Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Kính lúp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.99 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Thủ lĩnh Pu Kom Pô và cuộc khởi binh chống Pháp (1865-1867)</b>


<b>Pu Kom Pô (hay Pucômbô, ? -1867) là tên (theo cách gọi của người Việt) một </b>
<b>nhà sư người Khmer [1], và là thủ lĩnh cuộc kháng Pháp và triều đình </b>


<b>Campuchia thân Pháp, khởi phát từ năm 1865 đến 1867 thì bị đánh dẹp. Trong </b>
<b>trận chiến đấu cuối cùng, ông bị thương nặng và sau đó bị quân Pháp giết </b>
<b>chết vào cuối năm 1867.</b>


Năm 1863, đô đốc Pháp ở Nam Kỳ là Đờ La Grăngđie (Pierre de la Grandière) sang
Uđông để gặp Nơrơđơm I. Sau đó, hai bên đã ký bản hiệp ước thừa nhận sự "bảo
hộ" của Pháp vào ngày 11 tháng 8 năm 1863.


Không chịu sự bảo hộ của ngoại bang, lần lượt các cuộc chống đối đã nổ ra. Đáng
kể là ba cuộc nổi dậy do Xivôtha, Acha Xoa và Pu Kom Pô làm thủ lĩnh.


Tháng 4 năm 1865, Pu Kom Pô tập hợp một số người dân Khmer yêu nước làm
cuộc nổi dậy. Biết tin ấy, viên chủ tỉnh Tây Ninh là Larclause liền tìm cách bắt ơng
đưa về giam ở Sài Gịn.


Tháng 5 năm 1866, ông vượt ngục trở về Tây Ninh tiếp tục hoạt động. Lần này
ngồi số người Khmer đơng đảo, cịn có một số người Chăm, người Stiêng và
người Việt tìm đến tham gia.


<b>Liên kết với thủ lĩnh Trương Quyền</b>


Ngày 7 tháng 6 năm 1866, Pu Kom Pô bàn với thủ lĩnh Trương Quyền (kế tục sự
nghiệp của cha là Trương Định, ông dẫn quân đi xây dựng cơ sở chống Pháp ở
vùng Đồng Tháp Mười-Tây Ninh) cùng hợp quân tiến đánh đồn Tây Ninh, giết chết
chủ tỉnh Larclause, sĩ quan phụ tá Lasage và 11 lính.


Sau khi nhận được tin cấp báo, đơ đốc Đờ La Grăngđie vội phái đại tá Marchaise


đem tàu chiến cùng binh lính lên Tây Ninh. Gần đến nơi, Marchaise cho toán quân
thủy đổ bộ tại Bến Keo, đợi toán thứ hai đi đường bộ do đại úy Fromillet chỉ huy từ
Trảng Bàng lên. Sau khi hợp quân xong, ngày 14 tháng 6 năm 1866, khoảng 150
quân Pháp được trang bị vũ khí đầy đủ cùng 2 khẩu đại bác liền rầm rộ đi tấn công.
Một trận giáp lá cà đã diễn ra tại Rạch Vinh (cách Tây Ninh khoảng 40 km). Cuối
cùng về phía Pháp, đại tá Marchaise và một số lính Pháp bị giết, cịn về phía liên
qn Pu Kom Pơ-Trương Quyền thì khơng rõ.


Thất hai trận này, André Baudrit kể:


<i>Sau trận đánh (đồn Tây Ninh) 9 giờ, có lần quân Pháp liều ra lấy xác, Viên quan ba </i>
<i>Pi-nô kéo qn qua cầu, vừa qua khỏi cầu, thống thấy bó nghĩa qn núp sau cây </i>
<i>thì đâm hoảng, xơ nhau chạy về đồn, chỉ mang được xác Lasage, vì xác này nằm </i>
<i>ngay đầu cầu</i>.[2]


Paulin Vial viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>tấn công ta ngay tại phủ của ta</i> [3].


Để cầm chân quân Pháp, không cho họ kéo lên Tây Ninh, đêm 23 rạng 24 tháng 6
năm 1866, các cánh quân khác của Trương Quyền đã tiến đánh các nơi đó là đồn
Thuận Kiều (Chợ Lớn), đồn Trảng Bàng và vùng quanh Chợ Lớn.


Sau đó, liên qn Pu Kom Pơ-Trương Quyền cịn lần lượt tổ chức các cuộc tấn
cơng khác, đáng kể là:


-Trận Trà Vang (Tây Ninh) ngày 2 tháng 7 năm 1866.


-Các trận Trảng Bàng, Củ Chi, Hóc Môn đồng loạt nổ ra ngày 7 tháng 7 năm 1866.
-Trận Long Trì (thuộc Tân An) ngày 8 tháng 7 năm 1866.



-Trận Bà Vang (Tây Ninh) và trận Bình Thới (Gia Định) xảy ra cùng ngày 13 tháng 7
năm 1866.


Tuy khơng có con số thiệt hại của đơi bên, nhưng theo sử liệu thì:


Liên qn Pu Kom Pơ-Trương Quyền đã làm cho thực dân Pháp ở ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ phải hoang mang lo sợ. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân
Việt-Khmer ngày càng mở rộng từ Sài Gịn đến Uđơng, và từ biên giới Campuchia–Lào
đến vịnh Thái Lan. Nghĩa quân đánh thắng nhiều trận và kiểm soát được một vùng
rộng lớn giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, từ Xvây-riêng


(Campuchia) đến Trảng Bàng (Tây Ninh)[4].


Lúc này, một số nghĩa quân từ các phong trào kháng Pháp đã bị dập tắt hay suy yếu
(như của Thủ Khoa Huân, Acha Xoa, Võ Duy Dương,...) cũng tìm đến tham gia, nên
liên quân Pu Kom Pô-Trương Quyền càng lớn mạnh.


