Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 42 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh</b>
<b>Trờng th đơng phong </b>–<b> n phong </b>–<b> bc ninh</b>
<b>"Thăng long </b><b> hà nội nghìn năm văn hiÕn vµ anh hïng"</b>
<b> **********&**********</b>
<b>Câu 1</b>: Trong bài “Chiếu dời đơ”, Hồng đế Lý Thái Tổ đã xác định những lợi thế
nào của đất Thăng Long?
a. Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương.
b. Được thế rồng cuộn hổ ngồi.
c. Có núi cao sông dài.
d. Muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.
<b>Thăng Long - Hà Nội: "Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương "</b>
Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư lên Thăng Long, bắt
đầu khởi cơng xây dựng hồng thành. Vào giai đoạn hưng thịnh của nhà Lý, kinh đô
Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế, văn hóa lớn nhất và
tiêu biểu cho cả nước. Kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử dân tộc ta cũng được
mở ra từ đây.
<i>Chùa một cột</i>
Việc từ Hoa Lư lên Thăng Long đã thể hiện tầm nhìn xa trơng rộng của Nhà Vua Lý Thái
Tổ trong việc xác định xây dựng trung tâm nước Việt.
<b>Thăng Long Thế đất ”Rồng cuộn Hổ ngồi”</b>
Dấu tích kiến trúc thời Lý - Trần ở hố D4 - D6 (khu D).
<i><b>Tượng đài Lý Thái Tổ</b></i>
Lên ngôi báu vừa tròn 9 tháng. Mùa hè năm Canh Tuất (1010) Lý thái Tổ đã hạ
chiếu rời đô từ Hoa Lư ra Đại La kinh phủ.
<i><b>“Nam quốc sơn hà Nam đế cư</b></i>
<i><b>Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư....”</b></i>
<i> <b>Hà Nội xưa và nay</b></i>
<b> Câu 2</b>: Tịa thành cổ nhất trên đất Thủ đơ là tịa thành nào?
a. Thành Đại La.
<i> Cổ Loa thành cổ và truyền thuyết</i>Nhắc đến Cổ Loa, người ta
nghĩ ngay đến truyền thuyết về An Dương Vương được thần Kim Quy bày cho cách xây
thành, về chiếc lẫy nỏ thần làm từ móng chân rùa thần và mối tình bi thương Mỵ Châu
-Trọng Thủy. Đằng sau những câu chuyện thiên về tâm linh ấy, thế hệ con cháu còn khám
phá được những giá trị khảo cổ to lớn của Cổ Loa. Đền thờ An Dương Vương.
Khu di tích Cổ Loa cách trung tâm Hà Nội 17km thuộc huyện Đơng Anh, Hà Nội,
có diện tích bảo tồn gần 500ha được coi là địa chỉ văn hóa đặc biệt của thủ đơ và cả nước.
Cổ Loa có hàng loạt di chỉ khảo cổ học đã được phát hiện, phản ánh quá trình phát triển
liên tục của dân tộc ta từ sơ khai qua các thời kỳ đồ đồng, đồ đá và đồ sắt mà đỉnh cao là
văn hóa Đơng Sơn, vẫn được coi là nền văn minh sông Hồng thời kỳ tiền sử của dân tộc
Việt Nam.
<b>Câu 3</b>: Ngôi “Làng hai Vua” ở phía Tây Thủ đơ - là quê hương của Bố Cái Đại
Vương Phùng Hưng và Ngô Vương Quyền, tên là gì?
a. Nhị Khê.
b. Thủ Lệ.
c. Hạ Lôi.
d. Đường Lâm.
<b>Làng cổ Đường Lâm</b>
Đi chừng 100m từ phía cổng làng ta đến thăm đình Mơng phụ. Nơi diễn ra
những cuộc họp quan trọng của làng.
Con đường làng ngoằn nghoèo với hai hàng cây xanh mát sẽ dẫn bạn tới
đất hai vua - Làng Cam Thịnh.
Trong làng có những nhà thờ tổ, nơi thờ dịng họ và ghi gia phả rất cổ kính.
Dù cuộc sống có được nâng cao, nhưng người dân nơi đây vẫn sử dụng đá
<b>Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (761-802)</b>
<b>Phùng Hưng có tên tự là Cơng Phấn</b>, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã
từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ, đời Đường Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm
quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là <b>Phùng Hạp Khanh - một người</b>
<b>hiền tài đức độ.</b>
Vào nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống trị của triều đình Trường An đã bắt đầu suy
yếu. Chiến tranh giữa "phiên trấn" và "triều đình" - mà đỉnh cao là loạn An Sử - càng làm
cho nhà Đường lụn bại. Uy quyền của bọn tiết độ sứ và đô hộ ngày một tăng, chúng tự ý
trưng thu thuế má. Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc), năm 767 giúp
kinh lược sứ An Nam Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và
(Java) ở Chu Diên, sau đó y được cử làm đơ hộ An Nam. Y ra sức bòn rút của cải của
nhân dân ta, đánh thuế rất nặng. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác
vào năm nào, nhân lịng căm phẫn của nhân dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình nổi
loạn, người hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội) là
Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đơ hộ.
