </b>–<b> bc ninh</b>


<b>Họ và tên: Nguyễn Hữu Nam</b>


<b>Tuổi : 37 - Giới tính : Nam</b>



<b>Nghề nghiệp : Giáo viên</b>



<b>Nơi công tác : Trờng TH Đông Phong</b>


<b>Yên Phong-Bắc Ninh</b>



<b>Điện thoại: 0984517886</b>


<b>Bài dự thi tìm hiểu</b>


<b>"Thăng long </b><b> hà nội nghìn năm văn hiÕn vµ anh hïng"</b>
<b> **********&**********</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Câu 1</b>: Trong bài “Chiếu dời đơ”, Hồng đế Lý Thái Tổ đã xác định những lợi thế
nào của đất Thăng Long?


a. Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương.
b. Được thế rồng cuộn hổ ngồi.


c. Có núi cao sông dài.


d. Muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.


<b>Thăng Long - Hà Nội: "Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương "</b>


Trong chiếu dời đô hơn 200 từ Hán Việt đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, thể


thiện tầm nghĩ, tầm nhìn vừa sâu, vừa xa, vượt thời đại của một vị vua Đại Việt



thông minh gần một nghìn năm về trước khi ơng chọn Đại La làm kinh đơ mới để


mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh trường kỳ cho sơn hà xã tắc và muôn đời con


cháu mai sau.



Một đoạn văn trong chiếu dời đơ nói rằng: “Ở trung tâm bờ cõi đất nước được


cái thế “Rồng cuộn hổ ngồi”, vị trí ở giữa bốn phương đơng, tây nam bắc, ở đó địa


thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư khơng khổ sở vì ngập


lụt, mn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta - chỗ ấy là hơn cả, thật là


chỗ hội hợp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”.



Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư lên Thăng Long, bắt
đầu khởi cơng xây dựng hồng thành. Vào giai đoạn hưng thịnh của nhà Lý, kinh đô
Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế, văn hóa lớn nhất và
tiêu biểu cho cả nước. Kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử dân tộc ta cũng được
mở ra từ đây.


<i>Chùa một cột</i>


Việc từ Hoa Lư lên Thăng Long đã thể hiện tầm nhìn xa trơng rộng của Nhà Vua Lý Thái
Tổ trong việc xác định xây dựng trung tâm nước Việt.


<b>Thăng Long Thế đất ”Rồng cuộn Hổ ngồi”</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Sơn, Bắc Ninh nay), Thái Tổ Lý Công Uẩn tự tay viết Chiếu dời đô, chọn đất Đại


La làm "nơi thượng đô của kinh sư mn đời".



Đất ấy "ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam Bắc


-Tây - Đơng, tiện hình thế núi sơng sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà


sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh... thực là


chỗ tụ hội của bốn phương...". Bước ngoặt của Đại Việt - thiên đô, được vị vua chí



lớn và un bác quyết đốn sáng suốt với một tầm nhìn chiến lược cả về địa


-chính trị, lẫn về phong thủy

<b>.</b>



Dấu tích kiến trúc thời Lý - Trần ở hố D4 - D6 (khu D).


Con mắt địa - chính trị của vua nhận ra một Đại La là trung tâm của châu thổ


sông Hồng rộng lớn và màu mỡ, dân đông, giỏi nông tang và bách nghệ, cùng là


vật thịnh bậc nhất Đại Việt đương thời; lại là đất văn hiến lâu đời do tiếp nhận và


cải biến hai nền văn minh Hán học và Phật học vào thời ấy. Đất ấy cũng là đầu mối


cả các con đường bộ Bắc - Nam, Đông - Tây, nhất là đường thủy vì nằm bên con


sơng lớn nhất trăm sông trong miền chia nước: sông Cái - sông Hồng. Sông Cái lại


như con hào tự nhiên mênh mang che chở mạn Bắc thành lũy, khi có nạn giặc


ngồi. Rõ là thế đất đế đô của thời mở mang, hưng thịnh dài lâu, khác xa kinh đô


Hoa Lư thế hiểm, nặng về lui giữ của thời mới gây nền tự chủ Đinh - Lê.



Còn như phong thủy của Đại La, mà từ mùa thu 1010 được Lý Thái Tổ đặt tên


mới: Thăng Long, thì trong văn Chiếu, vua nói về cái thế đất "Rồng cuộn hổ ngồi",


có "hình thế núi sơng sau trước", "tụ hội (khí) của bốn phương", nên đã thấy hiển


nhiên "muôn vật phồn thịnh".



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

của họ Cao phải bại, cũng như mọi thế lực bên ngồi khơng thế nào khuất phục.


Hẳn do cái hồn cốt của chuyện cao xa sảng khoái quá, nên nhiều khả năng là khám


phá về phong thủy Thăng Long của các thế hệ người Việt kế tiếp nhau dày dặn mãi


lên, nhưng người ta vẫn nói do Cao Biền dị tìm mà biết, rồi làm tấu bẩm với vua


Đường. Đúng sai thế nào chưa biết chắc, nhưng phong thủy Thăng Long theo như


truyền tụng đến nay thì quả là tuyệt diệu.



Nhìn đại cục, thì một mạch đất cực lớn (đại cán long) khởi từ núi Côn Lôn xứ


Bắc chạy đến nước ta đã chia làm 3 chi lớn, trong đó có tới 27 "ngơi đất kết" (đất


"thăng" khí mạnh từ "long mạch"), có thể phát tới thiên tử, cịn lại là hàng nghìn



ngơi đất lớn nhỏ kết phát nhân kiệt.



Có một diễn ca tương truyền do Cao Biền soạn, bằng chứng là cịn nói đến tên


đất "Giao Châu", vì thế hai chữ "Thăng Long" là để chỉ "khí thăng lên từ long


mạch" - diễn ca nói về thế đất Đại La mà sau đó là kinh đơ Thăng Long của Đại


Việt. Nay Thủ đô Hà Nội ta mở rộng địa giới về phía Tây, thì những "rồng chầu"


(sơng châu tuần), "hổ phục" (núi che chắn) từ ngoại vi xa lại hóa ở gần kề:



"Thăng Long đệ nhất đại huyệt mạch, đế vương quý địa (Huyệt mạch thăng


khí từ long mạch lớn nhất, đất quý phát đế vương).



Giao Châu hữu chi địa, Thăng Long thành tối hùng (Giao Châu có một ngơi


đất như thế, khí thăng từ long mạch hùng mạnh nhất).



Tam hồng dẫn hậu mạch (Ba sông lớn dẫn hậu mạch - đó là sơng Thao, sơng


Lơ, sơng Đà).



Song ngư trĩ tiền phương (Hai con cá dẫn phía trước - hẳn là hai doi đất nổi


trên sông Hồng).



Tản Lĩnh trấn Kiền vị (Núi Tản Lĩnh, tức Ba Vì, trấn tại phương Càn - Tây


Bắc).



Đảo Sơn đương Cấn cung (Núi Tam Đảo giữ phương Cấn - đông Bắc).


Thiên phong hồi Bạch Hổ (Nghìn ngọn núi quay về Bạch Hổ).



Vạn thủy nhiễu Thanh Long (Mn dịng nước từ 3 con sơng Thao, Lơ, Gâm


hội nhau ở Bạch Hạc rồi chảy về bao quanh Thanh Long).



Ngoại thế cực trường viễn (Thế bên ngoài cực rộng dài).



Nội thế tối sung dong (Thế bên trong rất mạnh, đầy).



Tô Giang chiến hậu hữu (Sông Tô Lịch dẫn mạch từ phía sau, bên phải).


Nùng Sơn cư chính cung (núi Nùng đóng chính cung).



Chúng sơn giai củng hướng (Mọi núi non đều hướng đến).



Vạn thủy tận chiều tông (Nơi tận cùng tụ hợp mọi dòng nước từ thượng nguồn


dẫn khí mạch về).



Vị cư cửu trùng nội (Là nơi ở của đế vương).



Ức niên bảo tộ long (Bền vững tới chục vạn năm)”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Với vượng khí Thăng Long, nhà Lý làm chủ xã tắc 216 năm, trải 9 triều vua;


nhà Trần 175 năm, 12 triều vua; nhà Lê cộng thời Lê sơ, Lê trung hưng, Lê mạt


356 năm, 26 triều vua.



Tuy nhiên, trong lẽ thịnh suy xoay vần muôn thuở, dẫu sao "đất" cũng chỉ là


một trong ba ngơi tam tài "Thiên - Địa - Nhân). Có "Thiên thời" - thời vận, thời cơ;


có "Địa lợi" - lợi thế địa lý, phong thủy, tài nguyên, nhưng phải có nhiều "Nhân


kiệt" hết lịng vì dân vì nước mà chèo lái cơ đồ và "Nhân hòa" - thuận lòng dân cả


nước, thì nghiệp lớn mới thành, cơ đồ mới vững, hưng vượng mới bền lâu.



