Tải bản đầy đủ (.doc) (246 trang)

Văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 246 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ VĂN TÁCH

VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng,
Trường Sĩ quan Lục quân 1)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ VĂN TÁCH

VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng,
Trường Sĩ quan Lục quân 1)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 9229040

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS,TS VĂN ĐỨC THANH


2. PGS,TS LÂM QUỐC TUẤN

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Lê Văn Tách


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM

9

1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị

9


1.2. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

21

1.3. Đánh giá chung và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

28

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ
NGHIÊN CỨU

34

2.1. Lý luận về văn hóa chính trị

34

2.2. Quan niệm về văn hóa chính trị trong nhà trường qn đội

50

2.3. Khái lược về khách thể nghiên cứu

54

Chương 3: THỰC TRẠNG VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ
TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY


66

3.1. Thực trạng các yếu tố cấu thành văn hóa chính trị trong nhà trường

qn đội
3.2. Đặc điểm văn hóa chính trị trong nhà trường qn đội

66
104

Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM

114

4.1. Những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà trường qn đội

114

4.2. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị trong nhà trường qn đội

126

KẾT LUẬN

148

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

165


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQP

:

Bộ Quốc phòng

ĐCSVN

:

Đảng Cộng sản Việt Nam

HVCT

:

Học viện Chính trị


NTQĐ

:

Nhà trường quân đội

QĐND

:

Quân đội nhân dân

QUTW

:

Quân ủy Trung ương

TCN

:

Trước Công nguyên

TSQLQ1

:

Trường Sĩ quan Lục quân 1


VHCT

:

Văn hóa chính trị


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1.

Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của lãnh đạo, chỉ huy

69

Bảng 3.2.

Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của giảng viên

73

Bảng 3.3.

Nhận định về triết lý chính trị của học viên

83

Bảng 3.4.

Nhận định về chuẩn mực, khn mẫu chính trị của học viên


87

Bảng 3.5.

Nhận định về di sản và truyền thống chính trị của học viên

88

Bảng 3.6.

Nhận định về sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả
trong hoạt động thực tiễn của học viên

Bảng 3.7.

Nhận định về sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân của
học viên

Bảng 3.8.
Bảng 3.9.

94
95

Nhận định về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức của
học viên

96


Nhận định về uy tín chính trị và định hướng giá trị của học viên

97


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1.

Đánh giá về phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy

Biểu đồ 3.2.

Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

68

của lãnh đạo, chỉ huy

71

Biểu đồ 3.3.

Đánh giá về phẩm chất chính trị của giảng viên

72

Biểu đồ 3.4.

Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

của giảng viên

75

Biểu đồ 3.5.

Đánh giá về phẩm chất chính trị của học viên

76

Biểu đồ 3.6.

Tỷ lệ nhận định về năng lực tham gia hoạt đơng chính trị
và thái độ chính trị của học viên

Biểu đồ 3.7.

Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị
của học viên

Biểu đồ 3.8.

79

Tỷ lệ nhận định về vai trò sứ mệnh và mục tiêu của thể chế
và thiết chế văn hóa chính trị của học viên

Biểu đồ 3.9.

78


91

Tỷ lệ nhận định về định hướng phát triển các tổ chức trong
nhà trường quân đội gắn với yêu cầu xây dựng quân đội
của học viên

Biểu đồ 3.10.

93

Tỷ lệ nhận định về vai trò của hoạt động giảng dạy và
nghiên cứu khoa học của giảng viên và học viên

100


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Văn hóa có sức mạnh lan tỏa đến mọi phương diện của đời sống, giữ vai trò
nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu đồng thời trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển, tiến bộ của con người. Thế giới quan và phương pháp luận mác xít khẳng
định, trong mối quan hệ với văn hóa, con người vừa là chủ thể nhưng cũng đồng
thời là sản phẩm của văn hóa.
Vớí tính cách là một bộ phận, một phương thức biểu hiện của văn hóa, văn
hóa chính trị (VHCT) là hệ giá trị mang tính nhân văn, tiến bộ, có vai trị quan trọng
trong việc định hướng và điều chỉnh đối với thái độ và hành vi chính trị của một cá