Sử liệu gốc ghi lại về Phùng Hưng khơng nhiều. Chỉ biết, Phùng Hưng xuất thân từ
dịng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đồi gò và
rừng cây rậm rạp, thú vật dữ tợn thường hay lui tới, nên nơi đây tục gọi là Đường Lâm
hay Cam Lâm.
Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được
ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật
hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh
(tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất.
Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng Hưng vẫn chưa rõ. Một nguồn dã
sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760) (tức 5-1-761) và chết
ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi. Trong ba anh em, anh cả
Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ơng được sử sách và truyền
thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ơng đánh
được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được
hổ dữ, bằng mưu kế, đem lại bình n cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm
còn lưu truyền về câu chuyện đó.
Phùng Hưng cịn là vị anh hùng đầu tiên trong những người con ưu tú của đất Đường
Lâm. Và Phùng Hưng cũng là người anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm lại thành Tống
Bình (Hà Nội), trị sở của chính quyền đơ hộ lúc đó và xây dựng nền tự chủ trong khoảng
gần chục năm.
Thoạt kỳ thủy, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên
đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành
căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là: Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng
Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem
qn đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây
đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải,
Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành.
Quân của Cao Chính Bình (khoảng hơn 4 vạn bia Quảng Bá) đem ra chống cự. Cuộc
chiến đấu diễn ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, qn địch chết nhiều, Cao Chính Bình
phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành
trì và vào phủ Đơ hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc trong 7 năm ấy,
sử sách không để lại một nguồn tài liệu nào về ông. Sau khi mất, con trai ông là Phùng An
lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. An nối nghiệp được hai năm thì
chính quyền lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên
Sử liệu và truyền thuyết dân gian ở vùng Đường Lâm kể lại rằng: Phùng Hưng chết
rồi rất hiển linh, thường hiện hình trong dân gian, giúp dân trong lúc hoạn nạn. Dân làng
cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Tương truyền sau này, Phùng Hưng
còn hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Thấy vậy, Ngô Quyền
cho lập đền thờ quy mô to lớn hơn trước. Sự ngưỡng mộ đối với người anh hùng dân tộc
họ Phùng còn thể hiện ở việc lập đền thờ phụng của nhân dân như ở đình Quảng Bá (Hà
Nội), đình Triều Khúc (Hà Tây), thờ ở lăng Đại áng, Phương Trung, Hoạch An, phủ
Thanh Oai (Hà Tây),v.v.
Hiện nay dấu vết lăng mộ của Phùng Hưng còn lại ở đầu phố Giảng Võ (gần bến xe
Kim Mã), vì khi chết, ông được mai táng ở cạnh phủ Tống Bình, sau đó mới đưa thi hài
về q hương. Để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc, Nhà nước ta đã đặt tên phố Phùng
Hưng tại phía cửa Đơng của thủ đô Hà Nội
<b>Câu 4</b>: Năm 1010, Hồng đế Lý Thái Tổ đã cho xây Tịa chính điện Càn Ngun
của Kinh đô Thăng Long ở trên cao điểm nào?
a. Núi Cung.
b. Núi Nùng.
c. Núi Khán.
d. Núi Sưa.
<i>Hình ảnh Núi Nùng</i>
Núi Nùng, sông Nhị là những núi sông tiêu biểu của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Dạo xem phong cảnh Long Thành
Đủ mùi đường phố, đủ vành núi sông
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nùng sơn, Long đỗ đây đây
Tam sơn núi đất cao tầy khán sơn...
(Dạo xem phong cảnh Long Thành)
Vậy núi Nùng ở ngay trong thành cổ Hà Nội. Đại Nam nhất thống chí của nhà
Nguyễn, tập II, trong mục Núi, sơng, có chép: “Núi Nùng ở trong thành, có tên nữa là núi
Long Đỗ. Lý Thái Tổ đóng kinh đơ, dựng chính điện ở trên núi, đời Lê gọi là điện Kính
thiên, bản triều (Nguyễn) đặt làm hành cung, vẫn gọi theo tên cũ, năm Thiệu Trị thứ ba,
đổi gọi là điện Long Thiên, điện Đình ở núi Nùng, có xây bệ cao chín bậc, tả hữu có hai
con rồng, dài hơn một trượng, chế từ đời Lý.
Hai con rồng đá hiện nay vẫn cịn. Như vậy, thì núi Nùng cũng khơng cao. Xét tồn bộ
đất Hà Nội - Thăng Long, thì núi ở mạn Tây Bắc, ngay trong hoàng thành, bởi đó là một
nơi địa linh phong thủy tốt, nên mới được dựng làm ngơi điện chính của hồng thành.
Theo các nhà phong thủy (thầy địa lý) thì một ngơi dương cơ, bằng 10 ngôi âm
phần; điện đặt ở chỗ này, trên núi Nùng, chính là chọn được ngơi dương cơ tốt, cho nên
mới trở thành kinh thành của mấy triều đại Lý Trần Lê (kể cả nhà Hồ và nhạc Mạc sau
này)... Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lại được chọn làm Thủ đơ và
bây giờ trở thành thành phố hịa bình, đáng được xếp vào loại một trong những cố đô lâu
đời nhất...