Lại nữa, các triều đại dù thời thịnh hay thời suy (cả thời nhà Nguyễn đóng đô


ở Huế, giáng Thăng Long xuống là "tỉnh thành Hà Nội"), thì tuy trị thủy sơng


Hồng, mở mang phố xá, bồi trúc hay mở rộng thành lũy, xây cất biết bao cung


điện, đền chùa, miếu mạo... cũng kiêng không chạm đến long mạch Thăng Long,


tránh làm phương hại hay biến dị núi non, làm úng ngập phố xá, hay làm ô uế,


nghẽn tắc các dòng sông lạch muôn đời chuyển vận khí từ thượng nguồn về làm



vượng khí đất này. Sơng Tơ Lịch vốn là nhánh sơng Hồng ở phía đơng đơ thành,


chảy qua phía Bắc thành, vịng phía Tây xuống phía Nam rồi lại đổ nước ra sơng


Hồng. Sơng Kim Ngưu là nhánh của Tơ Lịch ở phía Tây, chảy ra sơng Nhuệ. Dịng


nước hai sơng dẫn khí lưu thơng n ả. Hồ Lục Thủy Hồ Gươm thì đến thời Lê


-Trịnh, chúa Trịnh vẫn đến xem duyệt thủy quân, thuyền chiến từ đó theo lạch nước


mà diễn ra bến Đơng tập trận trên sóng sơng Hồng. Trong đô thành lại lắm hồ ao


thiên tạo làm nhuần thêm khí mạch...



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i><b>Tượng đài Lý Thái Tổ</b></i>


Theo truyền thuyết, ông thân sinh ra Lý Công Uẩn nhà nghèo, đi làm thuê nhà


chùa Tiên Sơn đã phải lòng một tiểu nữ, làm nàng có thai. Nhà chùa đuổi đi chỗ


khác. Hai vợ chồng dẫn nhau đến một khu rừng rậm, dừng lại nghỉ chân. Chồng bị


chết đuối khi tìm nước để qua cơn khát, người vợ bất hạnh xin vào nghỉ nhờ chùa


“Ứng Tâm” gần đấy. Đêm hôm trước sư trụ trì nằm mơ thấy Long thần báo mộng.


“Dọn chùa cho sạch, ngày mai có Hồng đế đến”, nhưng chỉ thấy một thiếu phụ có


thai đến ngủ nhờ. Vài tháng sau khu Tam quan của chùa bỗng rực sáng, hương


thơm lan toả. Người thiếu phụ kia sinh được con trai, 2 bàn tay có 4 chữ “sơn hà xã


tắc”, trời nổi gió lớn mưa to, sản phụ chết ngay. Chú bé được nhà sư Vạn Hạnh


đưa về nuôi dưỡng.



Cuối thu năm Kỷ Dậu (1009), khi đang làm quan Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy


sứ, vua Ngoạ triều băng hà, Lý Công Uẩn được Đào Cam Mộc cùng triều thần nhà


Lê tôn lên làm vua, kết thúc triều Lê, mở đầu triều Lý. Vua hạ chiếu đại xá tù


nhân, xoá bỏ ngục tù, kiện tụng được phép đến trực tâu, nhà vua thân hành ngồi xử


kiện.



Lên ngôi báu vừa tròn 9 tháng. Mùa hè năm Canh Tuất (1010) Lý thái Tổ đã hạ
chiếu rời đô từ Hoa Lư ra Đại La kinh phủ.



Sử sách chép rằng: “Lý Thái Tổ lên ngơi tự quốc bình thiên hạ chưa vội làm


việc gì khác, mà trước tiên mưu tính việc đình đơ, xét về sự quyết đốn, sáng suốt,


mưu kế anh hùng, thực những vua tầm thường không thể theo kịp”.



Theo suy tính của Lý Thái Tổ thì kinh đơ Hoa Lư chỉ có thế núi non hiểm trở


thích hợp với yêu cầu phòng ngự lợi hại. Muốn đất nước thịnh vượng phải tìm đến


một nơi mới, để xây dựng kinh đơ trở thành một trung tâm chính trị, văn hố của


một quốc gia độc lập, hùng cường, nơi đó chỉ có thể là thành Đại La.

<b> </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i><b>Hình ảnh Hà Nội xưa và nay</b></i>



Sau hơn 200 năm xây dựng và phát triển, kinh đô Thăng Long thời ấy đã trở


thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hố của quốc gia Đại Việt, một đô thị


phồn vinh, đã bảo vệ vững chắc kinh đô, sơn hà xã tắc, đánh bại nhà Tống trên


sông Như Nguyệt, chiến thằng Chiêm Thành khi đã huy động được sức mạnh toàn


dân vào trận, tạo được thế nước ở đỉnh cao ngàn trượng đè bẹp quân thù, đập tan


mộng tưởng “thơn tính Giao chỉ” như xưa, từ tác động của bài thơ bất hủ của lão


tướng Lý Thường Kiệt động viên:



<i><b>“Nam quốc sơn hà Nam đế cư</b></i>
<i><b>Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư....”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i> <b>Hà Nội xưa và nay</b></i>


Từ đó đến nay, trừ 143 năm triều Nguyễn di đơ vào Huế, 853 năm qua, non


sông đất nước ta dù phải trải qua bao vận hội và thử thách có lúc thăng trầm,


Thăng Long vẫn là kinh đô của triều Trần nhà Hậu Lê, Lê Trung Hưng, nhà


Nguyễn Tây Sơn, đang là Thủ đơ của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam


với tên gọi mới: Thủ đô Hà Nội - một thủ đô anh hùng, 1 thủ đô hồ bình đang


phát triển nhiều ưu thế nội tại để trở thành thủ đô văn minh, hiện đại, xứng đáng



với lòng mong đợi của vua Lý Thái Tổ gần ngàn năm về trước: “Nơi kinh đô bậc


nhất của đế vương mn đời”.



<b> Câu 2</b>: Tịa thành cổ nhất trên đất Thủ đơ là tịa thành nào?
a. Thành Đại La.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i> Cổ Loa thành cổ và truyền thuyết</i>Nhắc đến Cổ Loa, người ta
nghĩ ngay đến truyền thuyết về An Dương Vương được thần Kim Quy bày cho cách xây
thành, về chiếc lẫy nỏ thần làm từ móng chân rùa thần và mối tình bi thương Mỵ Châu
-Trọng Thủy. Đằng sau những câu chuyện thiên về tâm linh ấy, thế hệ con cháu còn khám
phá được những giá trị khảo cổ to lớn của Cổ Loa. Đền thờ An Dương Vương.
Khu di tích Cổ Loa cách trung tâm Hà Nội 17km thuộc huyện Đơng Anh, Hà Nội,
có diện tích bảo tồn gần 500ha được coi là địa chỉ văn hóa đặc biệt của thủ đơ và cả nước.
Cổ Loa có hàng loạt di chỉ khảo cổ học đã được phát hiện, phản ánh quá trình phát triển
liên tục của dân tộc ta từ sơ khai qua các thời kỳ đồ đồng, đồ đá và đồ sắt mà đỉnh cao là
văn hóa Đơng Sơn, vẫn được coi là nền văn minh sông Hồng thời kỳ tiền sử của dân tộc


Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đền thờ An Dương Vương còn gọi là đền Thượng đứng trên một quả đồi xưa


có cung thất của vua. Ngay trước đền thờ là một hồ hình bán nguyệt, giữa có giếng


Ngọc. Truyền thuyết cho rằng đó chính là cái giếng mà Trọng Thủy đã tự tử. Nước


này khi đem rửa ngọc trai (vốn được gọi là nước mắt của Mỵ Châu) thì ngọc trai


sáng đẹp lạ thường. Màu nước trong giếng Ngọc quan sát từ xa thấy hơi đỏ ngầu,


nổi bật giữa màu nước hồ trong xanh và cây cối mát mẻ.


Quanh hồ có rất nhiều ghế đá ngồi nghỉ chân dưới các tán cây lớn để tận


hưởng không gian mát mẻ trong lành. Ngay cửa đền có một cặp rồng đá uốn khúc


sinh động với nghệ thuật điêu khắc thời Lê. Bên trong cảnh vật im ắng, cây cối


vườn phía sau xanh tốt. Nhà bia nhỏ với vòm mái cong cong, ẩn dưới những tán


đa. Ở đây có ba bia đá cổ khắc năm 1606. Đền thờ An Dương Vương gồm nhiều



cửa, đi vào khu vực chính là điện thờ vua, nằm phía trong hai bên là thờ hồng hậu



thờ

Mẫu.