Lo ngại, thực dân Pháp bèn huy động một lực lượng lớn, liên tiếp mở nhiều cuộc
hành quân càn quét vào căn cứ Tây Ninh. Đồng thời, họ còn cho phong tỏa các
nguồn tiếp tế gạo và các nhu yếu phẩm, khiến đời sống của nghĩa quân gặp vô vàn
khó khăn.


<b>Về nước tiếp tục chiến đấu</b>


Trước tình hình trên, khoảng cuối tháng 7 năm 1866, Pu Kom Pô đưa quân về lại
Campuchia để tiếp tục chiến đấu.


Ngày 18 tháng 8 năm 1866, trên đường đi, quân của ông đã đánh tan đồn qn
của triều đình Uđơng, giết chết viên chỉ huy là thượng thư Pak-nam. Tháng 10 năm


đó, ơng lại thắng lớn, làm cho nhà vua Nơrơđơm I phải cho người cầu cứu với Sối
phủ Pháp ở Nam Kỳ.


Khi ấy, triều đình Campuchia cũng nhanh chóng tổ chức một quân gồm hai ngàn
người, rồi đưa đi càn quét quân Pu Kom Pô đang ở tỉnh Baphuông. Hay được, Pu
Kom Pô liền chuyển quân đến nơi khác để bảo toàn lực lượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Cuối tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, tình hình
trở nên bất lợi cho qn Pu Kom Pơ. Bởi vì, trước đây ba tỉnh này vẫn là nơi cung
cấp lương thực và vũ khí cho họ.


Để mau chóng ổn định tình hình tại Campuchia, nhà cầm quyền Pháp đưa Prakeo
Pha (em vua Nôrôđôm I), một người trung thành và đắc lực, lên làm phó vương.
Ngay sau đó, với sự giúp đỡ về trang bị và huấn luyện của người Pháp, Prakeo Pha
cho tuyển mộ và thành lập được một đội qn đơng đến bốn nghìn người, để đi đàn
áp quân nổi dậy.


Ngoài biện pháp trấn áp bằng vũ lực, thực dân Pháp còn dùng cách mua chuộc để
chia rẽ và phá hoại các phong trào chống đối. Cho nên từ giữa năm 1867, quân Pu
Kom Pô yếu hẳn đi. Và sau khi bị thua mấy trận liền, quân Pu Kom Pô phải rút sang
Suối Giây (Tây Ninh), rồi sau đó phải rút lên ẩn náu ở Stung Treng và Xam Bốc, gần
giáp với nước Lào.


Mật thám dò la được báo về, quân Pháp liền rầm rộ kéo đến bao vây. Lập tức, Pu
Kom Pô đốc quân chống trả ác liệt để mở đường tháo lui.


Ngày 28 tháng 7 năm 1867, quân Pháp bất ngờ mở cuộc tấn công vào Suối Giây
(Tây Ninh). Trước vũ khí mạnh của đối phương, Trương Quyền đành phải chia lính
ra từng tốn nhỏ, vừa đánh vừa rút lui về phía sơng Hậu. Dọc đường, Trương
Quyền bị đạn đối phương giết chết [5].



<b>Trận chiến đấu cuối cùng</b>


Công cuộc kháng Pháp của Trương Quyền bị dập tắt, càng làm cho lực lượng Pu
Kom Pô lâm vào thế cô. Cuối tháng 11 năm 1867, Pu Kom Pô cho quân vượt sông
Cửu Long đánh vào Kompong Xoai (nay là tỉnh Kompong Thom) ở phía bắc Biển
Hồ.


Ngày 3 tháng 12 năm 1867, sau một trận kịch chiến với quân Pháp, quân Pu Kom
Pô bị đánh tan tác, cịn ơng thì bị trọng thương và bị bắt giải lên Phnom Pênh. Ngay
đêm đó, trên đường đi, quân Pháp đã giết chết ơng và sau đó cho bêu đầu ơng tại
trung tâm Phnơm Pênh (gần khu hồng cung).


<b>Bùi Thụy Đào Ngun, soạn</b>
<b>Chú thích:</b>


[1] Chép theo nhóm Đinh Xuân Lâm (Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2. NXB Giáo
Dục, 2006, tr. 32) và Lịch sử Campuchia (tr. 194). Hồng Văn Lân-Ngơ Thị Chính (tr.
95) và Nhóm Nhân văn Trẻ (tr. 132) đều ghi Pu Kom Pô là một hoàng thân


Campuchia. Do nạn tranh quyền trong triều đình Uđơng (Oudong, cố đơ của
Campuchia), mà ơng đã lánh sang Nam Lào ở suốt 17 năm.


[2] Theo Les lères années de la Cochinchine, tr. 190. (dẫn lại trong sách Hỏi đáp về
cuộc khởi nghĩa Trương Định. Nhà xuất bản QĐND, 2008. tr. 75).


[3] Dẫn lại theo Trần Văn Giàu, Tổng tập, tr. 155.
[4] Nhóm Nhân văn Trẻ, tr. 132.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chính thì cho rằng ơng bị Pháp th người ám sát năm 1870. Cịn nhóm Nhân văn


Trẻ thì cho rằng ơng bị bệnh mất.


<b>Sách tham khảo chính:</b>


-Trần Văn Giàu, Tổng tập. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2006.


-Phạm Việt Trung-Nguyễn Xuân Kỳ-Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia. Nhà xuất
bản Đại học và Trung học chun nghiệp, 1981.


-Hồng Văn Lân-Ngơ Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858-cuối thế kỷ 19), quyển 3,
tập 1, phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×