Cái lạ của núi Nùng, còn mang ý nghĩa triết học nữa, đó là có mà như khơng...
Đất thiêng, núi thiêng mà khiêm nhường đến thế! Thiết nghĩ, sao kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long, mà Hà Nội khơng dựng lại một điện Kính thiên, theo đúng mẫu của điện
Càn Nguyên đời Lý nhỉ! Từ nay đến ngày kỷ niệm, xem ra vẫn chưa muộn!
Làm được tòa điện ấy, hẳn sẽ làm nức lịng dân chúng Thủ đơ và trong cả nước... Và
nếu như được âm phù, dương trợ, (mà khi có tâm, hẳn sẽ được như thế) thì vượng khí
những năm sau này hẳn dồi dào hơn nữa.
Vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đã là nhà chiến lược tài ba,
lại chọn nơi làm hoàng thành, chọn núi Nùng để dựng điện Càn Nguyên, đều là những
quyết định lớn, rất quan trọng... Những thành quả của những năm dựng nước của nhà Lý,
nhà Trần, nhà Lê, đều khởi nguồn từ thành này, điện này... Bởi đây là nơi địa linh.
Đại Việt sử ký tồn thư của Ngơ Sỹ Liên tập I chép: “Tháng sáu, năm Kỷ Tỵ 1029
rồng hiện ở nền cũ điện Càn Nguyên. Vua Lý Thái Tông bảo các quan hầu rằng: “Trẫm
phá điện ấy, san phẳng nền rồi, mà rồng thần còn hiện, hay là chỗ ấy là đất tốt đức lớn
dấy nghiệp ở chính giữa trời đất chăng?” Bèn sai quan theo quy mô rộng hơn, nhắm hai
phương hướng, làm lại mà đổi tên là điện Thiên An...” (trang 207).
Vậy điện Càn Ngun, cịn có tên là điện Thiên An, được mở rộng hơn, hướng điện
được khảo cứu kỹ lưỡng hơn, sau này trở thành điện Kính Thiên do nhà Lê đổi tên... tọa
lạc trên núi Nùng...
<b>Câu 5</b>: Những cơng trình nào trong “Tứ đại khí” nước Đại Việt thời Lý - Trần đã
được tạo tác ở Thăng Long?
a. Tháp Báo Thiên.
b. Chuông Quy Điền.
c. Tượng Quỳnh Lâm.
d. Vạc Phổ Minh.
Tháp Báo Thiên (1057) trong bối cảnh lịch sử thăng trầm của đất nước
hay Tháp Báo Thiên và mối liên hệ với quan niệm Trời trong tâm thức dân gian.
Ngôi tháp Báo Thiên là một trong tứ đại khí (bốn vật lớn: tháp Báo Thiên, Tượng Di
lặc, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh) làm thành bảo vật của lịch sử và quốc bảo của dân
tộc.
Tháp Báo Thiên một cơng trình vĩ đại lưu danh thiên cổ.
trên thửa đất cao ráo (gò nổng) và có nhiều tầng để ai dù ở xa cũng phải thấy, phải biết:
tính cách đạo lý phải nêu cao. Ngồi ra đạo lý đó cịn phải được khắc ghi trong tâm khảm
mọi người. Từ vua tới chí dân, phải lấy luật trời Pháp Thiên làm mẫu mực đức độ, làm
ánh sáng chiếu soi: các ngôi Chùa Thiên Đức, Thiên Quang được xây dựng với các tên
gọi có ngữ nghĩa tỏ rõ đức sáng của Trời phải chăng là để nhắc nhỡ dân chúng tề tựu
cúng bái ở chùa chiền noi theo đức độ sáng soi chiếu giọi của Trời. Ngoài ra tên gọi Báo
Thiên của ngọn tháp cao tận trời nầy tự nó nói lên ý thức của việc báo đáp, báo ân, báo
cáo với trời những việc trong nhân gian mà nhà Vua là bậc Thiên tử con trời phải lo chu
tất để thi hành nghĩa vụ của mình. Trời là trên trước cần nhắc nhỡ và kêu gọi nên danh
tánh Trời đã được gọi trong tôn hiệu như Ứng Thiên, Thuận Thiên, Thể Thiên, Phụng
Thiên, Pháp Thiên; trong niên hiệu như Thiên cảm, Thiên Thuận, Thiên Phù, Thiên
Huống, Thiên Thành; trong các ngày sanh nhựt, khánh tiết của vua như Thừa Thiên,
Thiên Thụy, Thiên Thánh; trong việc đặt tên hoàng hậu như Chiếu Thiên, Thiên cảm, Lệ
Thiên; đặt tên con cái vua như điện hạ Khai Thiên, công chúa Thiên Thành, công chúa
Động Thiên, công chúa Thánh Thiên và tất cả những đền chùa cung điện v.v... Tất cả như
đều hàm ngụ ý hướng cao cả hướng thượng quy Thiên này.
Vị trí xây dựng: Tháp có tên đầu tiên là “Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp” dựng kế
bên ngơi chùa có tên là ‘Sùng Khánh Báo Thiên” nên sau được gọi là Tháp Báo Thiên.