Đình Ngự Triều được xây dựng trên nền điện thiết triều cũ, năm 1907 thời


Nguyễn. Dáng vóc vững chãi, bề thế, mái đao vút cong. Tại đây trưng bày nhiều di



tích

khảo

cổ

giá

trị

quan

trọng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Đường ốc quanh quanh tới Cổ thành


Cây đa thiên cổ dáng còn thanh


Hồng hồng mũ ngọc. Người đâu vắng


Lạnh lạnh gươm thần. Đá vẫn xanh


Kẻ Việt người Tần khôn vẹn nghĩa


Khối tình chữ hiếu khó tồn danh


Ơi! Hồn ngọc tĩnh giờ lai láng


Làm khách đang yêu bước chẳng đành.


Ai một lần đến thăm nơi này đều trực tiếp chiêm ngưỡng và chạm vào hòn đá


Mỵ Châu với hi vọng sẽ mang lại sức khỏe niềm vui và may mắn. Khi chạm tay


vào nền đá lóng lánh và hơi lạnh, người ta khơng khỏi chạnh lịng thương nàng Mỵ



Châu

cả

tin.



Có lẽ, cả khu di tích Cổ Loa nói chung và am Mỵ Châu nói riêng khơng chỉ


nổi tiếng bởi kiến trúc cổ, những hiện vật khảo cổ có giá trị mà cịn bởi mối tình bi


thương nổi tiếng Mỵ Châu - Trọng Thủy. Phải chăng vẻ huyền bí của Loa thành


được tăng thêm một phần bởi những truyền thuyết nửa hư nửa thực ấy. Từ am Mỵ


Châu đi sâu vào phía trong cịn có chùa Bảo Sơn với nhiều tượng Phật hết sức sinh



động

với

các

thế,

vẻ

mặt

khác

nhau.




Loa thành là di sản văn hóa, là bằng chứng về sự sáng tạo và trình độ của


người Việt lúc bấy giờ. Đối với người dân nơi đây, ngày nay Cổ Loa vẫn giữ vai


trò quan trọng trong đời sống tinh thần và sinh hoạt văn hóa. Hằng năm, vào ngày


6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến


những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.



<i><b> </b></i>



Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa cịn có một yếu tố khác làm phong


phú thêm tổng thể

<i><b>kiến trúc</b></i>

này. Đó là những gị đất dài họặc trịn được đắp rải rác


giữa các vịng thành hoặc nằm ngồi thành Ngoại. Khơng biết được có bao nhiêu


ụ, lũy như thế, nhưng một số được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông,


Đống Bắn... Các ụ, lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo


đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây cũng là


một điểm đặc biệt của thành Cổ Loa.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

bộ binh. Nhờ ba vịng hào thơng nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ


binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.



<i><b>Về mặt xã hội</b></i>

, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành


Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan


không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần


như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xa hội


có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời

<i><b>Vua Hùng</b></i>

<i>.</i>



<i><b>Về mặt văn hóa</b></i>

, là một tịa thành cổ nhất cịn để lại dấu tích, Cổ Loa trở


thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật


cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào


nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở



ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương


Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng

<i><b>âm lịch</b></i>

<i>,</i>

cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ


trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có cơng xây thành, và nhất là để


ghi ơn

<i><b>An Dương Vương.</b></i>



Hiện nay Cổ Loa là 1 trong 21

<i><b>khu du lịch quốc gia</b></i>

Việt Nam



<b>Câu 3</b>: Ngôi “Làng hai Vua” ở phía Tây Thủ đơ - là quê hương của Bố Cái Đại
Vương Phùng Hưng và Ngô Vương Quyền, tên là gì?


a. Nhị Khê.
b. Thủ Lệ.
c. Hạ Lôi.
d. Đường Lâm.


<b>Làng cổ Đường Lâm</b>


Cách Hà Nội chừng 50 km về phía tây, làng Việt cổ Đường Lâm nằm thu gọn


mình trong cái đường làng quanh co nhỏ bé. Nơi đây thanh bình, êm ả và dường


như được tách biệt khỏi cuộc sống ồn ã của thế giới bên ngồi

.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Đi chừng 100m từ phía cổng làng ta đến thăm đình Mơng phụ. Nơi diễn ra
những cuộc họp quan trọng của làng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Con đường làng ngoằn nghoèo với hai hàng cây xanh mát sẽ dẫn bạn tới
đất hai vua - Làng Cam Thịnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Trong làng có những nhà thờ tổ, nơi thờ dịng họ và ghi gia phả rất cổ kính.


Dù cuộc sống có được nâng cao, nhưng người dân nơi đây vẫn sử dụng đá


ong để xây dựng nhà cửa.


<b>Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (761-802)</b>


<b>Phùng Hưng có tên tự là Cơng Phấn</b>, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã
từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ, đời Đường Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm
quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là <b>Phùng Hạp Khanh - một người</b>
<b>hiền tài đức độ.</b>


Vào nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống trị của triều đình Trường An đã bắt đầu suy
yếu. Chiến tranh giữa "phiên trấn" và "triều đình" - mà đỉnh cao là loạn An Sử - càng làm
cho nhà Đường lụn bại. Uy quyền của bọn tiết độ sứ và đô hộ ngày một tăng, chúng tự ý
trưng thu thuế má. Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc), năm 767 giúp
kinh lược sứ An Nam Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và
(Java) ở Chu Diên, sau đó y được cử làm đơ hộ An Nam. Y ra sức bòn rút của cải của
nhân dân ta, đánh thuế rất nặng. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác
vào năm nào, nhân lịng căm phẫn của nhân dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình nổi
loạn, người hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội) là
Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đơ hộ.


Sử liệu gốc ghi lại về Phùng Hưng khơng nhiều. Chỉ biết, Phùng Hưng xuất thân từ
dịng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đồi gò và
rừng cây rậm rạp, thú vật dữ tợn thường hay lui tới, nên nơi đây tục gọi là Đường Lâm
hay Cam Lâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được
ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật
hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh
(tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất.



Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng Hưng vẫn chưa rõ. Một nguồn dã
sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760) (tức 5-1-761) và chết
ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi. Trong ba anh em, anh cả
Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ơng được sử sách và truyền
thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ơng đánh
được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được
hổ dữ, bằng mưu kế, đem lại bình n cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm
còn lưu truyền về câu chuyện đó.


Phùng Hưng cịn là vị anh hùng đầu tiên trong những người con ưu tú của đất Đường
Lâm. Và Phùng Hưng cũng là người anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm lại thành Tống
Bình (Hà Nội), trị sở của chính quyền đơ hộ lúc đó và xây dựng nền tự chủ trong khoảng
gần chục năm.


Thoạt kỳ thủy, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên
đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành
căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là: Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng
Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem
qn đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.


Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây
đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải,
Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành.
Quân của Cao Chính Bình (khoảng hơn 4 vạn bia Quảng Bá) đem ra chống cự. Cuộc
chiến đấu diễn ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, qn địch chết nhiều, Cao Chính Bình
phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành
trì và vào phủ Đơ hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc trong 7 năm ấy,
sử sách không để lại một nguồn tài liệu nào về ông. Sau khi mất, con trai ông là Phùng An
lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. An nối nghiệp được hai năm thì
chính quyền lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên


dưới 9 năm.


Sử liệu và truyền thuyết dân gian ở vùng Đường Lâm kể lại rằng: Phùng Hưng chết
rồi rất hiển linh, thường hiện hình trong dân gian, giúp dân trong lúc hoạn nạn. Dân làng
cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Tương truyền sau này, Phùng Hưng
còn hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Thấy vậy, Ngô Quyền
cho lập đền thờ quy mô to lớn hơn trước. Sự ngưỡng mộ đối với người anh hùng dân tộc
họ Phùng còn thể hiện ở việc lập đền thờ phụng của nhân dân như ở đình Quảng Bá (Hà
Nội), đình Triều Khúc (Hà Tây), thờ ở lăng Đại áng, Phương Trung, Hoạch An, phủ
Thanh Oai (Hà Tây),v.v.


Hiện nay dấu vết lăng mộ của Phùng Hưng còn lại ở đầu phố Giảng Võ (gần bến xe
Kim Mã), vì khi chết, ông được mai táng ở cạnh phủ Tống Bình, sau đó mới đưa thi hài
về q hương. Để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc, Nhà nước ta đã đặt tên phố Phùng
Hưng tại phía cửa Đơng của thủ đô Hà Nội


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Năm 920, Ngô Quyền đi theo Dương Đình Nghệ, một tướng của họ Khúc ở


đất

<b>Ái Châu (Thanh Hóa).</b>

Dương Đình Nghệ là anh hùng dân tộc từng có cơng


đánh đuổi giặc Nam Hán, chiếm được thành Đại La năm 931, thúc đẩy bước tiến


của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, tự xưng


Tiết độ sứ, giao cho Ngô Quyền cai quản Châu ái. Yêu mến tài năng và nhiệt huyết


cứu đời, giúp nước của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã gả con gái cho ơng.



Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Cơng Tiễn, một thuộc tướng và là hào


trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Hành động phản trắc của


Kiều Công Tiễn đã gây nên một làn sóng bất bình, căm giận sâu sắc trong mọi tầng


lớp nhân dân. Ngô Quyền trở thành ngọn cờ qui tụ mọi lực lượng yêu nước



Năm 938, trời đang tiết mưa dầm gió bấc. Đồn qn Ngơ Quyền, người


người lớp lớp vượt đèo Ba Dội tiến ra bắc. Quân xâm lược còn đang ngấp nghé



ngồi bờ cõi thì đầu tên phản bội Kiều Cơng Tiễn đã bị bêu ở ngoài cửa thành Đại


La (Hà Nội). Mối họa bên trong đã được trừ khử. Kế sách trước trừ nội phản sau


diệt ngoại xâm đã được thực hiện. Ngô Quyền vào thành, hợp các tướng tá, bàn


rằng: "Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, qn lính mỏi mệt.


Qn ta sức cịn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nếu ta sai người đem


cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của chúng


nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự.



Khơng

kế

hay

hơn

kế

ấy

cả.



</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Phòng) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu, đã tự vũ trang, xin theo Ngô


Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng


Châu (Kim Động, Hải Hưng), người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền, tìm đến


cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng


Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (Ngô Quyền, Hải Phòng)


cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến. Vùng cửa sông và vùng


hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến. Bạch


Đằng ngày ấy cũng như ngày sau vẫn mang "tên nôm" giản dị: Sơng Rừng!



<b>Câu 4</b>: Năm 1010, Hồng đế Lý Thái Tổ đã cho xây Tịa chính điện Càn Ngun
của Kinh đô Thăng Long ở trên cao điểm nào?


a. Núi Cung.
b. Núi Nùng.
c. Núi Khán.
d. Núi Sưa.


<i>Hình ảnh Núi Nùng</i>


Núi Nùng, sông Nhị là những núi sông tiêu biểu của Hà Nội - Thăng Long xưa.


Ca dao Hà Nội xưa có câu:


Dạo xem phong cảnh Long Thành
Đủ mùi đường phố, đủ vành núi sông
Nhị Hà quanh bắc sang đông


Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nùng sơn, Long đỗ đây đây


Tam sơn núi đất cao tầy khán sơn...
(Dạo xem phong cảnh Long Thành)


Vậy núi Nùng ở ngay trong thành cổ Hà Nội. Đại Nam nhất thống chí của nhà
Nguyễn, tập II, trong mục Núi, sơng, có chép: “Núi Nùng ở trong thành, có tên nữa là núi
Long Đỗ. Lý Thái Tổ đóng kinh đơ, dựng chính điện ở trên núi, đời Lê gọi là điện Kính
thiên, bản triều (Nguyễn) đặt làm hành cung, vẫn gọi theo tên cũ, năm Thiệu Trị thứ ba,
đổi gọi là điện Long Thiên, điện Đình ở núi Nùng, có xây bệ cao chín bậc, tả hữu có hai
con rồng, dài hơn một trượng, chế từ đời Lý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Hai con rồng đá hiện nay vẫn cịn. Như vậy, thì núi Nùng cũng khơng cao. Xét tồn bộ
đất Hà Nội - Thăng Long, thì núi ở mạn Tây Bắc, ngay trong hoàng thành, bởi đó là một
nơi địa linh phong thủy tốt, nên mới được dựng làm ngơi điện chính của hồng thành.
Theo các nhà phong thủy (thầy địa lý) thì một ngơi dương cơ, bằng 10 ngôi âm
phần; điện đặt ở chỗ này, trên núi Nùng, chính là chọn được ngơi dương cơ tốt, cho nên
mới trở thành kinh thành của mấy triều đại Lý Trần Lê (kể cả nhà Hồ và nhạc Mạc sau
này)... Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lại được chọn làm Thủ đơ và
bây giờ trở thành thành phố hịa bình, đáng được xếp vào loại một trong những cố đô lâu
đời nhất...


Cái lạ của núi Nùng, còn mang ý nghĩa triết học nữa, đó là có mà như khơng...


khơng mà có... Đi trên nền điện Kính Thiên, tức là đặt chân lên núi Nùng, một danh sơn
của Hà Nội mà ta khơng biết là có núi. Và rõ ràng là đã đứng ngay trên núi mà chỉ thấy
nền điện, hoàng thành...


Đất thiêng, núi thiêng mà khiêm nhường đến thế! Thiết nghĩ, sao kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long, mà Hà Nội khơng dựng lại một điện Kính thiên, theo đúng mẫu của điện
Càn Nguyên đời Lý nhỉ! Từ nay đến ngày kỷ niệm, xem ra vẫn chưa muộn!


Làm được tòa điện ấy, hẳn sẽ làm nức lịng dân chúng Thủ đơ và trong cả nước... Và
nếu như được âm phù, dương trợ, (mà khi có tâm, hẳn sẽ được như thế) thì vượng khí
những năm sau này hẳn dồi dào hơn nữa.


Vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đã là nhà chiến lược tài ba,
lại chọn nơi làm hoàng thành, chọn núi Nùng để dựng điện Càn Nguyên, đều là những
quyết định lớn, rất quan trọng... Những thành quả của những năm dựng nước của nhà Lý,
nhà Trần, nhà Lê, đều khởi nguồn từ thành này, điện này... Bởi đây là nơi địa linh.


Đại Việt sử ký tồn thư của Ngơ Sỹ Liên tập I chép: “Tháng sáu, năm Kỷ Tỵ 1029
rồng hiện ở nền cũ điện Càn Nguyên. Vua Lý Thái Tông bảo các quan hầu rằng: “Trẫm
phá điện ấy, san phẳng nền rồi, mà rồng thần còn hiện, hay là chỗ ấy là đất tốt đức lớn
dấy nghiệp ở chính giữa trời đất chăng?” Bèn sai quan theo quy mô rộng hơn, nhắm hai
phương hướng, làm lại mà đổi tên là điện Thiên An...” (trang 207).


Vậy điện Càn Ngun, cịn có tên là điện Thiên An, được mở rộng hơn, hướng điện
được khảo cứu kỹ lưỡng hơn, sau này trở thành điện Kính Thiên do nhà Lê đổi tên... tọa
lạc trên núi Nùng...


<b>Câu 5</b>: Những cơng trình nào trong “Tứ đại khí” nước Đại Việt thời Lý - Trần đã
được tạo tác ở Thăng Long?



a. Tháp Báo Thiên.
b. Chuông Quy Điền.
c. Tượng Quỳnh Lâm.
d. Vạc Phổ Minh.


<b>Tháp Báo Thiên</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Tháp được xếp vào một trong An Nam tứ đại khí, bốn vật báu của đất nước, mà ba


(kiến trúc điêu khắc) quý giá khác là chùa Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh và chuông


Quy Điền.



<i><b> sửa kiến trúc tháp báo thiên</b></i>



Tháp được xây bằng những hòn gạch hoa khắc những chữ

<i>Lý gia đệ tam đế, </i>


<i>Long thụy Thái Bình [1054-1058], tứ niên tạo</i>

tức là "Đúc trong năm thứ tư niên


hiệu Long thụy Thái Bình đời vua thứ ba triều nhà Lý".



Khu (đất) chùa Báo Thiên trong đó có nền tháp Báo Thiên, cuối năm 1883,


theo yêu cầu của công sứ Bonan, kinh lược Bắc Kỳ là Nguyễn Hữu Độ đã giao cho


Giám mục Puginier phá đi để xây dựng Nhà thờ Thánh Giuse (

<i>Saint Joseph</i>

).



Tháp Báo Thiên (1057) trong bối cảnh lịch sử thăng trầm của đất nước
hay Tháp Báo Thiên và mối liên hệ với quan niệm Trời trong tâm thức dân gian.


Ngôi tháp Báo Thiên là một trong tứ đại khí (bốn vật lớn: tháp Báo Thiên, Tượng Di
lặc, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh) làm thành bảo vật của lịch sử và quốc bảo của dân
tộc.