nhân hay một cộng đồng. Văn hóa chính trị giúp chủ thể cũng như thể chế, thiết chế
chính trị giữ được sự ổn định, minh bạch, tránh được nguy cơ tha hóa về chính trị,
đặc biệt là trong điều kiện cầm quyền và thực thi quyền lực.
Thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian vừa qua đã chứng
minh, những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới xuất phát từ việc Đảng ta
nhìn nhận và đánh giá đúng vai trị quan trọng của văn hóa nói chung và VHCT nói
riêng. Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ
thị về văn hóa [38, tr.91], những văn kiện đó đã thể hiện bước tiến nhận thức lý luận
của Đảng về văn hóa. Tuy nhiên, trong văn kiện, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ:
So với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động
có hiệu quả xây dựng con người và mơi trường văn hóa lành mạnh. Tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và
trong xã hội có chiều hướng gia tăng [38, tr.44-45].
Những hạn chế yếu kém đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân quan trọng do nhận thức về VHCT của chủ thể còn hạn chế, chưa theo
kịp yêu cầu của sự phát triển.
Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương hướng: “Xây dựng văn
hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng,
trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” [9, tr.95].


Đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng và phát
triển văn hóa ln được Qn uỷ Trung ương (QUTW) và Bộ Quốc phòng (BQP),
trực tiếp là Tổng cục Chính trị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, từ đó nhận thức về văn hóa
của quân nhân ngày càng được nâng lên; mỗi đơn vị quân đội thực sự là một pháo đài
vững chắc về chính trị, tư tưởng; là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa trong
nhân cách quân nhân, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần đấu tranh ngăn
chặn và đẩy lùi những lây nhiễm độc hại, những phản giá trị và tệ nạn xã hội, xây

dựng tổ chức đảng ln hồn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng đơn vị vững mạnh
toàn diện.
Đối với nhà trường quân đội (NTQĐ) (trong luận án, nghiên cứu sinh sử
dụng cụm từ NTQĐ thay cho nhà trường QĐND Việt Nam để đảm bảo ngắn gọn và
tạo sự thống nhất trong cách gọi tên), nơi đào tạo đội ngũ sĩ quan, những người có
vai trò hết sức quan trọng, kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tương lai, yêu cầu đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và
VHCT nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa mang tính đặc thù của hoạt
động qn sự, vừa mang tính sư phạm, vì vậy ở đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa yêu
cầu phát huy vai trò VHCT, với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
Trong tình hình hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT trong NTQĐ đã và đang
đặt ra những thách thức với những khó khăn, trở ngại: nhận thức của các chủ thể về
văn hóa nói chung và VHCT nói riêng chưa thật đầy đủ, thiếu sâu sắc, chưa thực sự
đi vào chiều sâu bản chất; các giá trị VHCT chưa được phát huy; thực tiễn hoạt
động văn hố và VHCT cịn thiếu sự thống nhất, mang tính hình thức, nhất thời,
khơng có sự gắn kết với tình hình chung của đất nước, quân đội và đặc điểm của
mỗi trường, thậm chí cực đoan, với các biểu hiện: suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống cá nhân chủ nghĩa; quan liêu, tham nhũng; nói nhiều làm ít; biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chất lượng đào tạo của NTQĐ có mặt chưa
thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là nguyên nhân dẫn đến những hệ lụy như: tư tưởng ngại học, ngại rèn, tâm lý
đám đơng, sự vơ cảm, tình trạng bạo lực, quân phiệt gia tăng; những giá trị truyền
thống không được bảo lưu đầy đủ và phát huy; tiếp nhận và phổ biến tràn lan những
hiện tượng núp dưới danh nghĩa cái mới, cái hiện đại một cách thiếu chọn lọc ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội và tác động xấu đến chất
lượng, hiệu quả hoạt động của đơn vị. Thực trạng đó không chỉ tác động tiêu cực


đến đời sống của quân nhân trong NTQĐ mà nghiêm trọng hơn có nguy cơ ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng trong tình mới.

Những khó khăn, thách thức đặt ra ở trên chỉ có thể được giải quyết triệt để
khi chủ thể VHCT trong NTQĐ nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo các quy
luật trong xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và yêu cầu thúc đẩy, nâng cao
VHCT nói riêng phù hợp với mơi trường sư phạm qn sự, nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do vậy, đã đến lúc cần thiết phải có những nghiên cứu cơ bản, có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHCT trong NTQĐ hiện nay.
Xuất phát từ những tiền đề nêu trên, cho phép khẳng định, việc nghiên cứu
một cách cơ bản, có hệ thống Văn hóa chính trị trong nhà trường Qn đội nhân
dân Việt Nam hiện nay dưới góc độ văn hóa học là hướng nghiên cứu mang tính
khả thi, có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, là vấn đề vừa mang tính cấp
thiết vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó
rút ra một số vấn đề về VHCT trong NTQĐ hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến VHCT trong nhà trường

quân đội.
- Làm rõ lý luận về VHCT trong nhà trường quân đội.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng của VHCT trong NTQĐ hiện nay.
- Dự báo những yếu tố tác động, nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT

trong NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHCT trong NTQĐ hiện nay, với tính

cách là một thiết chế văn hóa đặc thù trong mơi trường sư phạm quân sự.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Văn hóa chính trị trong NTQĐ, trong đó chủ

yếu tập trung mơ tả và khảo sát trên các biểu hiện: chủ thể VHCT; thang bậc giá trị
VHCT; thể chế, thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị.