Đất Thăng Long nguyên là đồng bằng có nhiều ao hồ sơng rạch và đầm lầy mà nay vẫn
cịn dấu vết. Tìm chổ cao ráo để xây dựng một cơng trình to lớn như chùa và Tháp có tầm
cở bực nhứt như thế, Vua Thánh Tôn phải chọn một qủa đồi gần Bờ Hồ Lục Thủy (hồ
quanh năm có màu lục). Hồ này trước kia lớn, vua có thể tổ chức đua thuyền, tổ chức trò
chơi các dịp lễ lớn, sau vì nhiều cơng trình kiến thiết Thăng Long làm cho hồ thu hẹp dần
diện tích, nay chỉ còn là một hồ nhỏ ta gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Vật liệu kiến trúc: Hai vật liệu nặng nhất có thể tìm thấy vào thời này là đá và gạch
nung. Nền tháp bằng đá có 4 góc, tức là theo hình vng có bốn cửa ăn thơng. Gạch xây
trên nền đá đều có khắc ghi chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”: tức
là làm đời vua Lý thứ ba có niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Tường vách trang trí cịn
Chiều cao và các tầng: Theo Đại Việt sử lược thì tháp cao tới 30 tầng, nhưng nhiều
sách khác cho là 12 tầng với bề cao vài chục trưọng(60-80 m). các tầng trên cùng làm
bằng đồng, vật sản văn minh bản địa. Tầng thứ ba trên cửa tháp có khắc chữ “Thiên tử
vạn thọ” một lời ước chúc Vua sống trường thọ mn tuổi. Trên chót đỉnh tháp có hàng
chữ “Đạo Lý Thiên” để tỏ rõ Đạo Lý của Đấng tối cao chiếu rọi kháp nhân gian thiên hạ.
Vì ở chổ cao
ngất tầng
mây khơng
có gì che
khuất: từ xa
ai cũng
trơng thấy.
<b>Chùa Một Cột và chuông Qui Điền </b>
Dịch nôm ra thì đây có nghĩa là “Chng Ruộng Rùa”. Ngun thủy của cái tên
gọi kỳ lạ này là như sau:
Vào mùa xuân năm 1080, vua Lý Nhân Tông cho đúc một quả chuông thật to để
treo tại chùa Diên Hựu (tức Chùa Một Cột - như bây giờ đang gọi) – do ông nội Lý Thái
Tông xây dựng năm 1049- ngồi cửa Tây Cấm Thành Thăng Long. Chng to đến nỗi
phải xây một cái gác chuông cao 8 trượng (20-25m) để treo. Nhưng khi đánh thử, chuông
lại không kêu. Thế là đành phải trục vần chuông ra để ở thửa ruộng cạnh chùa. Ruộng
này ngập nước khiến loài rùa đến làm tổ, ở rất đơng. Do đó, cả ruộng lẫn chng đều có
tên là “Quy Điền”.
Nǎm 1838, tổng đốc Hà Ninh Đặng Vǎn Hồ tổ chức qun góp thập phương sửa
chữa điện đường, hành lang tả hữu, gác chuông và cửa tam quan. Nǎm 1852, bố chính
Tơn Thất Giao xin đúc chuông mới. Nǎm 1864, tổng đốc Tôn Thất Hàm hưng cơng trùng
tu, làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ tồ sen, chạm trổ thêm cơng phu tráng lệ. Nǎm 1954,
trước khi rút khỏi Hà Nội, quân Pháp đã đặt mìn phá đổ chùa. Sau ngày tiếp quản thủ đơ,
Bộ Vǎn Hố đã cho tu sửa chùa Một Cột theo đúng kiểu mẫu cũ để lại từ thời
Nguyễn. Chuông Quy Điền (chuông ruộng rùa), đúc năm 1101 ở chùa Diên Hựu (chùa
Một Cột), Thăng Long. Do quá to, đánh không kêu, mới thả vào ruộng chùa nhiều rùa
nên có tên gọi trên.Khi quân Minh bị bao vây ở Đơng Quan, hết qn khí, Vương Thông
đã cho phá quả chuông này để đúc súng đạn. Sau khi Lê Lợi đem nghĩa quân Lam Sơn
đánh tan quân Minh, đất nước được hưởng nề thái bình thịnh trị, chng Quy Điền cũng
khơng cịn nữa.
<b>Câu 6</b>: Trong khu di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, di sản
nào là của thời Lê?
a. Khuê Văn Các.
b. Đại Bái Đường.
c. Nhà Thái Học.
d. Bia Tiến Sỹ.