Tháp Báo Thiên một cơng trình vĩ đại lưu danh thiên cổ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

trên thửa đất cao ráo (gò nổng) và có nhiều tầng để ai dù ở xa cũng phải thấy, phải biết:
tính cách đạo lý phải nêu cao. Ngồi ra đạo lý đó cịn phải được khắc ghi trong tâm khảm
mọi người. Từ vua tới chí dân, phải lấy luật trời Pháp Thiên làm mẫu mực đức độ, làm
ánh sáng chiếu soi: các ngôi Chùa Thiên Đức, Thiên Quang được xây dựng với các tên
gọi có ngữ nghĩa tỏ rõ đức sáng của Trời phải chăng là để nhắc nhỡ dân chúng tề tựu
cúng bái ở chùa chiền noi theo đức độ sáng soi chiếu giọi của Trời. Ngoài ra tên gọi Báo
Thiên của ngọn tháp cao tận trời nầy tự nó nói lên ý thức của việc báo đáp, báo ân, báo
cáo với trời những việc trong nhân gian mà nhà Vua là bậc Thiên tử con trời phải lo chu
tất để thi hành nghĩa vụ của mình. Trời là trên trước cần nhắc nhỡ và kêu gọi nên danh
tánh Trời đã được gọi trong tôn hiệu như Ứng Thiên, Thuận Thiên, Thể Thiên, Phụng
Thiên, Pháp Thiên; trong niên hiệu như Thiên cảm, Thiên Thuận, Thiên Phù, Thiên
Huống, Thiên Thành; trong các ngày sanh nhựt, khánh tiết của vua như Thừa Thiên,
Thiên Thụy, Thiên Thánh; trong việc đặt tên hoàng hậu như Chiếu Thiên, Thiên cảm, Lệ
Thiên; đặt tên con cái vua như điện hạ Khai Thiên, công chúa Thiên Thành, công chúa
Động Thiên, công chúa Thánh Thiên và tất cả những đền chùa cung điện v.v... Tất cả như
đều hàm ngụ ý hướng cao cả hướng thượng quy Thiên này.


Vị trí xây dựng: Tháp có tên đầu tiên là “Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp” dựng kế
bên ngơi chùa có tên là ‘Sùng Khánh Báo Thiên” nên sau được gọi là Tháp Báo Thiên.
Đất Thăng Long nguyên là đồng bằng có nhiều ao hồ sơng rạch và đầm lầy mà nay vẫn
cịn dấu vết. Tìm chổ cao ráo để xây dựng một cơng trình to lớn như chùa và Tháp có tầm
cở bực nhứt như thế, Vua Thánh Tôn phải chọn một qủa đồi gần Bờ Hồ Lục Thủy (hồ
quanh năm có màu lục). Hồ này trước kia lớn, vua có thể tổ chức đua thuyền, tổ chức trò
chơi các dịp lễ lớn, sau vì nhiều cơng trình kiến thiết Thăng Long làm cho hồ thu hẹp dần
diện tích, nay chỉ còn là một hồ nhỏ ta gọi là hồ Hoàn Kiếm.


Vật liệu kiến trúc: Hai vật liệu nặng nhất có thể tìm thấy vào thời này là đá và gạch
nung. Nền tháp bằng đá có 4 góc, tức là theo hình vng có bốn cửa ăn thơng. Gạch xây
trên nền đá đều có khắc ghi chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”: tức
là làm đời vua Lý thứ ba có niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Tường vách trang trí cịn


có những mẩu đá tạc tượng người, tiên, chim muông và các vật dụng như chén bát,
giường ghế ‘không thể kể xiết, toàn bằng đá cả.


Chiều cao và các tầng: Theo Đại Việt sử lược thì tháp cao tới 30 tầng, nhưng nhiều
sách khác cho là 12 tầng với bề cao vài chục trưọng(60-80 m). các tầng trên cùng làm
bằng đồng, vật sản văn minh bản địa. Tầng thứ ba trên cửa tháp có khắc chữ “Thiên tử
vạn thọ” một lời ước chúc Vua sống trường thọ mn tuổi. Trên chót đỉnh tháp có hàng
chữ “Đạo Lý Thiên” để tỏ rõ Đạo Lý của Đấng tối cao chiếu rọi kháp nhân gian thiên hạ.


Vì ở chổ cao
ngất tầng
mây khơng
có gì che
khuất: từ xa
ai cũng
trơng thấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>Chùa Một Cột và chuông Qui Điền </b>


Dịch nôm ra thì đây có nghĩa là “Chng Ruộng Rùa”. Ngun thủy của cái tên
gọi kỳ lạ này là như sau:


Vào mùa xuân năm 1080, vua Lý Nhân Tông cho đúc một quả chuông thật to để
treo tại chùa Diên Hựu (tức Chùa Một Cột - như bây giờ đang gọi) – do ông nội Lý Thái
Tông xây dựng năm 1049- ngồi cửa Tây Cấm Thành Thăng Long. Chng to đến nỗi
phải xây một cái gác chuông cao 8 trượng (20-25m) để treo. Nhưng khi đánh thử, chuông
lại không kêu. Thế là đành phải trục vần chuông ra để ở thửa ruộng cạnh chùa. Ruộng
này ngập nước khiến loài rùa đến làm tổ, ở rất đơng. Do đó, cả ruộng lẫn chng đều có
tên là “Quy Điền”.



Nǎm 1838, tổng đốc Hà Ninh Đặng Vǎn Hồ tổ chức qun góp thập phương sửa
chữa điện đường, hành lang tả hữu, gác chuông và cửa tam quan. Nǎm 1852, bố chính
Tơn Thất Giao xin đúc chuông mới. Nǎm 1864, tổng đốc Tôn Thất Hàm hưng cơng trùng
tu, làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ tồ sen, chạm trổ thêm cơng phu tráng lệ. Nǎm 1954,
trước khi rút khỏi Hà Nội, quân Pháp đã đặt mìn phá đổ chùa. Sau ngày tiếp quản thủ đơ,
Bộ Vǎn Hố đã cho tu sửa chùa Một Cột theo đúng kiểu mẫu cũ để lại từ thời
Nguyễn. Chuông Quy Điền (chuông ruộng rùa), đúc năm 1101 ở chùa Diên Hựu (chùa
Một Cột), Thăng Long. Do quá to, đánh không kêu, mới thả vào ruộng chùa nhiều rùa
nên có tên gọi trên.Khi quân Minh bị bao vây ở Đơng Quan, hết qn khí, Vương Thông
đã cho phá quả chuông này để đúc súng đạn. Sau khi Lê Lợi đem nghĩa quân Lam Sơn
đánh tan quân Minh, đất nước được hưởng nề thái bình thịnh trị, chng Quy Điền cũng
khơng cịn nữa.


<b>Câu 6</b>: Trong khu di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, di sản
nào là của thời Lê?


a. Khuê Văn Các.
b. Đại Bái Đường.
c. Nhà Thái Học.
d. Bia Tiến Sỹ.


<b>Văn Miếu-Quốc Tử Giám</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Nhà Thái học sinh đời Lý - Trần quy mô thế nào, hiện chưa khảo được, vì các tư
liệu lịch sử khơng thấy ghi lại. Thời thuộc Minh, nhiều di tích lịch sử văn hoá bị đốt hoặc
đưa về Yên Kinh, (Bắc Kinh), nhưng Văn Miếu vẫn được người Minh tôn trọng. Năm
Giáp Ngọ (1414) Hoàng Phúc xin với vua nhà Minh cho lập Văn Miếu ở các châu, huyện
trong cả nước.[1]


Năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) Lê Thánh Tông, đã thực hiện một


đợt đại trùng tu, được ghi lại trong <i>Đại Việt sử ký toàn thư</i> như sau: <i>Tháng Giêng, mùa</i>
<i>xuân sửa nhà Thái học ...Đằng trước nhà Thái học dựng Văn Miếu. Khu vũ của Văn</i>
<i>Miếu có điện Đại Thành để thờ Tiên Thánh, Đơng vũ và Tây vũ chia ra thờ các Tiên</i>
<i>hiền, Tiên nho; điện Canh Phục để làm nơi túc yết, Một kho để chứa đồ tế khí và một</i>
<i>phịng để làm nhà bếp; đằng sau nhà Thái học, dựng cửa Thái học, nhà Minh ln.</i>
<i>Giảng đường phía đơng và giảng đường phía tây thì để làm chỗ giảng dạy các học sinh.</i>
<i>Lại đặt thêm kho Bí thư để chứa ván gỗ khắc thành sách; bên đông bên tây nhà Thái học</i>
<i>làm nhà cho học sinh trong ba xá, mỗi bên ba dãy, mỗi dãy 25 gian để làm chỗ nghỉ ngơi</i>
<i>của học sinh</i>


Sách <i>Đại Việt sử ký toàn thư</i> cho biết vào tháng 11 niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 3
(1511) vua Lê Tương Dực: <i>Sai Nguyễn Văn Lang sửa lại điện Sùng Nho ở Quốc Tử</i>
<i>Giám và 2 giải vũ, 6 nhà Minh Luân, phòng bếp, phòng kho, cùng làm mới 2 nhà bia bên</i>
<i>đông bên tây, mỗi gian tả hữu đều để 1 tấm bia</i>[2]


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i>đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá ở phía đơng và phía tây đều ba dãy, mỗi dãy</i>
<i>25 gian, mỗi gian 2 người</i>[3]<sub>. </sub>


Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn.


Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ (đây là sản phẩm


của nhà Hậu Lê)



Hiện nay quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám được chia làm ba khu vực
chính: 1 là <i>Văn hồ</i>, 2 <i>vườn Giám</i> và 3 là khu nội tự <i>Văn Miếu - Quốc Tử Giám</i> đây là khu
chủ thể, bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy
hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung
Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương
thức truyền thống nghệ thuật dân tộc Việt Nam (từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19).


<i>Toàn cảnh Thiên quang tỉnh (nhìn từ gác Khuê Văn), hai bên là hai khu nhà bia, </i>


<i>phía cuối hình là Đại thành mơn dẫn vào không gian thứ ba.</i>


<i>Thiên Quang tỉnh</i>

(tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là

<i>Văn Trì</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<b>Bia Tiến Sĩ</b>


Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên
phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều
quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tịa đình vng, 4 mặt bỏ
trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trơng thẳng xuống giếng. Đây là hai tịa đình thờ
bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật
cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82
tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm
1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên
hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể
các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa,
vậy nếu theo đúng điển lệ triều Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế
nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia
nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại.


Đây là di sản nhiều giá trị nhất của tồn khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà
Nội và vừa được làm hồ sơ đệ trình UNESCO cơng nhận là Di sản ký ức nhân loại. Tất
cả tới nay còn lại được là 82 tấm bia đá đặt trên lưng rùa để “tiến sĩ đề danh” những
người đỗ đạt đại khoa bắt đầu từ khoa thi tiến sĩ năm 1442 đến khoa thi tiến sĩ năm 1779.
Như thế tuyệt đại đa số bia tiến sĩ là thuộc thời Lê, chỉ có 1 bia là nói về khoa thi năm
1529 (thuộc thời Mạc) mà thơi.


<b>Câu 7</b>: Trong khu di Hồng thành Thăng Long có những giá trị nổi bật tồn cầu nào?


a. Có tầng văn hóa khảo cổ học dầy và rộng nhất.


b. Là nơi diễn ra sự giao thoa văn hóa của phương Đơng và thế giới.


c. Là trung tâm chính trị, văn hóa, trung tâm quyền lực quốc gia trong suốt thời kỳ
dài.


d. Liên quan chặt chẽ với những sự kiện quan trọng và các giá trị biểu đạt văn hóa
nghệ thuật của quá trình hình thành và phát triển quốc gia độc lập gần một thiên niên
kỷ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Hoàng Thành là nơi diễn ra sự giao thoa nhiều giá trị nhân văn có ý nghĩa tồn cầu
của phương Đơng và thế giới, biểu thị trong qui hoạch đô thị, tạo dựng cảnh quan, trong
nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc và kỹ thuật xây dựng.


Kinh thành Thăng Long xây dựng bên bờ sông Nhị (sông Hồng) là đầu mối


của các tuyến giao thông thuỷ bộ vừa nối với mọi miền của đất nước, vừa qua sông


Nhị thông với hệ thống hàng hải châu á và thế giới. Trong lịch sử, Thăng Long


-Hà Nội cũng như Khu di tích trung tâm Hồng thành Thăng Long là nơi gặp gỡ và


giao thoa của nhiều nền văn minh phương Đông và thế giới.



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Gạch có hình tháp Phật, Sứ trắng trạm Apsara, Gạch "Ân hoá Thiền tự"</i>


<i> Mảnh tháp trang trí hình tháp</i>, <i>Gạch có hình tháp Phật, Mảnh tháp trang trí hoa sen</i>


<i>Bát, đĩa có hình Rồng năm móng</i>


<i>Quần thể thành Vauban của Pháp</i>


Tầng văn hóa khảo cổ học ở đây dầy tới 3-4m, và có thể phân bố rộng đến hàng


trăm hecta dưới lịng đất. Đó là một di sản vơ cùng q giá, nhưng có thể chưa phải là
tầng văn hóa khảo cổ học dầy và rộng nhất, so với nhiều khu di tích khảo cổ học khác.


Tuy nhiên, dựa vào 6 tiêu chí đánh số từ I đến VI mà tổ chức UNESCO của Liên
Hiệp Quốc nêu ra, như là điều kiện để có thể được cơng nhận là di sản văn hóa (vật thể)
của nhân loại, thì khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – theo hồ sơ khoa học đệ trình
UNESCO - đáp ứng được các tiêu chí sau đây :


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<i><b>- Tiêu chí III</b></i><b>:</b> Là trung tâm chính trị văn hóa, trung tâm quyền lực quốc gia trong
suốt thời kỳ dài, từ đầu thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII.


- Tiêu chí VI: Có liên quan chặt chẽ với những sự kiện quan trọng và các giá trị
biểu đạt văn hóa, nghệ thuật, của một q trình hình thành và phát triển quốc gia độc lập
trong gần một thiên niên kỷ.


<b>Câu 8</b>: Ngày 10 - 10 - 1954, đại quân ta đã tiến vào giải phóng Thủ đơ qua những cửa
ơ nào?


a. Ơ Quan Chưởng.
b. Ô Cầu Giấy.
c. Ô Cầu Dền.
d. Ô Chợ Dừa.


<i>Cửa ô Quan Chưởng xưa và nay</i>


Các cửa ô là di sản văn hóa, kinh tế-xã hội đặc sắc của Thăng Long – Hà Nội. Cho
đến giữa thế kỉ 20, vẫn cịn di tích của hơn 10 cửa ơ. Ngày 10 - 10 - 1954, đại quân ta đã
tiến vào giải phóng Thủ đơ qua 2 cửa ơ:


<i><b> Ơ Cầu Giấy. Cịn có 1 tên gọi khác nữa là ô Thanh Bảo. Nay ở quãng bến xe ô tô</b></i>


Kim Mã (chỗ phố Sơn Tây nối với phố Nguyễn Thái Học) chứ không phải ở chỗ cây Cầu
Giấy bây giờ. Cánh quân tiến vào giải phóng thủ đô của ta từ hướng Tây ngày
10-10-1954 xuất phát từ địa điểm tập kết “Quần Ngựa” (nay là sân vận động Quần Ngựa) diễu
binh qua Kim Mã , Hàng Đẫy (là tên cũ của phố Nguyễn Thái Học). Cửa Nam….. vào
trung tâm thành phố.


<i><b> Ơ Cầu Dền. Vị trí cửa ơ này nay ở chỗ phố Huế nối với phố Bạch Mai. Ngày </b></i>
10-10-1954 cánh quân phía Nam (bộ binh) tiến vào giải phóng thủ đơ của ta xuất phát từ địa
điểm tập kết “Việt Nam học xá” (nay là Phường Bách Khoa) tiến qua Bạch Mai, sang
phố Huế, qua Hồ Gươm, vòng lại tiếp quản khu “ Đồn Thủy” (các bệnh viện 108 và
“Hữu Nghị”), khu Đấu Xảo (Cung văn hóa Hữu Nghị) bây giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

a. Phủ Chủ tịch.


b. Quảng trường Cách mạng Tháng Tám (trước Nhà hát lớn).
c. Quảng trường 1 tháng 5 (trước Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội).
d. Quảng trường Ba Đình.


<i>Tồn cảnh quảng trường cách mạng tháng tám ngày nay và những năm đầu thập niên</i>
<i>90.</i>


<i><b>Quảng trường Cách mạng tháng 8</b>.</i> Là nơi diễn ra các sự kiện trung tâm của
Cách mạng tháng 8 năm 1945. Cũng là nơi mà ngày 17-7-1966 tuổi trẻ Thủ đơ được
Thành đồn Hà Nội - nhận chỉ thị của Thành ủy - tổ chức cuộc mít tinh lớn hưởng ứng
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân sắp tới ngày 20-7(ngày đấu tranh đòi thi
hành hiệp định Giơnevơ, thống nhất đất nước). Cuộc mít tinh bắt đầu từ lúc 7 giờ sáng,
nhưng từ 6 giờ sáng thì Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã cho phát sóng lời kêu gọi
của Bác, trong đó có câu nói bất hủ: “Khơng có gì q hơn Độc lập Tự do”, thể hiện
quyết tâm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn thể dân tộc, và khẳng định chân lý
lịch sử của nhân loại tiến bộ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<b>Câu 10</b>: Trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên khơng” đập tan cuộc tập kích chiến lược
bằng đường khơng của đế quốc Mỹ vào Thủ đô, đã diễn ra vào năm nào?


a. Năm 1968.
b. Năm 1972.
c. Năm 1973.
d. Năm 1975.


<b>Năm 1972</b>



Một trận “Điện Biên Phủ trên không” là cách nói rất hay về sự kiện qn dân Thủ
đơ góp phần chủ yếu vào trận đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng đường không-sử
dụng những loại máy bay tối tân lợi hại nhất của Mỹ - ném bom hủy diệt Hà Nội và các
thành phố khác ở miền Bắc, hòng “gây sức ép buộc Hà Nội phải trở lại bàn đàm phán tại
hội nghị Paris” chịu khuất phục trước thế lực và cuộc chiến tranh phản động của Mỹ như
lời tuyên bố của kẻ xâm lược.


Bằng một chiến dịch kéo dài 12 ngày đêm, quân dân Thủ đô cùng với quân dân
toàn miền Bắc đã đập tan cả sức mạnh lẫn ý chí xâm lược của kẻ địch, lập thành tích lớn
lao bắn rơi 23 máy bay B52, 2 chiếc F111 và nhiều máy bay phản lực khác, trong tổng số
81 máy bay (có 34 chiếc B52 và 5 chiếc F111) của địch bị hạ. Trận đánh này xứng đáng
so sánh với kết quả của trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ năm 1954, kết thúc
cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp (1946-1954).


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>35 năm đã trôi qua nhưng ký ức người Hà Nội và người dân cả </b>


<b>nước vẫn không quên những sự kiện đã xảy ra trong những ngày </b>


<b>cuối năm 1972 ấy. B52 rải thảm Hà Nội, máu rơi, nhà đổ… nhưng lịng</b>


<b>người thì vẫn đứng vững.</b>




Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt


Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam , từ 18/12 đến 30/12 / 1972 . Chiến


dịch này là sự nối tiếp của chiến dịch ném bom Linebacker diễn ra từ tháng 5 đến tháng
10/1972, ngoại trừ điểm khác biệt lớn là các cuộc tấn công bằng máy bay ném bom chiến
lược B52 .


Những gì đã diễn ra tại Hà Nội, Hải Phịng khơng thể nào qn với bất cứ ai đã sống
trong thời kỳ của bom đạn, thời kỳ của công cuộc bảo vệ sự vẹn toàn của đất nước.
Người dân sống ở Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai… hẳn khơng bao giờ qn những
hình ảnh tang thương mà bom đạn của kẻ thù đã gây nên.


Người chết, phố phường tan hoang nhưng trong ý chí sắt đá của người dân Việt
Nam vẫn ngân vang một tiếng nói thiêng liêng: Tổ quốc. Bất cứ thế lực siêu cường nào
cũng đều phải trả giá đắt nếu động đến hai chữ thiêng liêng đó của người Việt ta.


Những bức ảnh tư liệu dưới đây không phải để lặp lại những quá khứ mất mát mà để
nhắc thế hệ trẻ rằng cha ông ta đã sống và hy sinh như thế; rằng phải sống sao cho xứng
đáng với dòng máu con Lạc cháu Hồng đang rực chảy trong huyết quản; rằng người Việt
Nam mỗi khi gặp bạn bè quốc tế đều tự hào dõng dạc: <b>Tôi là người Việt Nam.</b>


<i><b>Ngày ấy...</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i>Hàng ngàn lượt máy bay đã thay nhau trút bom</i> <i>xuống Hà Nội.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<i>“Rồng lửa” SAM trong chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”.</i>
<i> "Điện Biên Phủ trên không".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<i> Nụ cười của cô nữ dân quân bên cạnh xác máy bay kẻ thù.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<i>Trẻ em chơi đùa bên xác chiếc máy bay B52 rơi tại hồ Hữu Tiệp, làng Ngọc Hà, Hà </i>
<i>Nội.</i>


<i>Những di vật chiến thắng của cha ông giờ đã trở nên thân quen với các em.</i>


<i>Bảo tàng Chiến thắng B52 tại Hà Nội.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i>Đài tưởng niệm nạn nhân đã hy sinh trong 12 ngày đêm bão lửa tại phố Khâm Thiên, Hà</i>
<i>Nội.</i>


<b>Câu 11</b>: Cùng với biểu tượng này (kèm ảnh biểu tượng “Người nắm tay nhảy
múa”), vào năm 1999, vì đã có thành tích là thành phố tiêu biểu ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương về quản lý đơ thị, bình đẳng cộng đồng, gìn giữ mơi trường, thúc đẩy văn
hóa giáo dục, đặc biệt là chăm lo cho công dân và thế hệ trẻ, Hà Nội đã được Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) trao tặng danh hiệu nào?


a. Thành phố của những giá trị nhân loại.
b. Thành phố Xanh - Sạch - Đẹp.


c. Thành phố Vì hịa bình.


d. Thành phố Di sản văn hóa thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

<b>Hà Nội kỉ niệm 10 năm được UNESCO trao tặng danh hiệu "Thành phố vì</b>
<b>Hồ bình"</b>


Danh hiệu này chỉ cần tổ chức UNESCO thấy đô thị nào tiêu biểu ở một khu vực,
về mấy phương diện: Quản lý đơ thị, bình đẳng cộng đồng, giữ gìn mơi trường, thúc đẩy
văn hóa giáo dục, chăm lo cho công dân và thế hệ trẻ, là được.



<i><b>-</b></i>

<b> Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội </b>


<b>Nguyễn Thế Thảo nhấn mạnh, danh hiệu ''Thành phố vì Hồ bình'' là sự ghi </b>


<b>nhận của cộng đồng quốc tế đối với Hà Nội. </b>



Sáng 27/10, thành phố Hà Nội và Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam tổ


chức trọng thể lễ kỷ niệm 10 năm Hà Nội được UNESCO trao tặng danh hiệu


"Thành phố vì Hồ bình" tại Nhà hát Lớn.



Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế


Thảo nhấn mạnh, danh hiệu ''Thành phố vì Hồ bình'' là sự ghi nhận của cộng đồng


quốc tế đối với Hà Nội.



Đại Hội đồng UNESCO vừa qua đã thống nhất cao và thông qua việc tham


gia vào tổ chức Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội vào năm 2010 là


niềm vinh dự lớn với thành phố Hà Nội.



Chúng tôi xin gửi tới bạn bè quốc tế thông điệp về một Thủ đô ngàn năm văn hiến, Thành
phố vì Hồ bình, về con người Thăng Long-Hà Nội thanh lịch và tài hoa, một Hà Nội năng động
đang trên đà phát triển; cùng với đất nước và con người Việt Nam, cùng với bạn bè quốc tế, phấn
đấu không ngừng cho một nền hồ bình trường tồn trên trái đất, là nền tảng tốt đẹp và vững chắc
cho sự phát triển, thịnh vượng và hội nhập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo phát biểu tại buổi lễ.


Chia sẻ tình cảm với những người bạn Hà Nội-Việt Nam nhân sự kiện này, Đại sứ
Cộng hoà Cuba tại Việt Nam Fredesman Turro Gonzalez nói: Tơi nhận ra rằng mình đã
sống ở Hà Nội hơn 20 năm và yêu thành phố này như u chính q hương của mình. Hà
Nội đã trở thành một thành phố quan trọng của Đông Nam Á, đã và sẽ đăng cai các sự
kiện quan trọng trong quá trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới, đóng góp
một cách tích cực vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hồ bình thế giới...


Buổi lễ kết thúc bằng chương trình biểu diễn những tiết mục xuất sắc của Liên hoan
Giai điệu hoà bình hữu nghị Hà Nội năm 2009 do Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Hà Nội
tổ chức.


Cách đây tròn 10 năm, ngày 16/7/1999, tại La Paz, thủ đô Bolivia, UNESCO đã tổ
chức trọng thể Lễ trao "Giải thưởng UNESCO-Thành phố vì Hồ bình" năm 1999 cho 5
thành phố thuộc 5 châu lục trên thế giới. Thủ đô Hà Nội là thành phố duy nhất của khu
vực châu Á-Thái Bình Dương vinh dự nhận phần thưởng cao quý này.


Đây là danh hiệu được bạn bè quốc tế tôn vinh, ghi nhận những đóng góp của Hà
Nội trong cuộc đấu tranh vì hồ bình, cũng như trong sự nghiệp phát triển, xây dựng
thành phố phù hợp với những tiêu chí do UNESCO đề ra về bình đẳng trong cộng đồng,
xây dựng đơ thị, giữ gìn mơi trường sống, thúc đẩy phát triển văn hoá giáo dục, chăm lo
giáo dục công dân và thế hệ trẻ.


<b>Câu 12</b>: Hà Nội vinh dự đón nhận danh hiệu “Thủ đơ anh hùng” vào dịp nào?
a. Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội.


b. Kỷ niệm 30 năm trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
c. Kỷ niệm 50 năm giải phóng Thủ đơ.


d. Kỷ niệm 995 năm Thăng Long - Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Những thời điểm nhiều ý nghĩa lịch sử như thế, Hà Nội ln có.