<b>Văn Miếu-Quốc Tử Giám</b>
Nhà Thái học sinh đời Lý - Trần quy mô thế nào, hiện chưa khảo được, vì các tư
liệu lịch sử khơng thấy ghi lại. Thời thuộc Minh, nhiều di tích lịch sử văn hoá bị đốt hoặc
đưa về Yên Kinh, (Bắc Kinh), nhưng Văn Miếu vẫn được người Minh tôn trọng. Năm
Giáp Ngọ (1414) Hoàng Phúc xin với vua nhà Minh cho lập Văn Miếu ở các châu, huyện
trong cả nước.[1]
Năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) Lê Thánh Tông, đã thực hiện một
Sách <i>Đại Việt sử ký toàn thư</i> cho biết vào tháng 11 niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 3
(1511) vua Lê Tương Dực: <i>Sai Nguyễn Văn Lang sửa lại điện Sùng Nho ở Quốc Tử</i>
<i>Giám và 2 giải vũ, 6 nhà Minh Luân, phòng bếp, phòng kho, cùng làm mới 2 nhà bia bên</i>
<i>đông bên tây, mỗi gian tả hữu đều để 1 tấm bia</i>[2]
<i>đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá ở phía đơng và phía tây đều ba dãy, mỗi dãy</i>
<i>25 gian, mỗi gian 2 người</i>[3]<sub>. </sub>
Hiện nay quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám được chia làm ba khu vực
chính: 1 là <i>Văn hồ</i>, 2 <i>vườn Giám</i> và 3 là khu nội tự <i>Văn Miếu - Quốc Tử Giám</i> đây là khu
chủ thể, bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy
hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung
Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương
thức truyền thống nghệ thuật dân tộc Việt Nam (từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19).
<i>Toàn cảnh Thiên quang tỉnh (nhìn từ gác Khuê Văn), hai bên là hai khu nhà bia, </i>
<b>Bia Tiến Sĩ</b>
Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên
phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều
quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tịa đình vng, 4 mặt bỏ
trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trơng thẳng xuống giếng. Đây là hai tịa đình thờ
bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật
cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82
tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm
1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên
hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể
các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa,
vậy nếu theo đúng điển lệ triều Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế
nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia
nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại.
Đây là di sản nhiều giá trị nhất của tồn khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà
Nội và vừa được làm hồ sơ đệ trình UNESCO cơng nhận là Di sản ký ức nhân loại. Tất
cả tới nay còn lại được là 82 tấm bia đá đặt trên lưng rùa để “tiến sĩ đề danh” những
người đỗ đạt đại khoa bắt đầu từ khoa thi tiến sĩ năm 1442 đến khoa thi tiến sĩ năm 1779.
Như thế tuyệt đại đa số bia tiến sĩ là thuộc thời Lê, chỉ có 1 bia là nói về khoa thi năm
1529 (thuộc thời Mạc) mà thơi.
<b>Câu 7</b>: Trong khu di Hồng thành Thăng Long có những giá trị nổi bật tồn cầu nào?
b. Là nơi diễn ra sự giao thoa văn hóa của phương Đơng và thế giới.
c. Là trung tâm chính trị, văn hóa, trung tâm quyền lực quốc gia trong suốt thời kỳ
dài.
d. Liên quan chặt chẽ với những sự kiện quan trọng và các giá trị biểu đạt văn hóa
nghệ thuật của quá trình hình thành và phát triển quốc gia độc lập gần một thiên niên
kỷ.
Hoàng Thành là nơi diễn ra sự giao thoa nhiều giá trị nhân văn có ý nghĩa tồn cầu
của phương Đơng và thế giới, biểu thị trong qui hoạch đô thị, tạo dựng cảnh quan, trong
nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc và kỹ thuật xây dựng.
<i>Gạch có hình tháp Phật, Sứ trắng trạm Apsara, Gạch "Ân hoá Thiền tự"</i>
<i> Mảnh tháp trang trí hình tháp</i>, <i>Gạch có hình tháp Phật, Mảnh tháp trang trí hoa sen</i>
<i>Bát, đĩa có hình Rồng năm móng</i>
<i>Quần thể thành Vauban của Pháp</i>
Tầng văn hóa khảo cổ học ở đây dầy tới 3-4m, và có thể phân bố rộng đến hàng
Tuy nhiên, dựa vào 6 tiêu chí đánh số từ I đến VI mà tổ chức UNESCO của Liên
Hiệp Quốc nêu ra, như là điều kiện để có thể được cơng nhận là di sản văn hóa (vật thể)
của nhân loại, thì khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – theo hồ sơ khoa học đệ trình
UNESCO - đáp ứng được các tiêu chí sau đây :
<i><b>- Tiêu chí III</b></i><b>:</b> Là trung tâm chính trị văn hóa, trung tâm quyền lực quốc gia trong
suốt thời kỳ dài, từ đầu thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII.
- Tiêu chí VI: Có liên quan chặt chẽ với những sự kiện quan trọng và các giá trị
biểu đạt văn hóa, nghệ thuật, của một q trình hình thành và phát triển quốc gia độc lập
trong gần một thiên niên kỷ.
<b>Câu 8</b>: Ngày 10 - 10 - 1954, đại quân ta đã tiến vào giải phóng Thủ đơ qua những cửa
ơ nào?
a. Ơ Quan Chưởng.
b. Ô Cầu Giấy.
c. Ô Cầu Dền.
d. Ô Chợ Dừa.
<i>Cửa ô Quan Chưởng xưa và nay</i>
Các cửa ô là di sản văn hóa, kinh tế-xã hội đặc sắc của Thăng Long – Hà Nội. Cho
đến giữa thế kỉ 20, vẫn cịn di tích của hơn 10 cửa ơ. Ngày 10 - 10 - 1954, đại quân ta đã
tiến vào giải phóng Thủ đơ qua 2 cửa ơ:
<i><b> Ơ Cầu Giấy. Cịn có 1 tên gọi khác nữa là ô Thanh Bảo. Nay ở quãng bến xe ô tô</b></i>
<i><b> Ơ Cầu Dền. Vị trí cửa ơ này nay ở chỗ phố Huế nối với phố Bạch Mai. Ngày </b></i>
10-10-1954 cánh quân phía Nam (bộ binh) tiến vào giải phóng thủ đơ của ta xuất phát từ địa
điểm tập kết “Việt Nam học xá” (nay là Phường Bách Khoa) tiến qua Bạch Mai, sang
phố Huế, qua Hồ Gươm, vòng lại tiếp quản khu “ Đồn Thủy” (các bệnh viện 108 và
“Hữu Nghị”), khu Đấu Xảo (Cung văn hóa Hữu Nghị) bây giờ.
a. Phủ Chủ tịch.
b. Quảng trường Cách mạng Tháng Tám (trước Nhà hát lớn).
c. Quảng trường 1 tháng 5 (trước Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội).
d. Quảng trường Ba Đình.
<i>Tồn cảnh quảng trường cách mạng tháng tám ngày nay và những năm đầu thập niên</i>
<i>90.</i>
<i><b>Quảng trường Cách mạng tháng 8</b>.</i> Là nơi diễn ra các sự kiện trung tâm của
Cách mạng tháng 8 năm 1945. Cũng là nơi mà ngày 17-7-1966 tuổi trẻ Thủ đơ được
Thành đồn Hà Nội - nhận chỉ thị của Thành ủy - tổ chức cuộc mít tinh lớn hưởng ứng
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân sắp tới ngày 20-7(ngày đấu tranh đòi thi
hành hiệp định Giơnevơ, thống nhất đất nước). Cuộc mít tinh bắt đầu từ lúc 7 giờ sáng,
nhưng từ 6 giờ sáng thì Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã cho phát sóng lời kêu gọi
của Bác, trong đó có câu nói bất hủ: “Khơng có gì q hơn Độc lập Tự do”, thể hiện
quyết tâm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn thể dân tộc, và khẳng định chân lý
lịch sử của nhân loại tiến bộ.
<b>Câu 10</b>: Trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên khơng” đập tan cuộc tập kích chiến lược
bằng đường khơng của đế quốc Mỹ vào Thủ đô, đã diễn ra vào năm nào?
a. Năm 1968.
b. Năm 1972.
c. Năm 1973.
d. Năm 1975.
Một trận “Điện Biên Phủ trên không” là cách nói rất hay về sự kiện qn dân Thủ
đơ góp phần chủ yếu vào trận đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng đường không-sử
dụng những loại máy bay tối tân lợi hại nhất của Mỹ - ném bom hủy diệt Hà Nội và các
thành phố khác ở miền Bắc, hòng “gây sức ép buộc Hà Nội phải trở lại bàn đàm phán tại
hội nghị Paris” chịu khuất phục trước thế lực và cuộc chiến tranh phản động của Mỹ như
lời tuyên bố của kẻ xâm lược.
Bằng một chiến dịch kéo dài 12 ngày đêm, quân dân Thủ đô cùng với quân dân
toàn miền Bắc đã đập tan cả sức mạnh lẫn ý chí xâm lược của kẻ địch, lập thành tích lớn
lao bắn rơi 23 máy bay B52, 2 chiếc F111 và nhiều máy bay phản lực khác, trong tổng số
81 máy bay (có 34 chiếc B52 và 5 chiếc F111) của địch bị hạ. Trận đánh này xứng đáng
so sánh với kết quả của trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ năm 1954, kết thúc
cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp (1946-1954).
Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam , từ 18/12 đến 30/12 / 1972 . Chiến
dịch này là sự nối tiếp của chiến dịch ném bom Linebacker diễn ra từ tháng 5 đến tháng
10/1972, ngoại trừ điểm khác biệt lớn là các cuộc tấn công bằng máy bay ném bom chiến
lược B52 .
Những gì đã diễn ra tại Hà Nội, Hải Phịng khơng thể nào qn với bất cứ ai đã sống
trong thời kỳ của bom đạn, thời kỳ của công cuộc bảo vệ sự vẹn toàn của đất nước.
Người dân sống ở Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai… hẳn khơng bao giờ qn những
hình ảnh tang thương mà bom đạn của kẻ thù đã gây nên.
Người chết, phố phường tan hoang nhưng trong ý chí sắt đá của người dân Việt
Nam vẫn ngân vang một tiếng nói thiêng liêng: Tổ quốc. Bất cứ thế lực siêu cường nào
cũng đều phải trả giá đắt nếu động đến hai chữ thiêng liêng đó của người Việt ta.