<i><b> Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội. Đó là năm 2000, kết thúc cả Thiên niên</b></i>
kỷ II, mở ra Thiên niên kỷ thứ III. Đúng vào năm này, Thăng Long – Hà Nội, tròn 990
tuổi, chính là dịp diễn tập để chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội, sẽ được tiến hành 10 năm sau đấy. Nhân dịp này, nhiều danh hiệu cao quý đã được


trao tặng cho Thủ đơ, trong đó có danh hiệu mà lời tun dương kèm theo đã nói rõ, là:
“Kết quả của tinh thần lao động, chiến đấu, sáng tạo được kết tinh từ bao đời nay” và :
“Gắn với nhưng thắng lợi trong cuộc kháng chiến, xây dựng và bảo vệ tổ quốc” của Hà
Nội.


<b>Phần II: Câu hỏi tự luận</b>


Bạn viết một bài không quá 1.000 từ (theo thể bình luận, nêu cảm nghĩ, cảm tưởng…)
của bạn về những câu mở đầu trong bài hát “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi: “Đây
hồ Gươm, Hồng hà, hồ Tây/ Đây lắng hồn núi sông ngàn năm…”.


<b> Nguyễn Đình Thi và bài hát “Người Hà Nội”</b>


<i>- </i>Nguyễn Đình Thi là nhà văn hố, văn nghệ lớn. Tên tuổi của ông trùm suốt hơn nửa sau
của thế kỷ XX, với sự hoạt động có hiệu quả ở nhiều lĩnh vực: triết học, văn thơ, kịch ,
nhạc. Ông là một văn nghệ sĩ đa tài, để lại cho đời những thành tựu đáng kể ở cả 2 hoạt
động sáng tác và quản lý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

sáng tác phần lời của 2 ca khúc <i>Nhớ</i> (nhạc Hoàng Vân) và <i>Lá đỏ</i> (nhạc Hoàng Hiệp) đều
rất quen biết với công chúng yêu âm nhạc.


Nguyễn Đình Thi sáng tác <i>Người Hà Nội</i> vào năm 1947. Đó là thời điểm hết sức
khó khăn của nhân dân ta, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa mới được lãnh


tụ Hồ Chí Minh phát động( ngày 19/ 12/ 1946). Chúng ta vẫn gọi đây là giai đoạn phịng


ngự với việc thực hiện vườn khơng nhà trống ở những nơi giặc xâm chiếm để cản bước
tiến của chúng. Tại Thủ đô Hà Nội, chiến luỹ được dựng lên ở nhiều đường phố và những
đội quân cảm tử đã sẵn sàng tất cả cho Tổ Quốc quyết sinh. Cả thủ đơ ngập trong máu
lửa và hừng hực lịng căm thù, sơi sục ý chí quyết chiến quyết thắng. Vậy mà mở đầu bài


hát, nhạc sĩ đã không phản ánh ngay điều đó ( ơng dành biểu hiện ở phần sau của tác
phẩm) mà như người hoạ sĩ phác hoạ một gam màu thật tươi sáng về Thủ đô ngàn năm
văn vật: <i>“Đây Hồ Gươm, Hồng Hà. Hồ Tây. Đây lắng hồn núi sông ngàn năm. Đây</i>
<i>Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội mến yêu…”</i>. Nét nhạc ở phần đầu dàn trải thoáng
đãng, đã được vút lên gieo vào lịng người nghe cái gì đó thật linh thiêng thanh cao với
việc nhắc lại những cái tên của Thủ đơ từng mang trong q khứ. Có thể coi đó như một
khúc trổ, như sự chuẩn bị về tâm ký, cảm xúc cho người nghe để ngay sau đó đón nhận
bức tranh hồnh tráng của Thủ đơ lửa máu: <i>“ Hà Nội cháy khỏi lửa ngập trời. Hà Nội</i>
<i>hồng ầm ầm rung. Hà Nội vùng đứng lên! Sông Hồng reo! Hà Nội vùng đứng lên!”S</i>au
chuỗi âm thanh <i>“Hà Nội mến yêu” </i>kết thúc đoạn trổ như vừa nói gieo vào lịng người
tình cảm tha thiết sắt son là 1 qng 6 được tác giả tạo dựng khá đột ngột theo hướng vút
lên: <i>“ Hà Nội cháy”.</i> Và âm thanh “cháy” lại được ngân dài diễn tả cuộc chiến đấu đã bắt
đầu, giờ quyết liệt đã điểm. Xin tạm thời quên đi những êm đềm, hào hoa của Hà Nội vui
tươi vàng son, với những <i>“ nước Hồ Gươm xanh thắm lịng, bóngTháp Rùa thân mật êm</i>
<i>ấm lịmg”, những “tíu tít gánh gồng đây ô Chợ Dừa, kia ô Cầu Dền”</i>và những<i> “ bồi hồi</i>
<i>chàng trai, những đôi mắt nào…”</i> để bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ theo
hiệu triệu của vị cha già dân tộc.


<i>Người Hà Nội</i> là một bài hát được tác giả viết ở hình thức khá tự do, không tuân thủ
một khuôn mẫu, kiểu, dạng (mo de) nào trong những khúc thức quen thuộc thường quy
định cho thể ca khúc. Có thể coi đó là một trường ca, giống như trường ca <i>Sông Lô</i> của
Văn cao . (Sau này, các nhạc sĩ ít trở lại hình thức ca khúc này, ngoại trừ <i>Bài ca người</i>
<i>thợ mỏ </i>của Hoàng Vân sáng tác những năm 60 của thế kỷ trước). Bài hát của Nguyễn
Đình Thi khơng hồn tồn theo cái tuần tự kết cấu thơng thường mà nhiều người viết
trường ca vẫn làm: Mở đầu là Hà Nội thơ mộng, tiếp theo là khói lửa chiến đấu, rồi kết
thúc là chiến thắng ca khúc khải hoàn. Tất nhiên cái lơ gíc đó là hồn tồn hợp lý. Và trên
đại thể, tác giả <i>Người Hà Nội</i> cũng tuân thủ. Nhưng ông cũng rất sáng tạo khi cho đan
xen trong bài hát của mình những cảnh của quá khứ và hiện tại, những chi tiết hình ảnh
của Thủ đơ n vui và chiến tranh khói lửa. Xử lý này đã đem đến cho người nghe những
xúc cảm phong phú, đa chiều…



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

chiến thắng mà thật đặc biệt. Ở đó có sự hiện diện bằng hình ảnh vị lãnh tụ kính u của
dân tộc, trong đó nổi bật là đơi mắt sáng và mái tóc bạc phơ của Người cùng với một nụ
cười- nụ cười của cả nước non và nụ cười của người cha vĩ đại. Và khép lại một bài hát
dài chỉ còn lại tiếng cười- tiếng cười của ngày về chiến thắng. Tiếng cười vang, rạng rỡ
ấy lại được ngập trong một rừng cờ tạo nên bức tranh hồnh tráng về tầm vóc, tư thế của
Thủ đô Hà Nội- cũng đồng thời là cả dân tộc Việt Nam.


Một lần tiếp xúc với Nguyễn Đình Thi, tơi được ơng cho biết: Mặc dù đã có bài
<i>Diệt phát xít</i> ra đời trước Cách mạng tháng 8/1945 đã rất nổi tiếng nhưng ơng khơng nghĩ
mình là nhạc sĩ mà tự cho mình chỉ là người u thích âm nhạc. Đến năm 1947, với tình
u Hà Nội da diết, ông tràn ngập cảm xúc trước Thủ đơ ngút trời khói lửa, gồng mình
lên bước vào cuộc kháng chiến, ơng muốn vẽ một bức tranh tồncảnh đó, nhưng bằng âm
thanh chứ khơng bằng màu sắc. Ơng viết nhanh đến nỗi không ghi ra giấy kịp cảm xúc
của mình. Những nốt nhạc cứ tn trào trên phím đàn. và đến khi hồn thành, ơng tự thấy
bài hát q dài, rất muốn cắt bớt cô lại cho hàm súc, gọn gàng hơn, nhưng khơng biết cắt
chỗ nào, vì cảm xúc liền mạch thông suốt. Cuối cùng ông đành cứ để như vậy...


Từ khi ra đời đến nay, <i>Người Hà Nội </i>luôn phát huy tác dụng ở mọi thời điểm lịch
sử. Đó là một trong những tác phẩm âm nhạc có giá trị lớn nhất viết về Thủ đô. Hai nét
hào hoa và anh hùng luôn là đặc điểm của Hà Nội, củangười Thủ đô đã được biểu hiện
hài hoà nhuần nhuyễn trong bài hát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42></div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' /> Truyen thong VH-LS 1000 nam Thang Long - Ha Noi
  • 81
  • 447
  • 1
  • ×