Những bức ảnh tư liệu dưới đây không phải để lặp lại những quá khứ mất mát mà để
nhắc thế hệ trẻ rằng cha ông ta đã sống và hy sinh như thế; rằng phải sống sao cho xứng
đáng với dòng máu con Lạc cháu Hồng đang rực chảy trong huyết quản; rằng người Việt
Nam mỗi khi gặp bạn bè quốc tế đều tự hào dõng dạc: <b>Tôi là người Việt Nam.</b>
<i><b>Ngày ấy...</b></i>
<i>Hàng ngàn lượt máy bay đã thay nhau trút bom</i> <i>xuống Hà Nội.</i>
<i>“Rồng lửa” SAM trong chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”.</i>
<i> "Điện Biên Phủ trên không".</i>
<i> Nụ cười của cô nữ dân quân bên cạnh xác máy bay kẻ thù.</i>
<i>Trẻ em chơi đùa bên xác chiếc máy bay B52 rơi tại hồ Hữu Tiệp, làng Ngọc Hà, Hà </i>
<i>Nội.</i>
<i>Những di vật chiến thắng của cha ông giờ đã trở nên thân quen với các em.</i>
<i>Bảo tàng Chiến thắng B52 tại Hà Nội.</i>
<i>Đài tưởng niệm nạn nhân đã hy sinh trong 12 ngày đêm bão lửa tại phố Khâm Thiên, Hà</i>
<i>Nội.</i>
<b>Câu 11</b>: Cùng với biểu tượng này (kèm ảnh biểu tượng “Người nắm tay nhảy
múa”), vào năm 1999, vì đã có thành tích là thành phố tiêu biểu ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương về quản lý đơ thị, bình đẳng cộng đồng, gìn giữ mơi trường, thúc đẩy văn
hóa giáo dục, đặc biệt là chăm lo cho công dân và thế hệ trẻ, Hà Nội đã được Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) trao tặng danh hiệu nào?
a. Thành phố của những giá trị nhân loại.
b. Thành phố Xanh - Sạch - Đẹp.
c. Thành phố Vì hịa bình.
d. Thành phố Di sản văn hóa thế giới.
<b>Hà Nội kỉ niệm 10 năm được UNESCO trao tặng danh hiệu "Thành phố vì</b>
<b>Hồ bình"</b>
Danh hiệu này chỉ cần tổ chức UNESCO thấy đô thị nào tiêu biểu ở một khu vực,
về mấy phương diện: Quản lý đơ thị, bình đẳng cộng đồng, giữ gìn mơi trường, thúc đẩy
văn hóa giáo dục, chăm lo cho công dân và thế hệ trẻ, là được.
Buổi lễ kết thúc bằng chương trình biểu diễn những tiết mục xuất sắc của Liên hoan
Giai điệu hoà bình hữu nghị Hà Nội năm 2009 do Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Hà Nội
tổ chức.
Cách đây tròn 10 năm, ngày 16/7/1999, tại La Paz, thủ đô Bolivia, UNESCO đã tổ
chức trọng thể Lễ trao "Giải thưởng UNESCO-Thành phố vì Hồ bình" năm 1999 cho 5
thành phố thuộc 5 châu lục trên thế giới. Thủ đô Hà Nội là thành phố duy nhất của khu
vực châu Á-Thái Bình Dương vinh dự nhận phần thưởng cao quý này.
Đây là danh hiệu được bạn bè quốc tế tôn vinh, ghi nhận những đóng góp của Hà
Nội trong cuộc đấu tranh vì hồ bình, cũng như trong sự nghiệp phát triển, xây dựng
thành phố phù hợp với những tiêu chí do UNESCO đề ra về bình đẳng trong cộng đồng,
xây dựng đơ thị, giữ gìn mơi trường sống, thúc đẩy phát triển văn hoá giáo dục, chăm lo
giáo dục công dân và thế hệ trẻ.
<b>Câu 12</b>: Hà Nội vinh dự đón nhận danh hiệu “Thủ đơ anh hùng” vào dịp nào?
a. Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội.
b. Kỷ niệm 30 năm trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
c. Kỷ niệm 50 năm giải phóng Thủ đơ.
d. Kỷ niệm 995 năm Thăng Long - Hà Nội.
Những thời điểm nhiều ý nghĩa lịch sử như thế, Hà Nội ln có.
<i><b> Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội. Đó là năm 2000, kết thúc cả Thiên niên</b></i>
kỷ II, mở ra Thiên niên kỷ thứ III. Đúng vào năm này, Thăng Long – Hà Nội, tròn 990
tuổi, chính là dịp diễn tập để chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội, sẽ được tiến hành 10 năm sau đấy. Nhân dịp này, nhiều danh hiệu cao quý đã được
<b>Phần II: Câu hỏi tự luận</b>
Bạn viết một bài không quá 1.000 từ (theo thể bình luận, nêu cảm nghĩ, cảm tưởng…)
của bạn về những câu mở đầu trong bài hát “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi: “Đây
hồ Gươm, Hồng hà, hồ Tây/ Đây lắng hồn núi sông ngàn năm…”.
<b> Nguyễn Đình Thi và bài hát “Người Hà Nội”</b>
<i>- </i>Nguyễn Đình Thi là nhà văn hố, văn nghệ lớn. Tên tuổi của ông trùm suốt hơn nửa sau
của thế kỷ XX, với sự hoạt động có hiệu quả ở nhiều lĩnh vực: triết học, văn thơ, kịch ,
nhạc. Ông là một văn nghệ sĩ đa tài, để lại cho đời những thành tựu đáng kể ở cả 2 hoạt
động sáng tác và quản lý.
sáng tác phần lời của 2 ca khúc <i>Nhớ</i> (nhạc Hoàng Vân) và <i>Lá đỏ</i> (nhạc Hoàng Hiệp) đều
rất quen biết với công chúng yêu âm nhạc.
Nguyễn Đình Thi sáng tác <i>Người Hà Nội</i> vào năm 1947. Đó là thời điểm hết sức
khó khăn của nhân dân ta, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa mới được lãnh
tụ Hồ Chí Minh phát động( ngày 19/ 12/ 1946). Chúng ta vẫn gọi đây là giai đoạn phịng
ngự với việc thực hiện vườn khơng nhà trống ở những nơi giặc xâm chiếm để cản bước
tiến của chúng. Tại Thủ đô Hà Nội, chiến luỹ được dựng lên ở nhiều đường phố và những
đội quân cảm tử đã sẵn sàng tất cả cho Tổ Quốc quyết sinh. Cả thủ đơ ngập trong máu
lửa và hừng hực lịng căm thù, sơi sục ý chí quyết chiến quyết thắng. Vậy mà mở đầu bài
<i>Người Hà Nội</i> là một bài hát được tác giả viết ở hình thức khá tự do, không tuân thủ
một khuôn mẫu, kiểu, dạng (mo de) nào trong những khúc thức quen thuộc thường quy
định cho thể ca khúc. Có thể coi đó là một trường ca, giống như trường ca <i>Sông Lô</i> của
Văn cao . (Sau này, các nhạc sĩ ít trở lại hình thức ca khúc này, ngoại trừ <i>Bài ca người</i>
<i>thợ mỏ </i>của Hoàng Vân sáng tác những năm 60 của thế kỷ trước). Bài hát của Nguyễn
Đình Thi khơng hồn tồn theo cái tuần tự kết cấu thơng thường mà nhiều người viết
trường ca vẫn làm: Mở đầu là Hà Nội thơ mộng, tiếp theo là khói lửa chiến đấu, rồi kết
thúc là chiến thắng ca khúc khải hoàn. Tất nhiên cái lơ gíc đó là hồn tồn hợp lý. Và trên
đại thể, tác giả <i>Người Hà Nội</i> cũng tuân thủ. Nhưng ông cũng rất sáng tạo khi cho đan
xen trong bài hát của mình những cảnh của quá khứ và hiện tại, những chi tiết hình ảnh
của Thủ đơ n vui và chiến tranh khói lửa. Xử lý này đã đem đến cho người nghe những
xúc cảm phong phú, đa chiều…
chiến thắng mà thật đặc biệt. Ở đó có sự hiện diện bằng hình ảnh vị lãnh tụ kính u của
dân tộc, trong đó nổi bật là đơi mắt sáng và mái tóc bạc phơ của Người cùng với một nụ
cười- nụ cười của cả nước non và nụ cười của người cha vĩ đại. Và khép lại một bài hát
dài chỉ còn lại tiếng cười- tiếng cười của ngày về chiến thắng. Tiếng cười vang, rạng rỡ
ấy lại được ngập trong một rừng cờ tạo nên bức tranh hồnh tráng về tầm vóc, tư thế của
Thủ đô Hà Nội- cũng đồng thời là cả dân tộc Việt Nam.
Một lần tiếp xúc với Nguyễn Đình Thi, tơi được ơng cho biết: Mặc dù đã có bài
<i>Diệt phát xít</i> ra đời trước Cách mạng tháng 8/1945 đã rất nổi tiếng nhưng ơng khơng nghĩ
mình là nhạc sĩ mà tự cho mình chỉ là người u thích âm nhạc. Đến năm 1947, với tình
u Hà Nội da diết, ông tràn ngập cảm xúc trước Thủ đơ ngút trời khói lửa, gồng mình
lên bước vào cuộc kháng chiến, ơng muốn vẽ một bức tranh tồncảnh đó, nhưng bằng âm
thanh chứ khơng bằng màu sắc. Ơng viết nhanh đến nỗi không ghi ra giấy kịp cảm xúc
của mình. Những nốt nhạc cứ tn trào trên phím đàn. và đến khi hồn thành, ơng tự thấy
bài hát q dài, rất muốn cắt bớt cô lại cho hàm súc, gọn gàng hơn, nhưng khơng biết cắt
chỗ nào, vì cảm xúc liền mạch thông suốt. Cuối cùng ông đành cứ để như vậy...
Từ khi ra đời đến nay, <i>Người Hà Nội </i>luôn phát huy tác dụng ở mọi thời điểm lịch
sử. Đó là một trong những tác phẩm âm nhạc có giá trị lớn nhất viết về Thủ đô. Hai nét
hào hoa và anh hùng luôn là đặc điểm của Hà Nội, củangười Thủ đô đã được biểu hiện
hài hoà nhuần nhuyễn trong bài hát.