- Phạm vi không gian: luận án lựa chọn khách thể nghiên cứu là NTQĐ,

trong đó tập trung khảo sát và đánh giá ở hai trường điển hình của quân đội về hai
loại hình đào tạo: cán bộ chính trị và cán bộ quân sự, ở hai cấp độ đào tạo là cấp học
viện và cấp trường sĩ quan, đó là: Học viện Chính trị (HVCT) và Trường Sĩ quan Lục
quân 1 (TSQLQ1), trong đó có so sánh với Học viện Phịng khơng - Khơng qn.
- Phạm vi thời gian: số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu khảo được sát

trong giai đoạn từ 2016 - 2019.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận

Luận án được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin; tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) về văn
hóa và con người; về giáo dục, đào tạo và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW
và BQP, Tổng cục Chính trị, các văn bản của NTQĐ để khảo sát, đánh giá làm rõ
bản chất, đặc điểm của VHCT trong NTQĐ hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Xuất phát từ nhận thức, nghiên cứu văn hóa hay văn hóa học là chun ngành
khoa học về văn hóa, mang tính tổng hợp và liên ngành, luận án sử dụng tập hợp các

quan điểm mang tính chất lý luận chuyên ngành văn hóa học và các phương pháp liên
ngành như: triết học văn hóa, xã hội học văn hóa, nhân học, chính trị học, giáo dục
học và tâm lý học. Quá trình vận dụng các phương pháp, luận án sử dụng một cách
linh hoạt, tổng hợp các thao tác chung trong nghiên cứu khoa học như: phân tích tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, mô tả, chứng minh, lý giải để làm rõ những nội dung
nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tài liệu

Phương pháp này nhằm cung cấp những tri thức ban đầu về vấn đề nghiên
cứu, làm nền tảng cho việc xây dựng mục tiêu, phương hướng của đề tài. Đây là
phương pháp được sử dụng xuyên suốt của đề tài từ khi hình thành ý tưởng cho tới
khi hồn thành nghiên cứu. Đồng thời, các thông tin cũng sẽ được sử dụng vào quá
trình thực hiện đề tài nhằm miêu tả, làm rõ thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay,
trên cơ sở đó rút ra những nhận định khoa học nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án.
Các nguồn tài liệu bao gồm các bài viết trong tạp chí, tư liệu từ internet có
liên quan đến VHCT trong NTQĐ hiện nay; các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm,


nhiệm kỳ của NTQĐ, của một số bộ, ngành có liên quan; trong đó tập trung chủ yếu
là các báo cáo tổng kết tại HVCT, TSQLQ1 và Học viện Phòng Không - Không quân.
- Phương pháp quan sát, phỏng vấn và điều tra xã hội học
Phương pháp quan sát là một phương pháp bổ trợ được sử dụng để thu thập
thông tin về đối tượng nghiên cứu thông quan tri giác trực tiếp và ghi chép trung
thực những nhân tố có liên quan đến đối tượng và mục đích nghiên cứu. Trong luận
án, nghiên cứu sinh sử dụng cách thức quan sát công khai và không công khai, quan
sát cơ cấu hóa và quan sát phi cơ cấu hóa để mô tả đối tượng, để kiểm tra giả thuyết
và kiểm tra thông tin từ các phương pháp khác, nhằm làm rõ hơn và bổ sung các
thông tin mà tác giả thu thập được. Nội dung quan sát chủ yếu tập trung vào các
khía cạnh về hoạt động giảng dạy, học tập, các hoạt động định hướng, rèn luyện giá
trị văn hóa cho học viên trong các nhà trường quân đội hiện nay.

Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học
thông qua việc tác động tâm lý - xã hội trực tiếp của người đi hỏi và người được hỏi
nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục đích nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp
này trong nghiên cứu khơng phải để tìm hiểu một cách đại diện về tổng thể mà giúp
nhà nghiên cứu hiểu sâu, hiểu kỹ về vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là một trong những
phương pháp thu thập thông tin quan trọng bởi vì có rất nhiều thơng tin định lượng chỉ
thực sự có ý nghĩa khi những thơng tin đó kết hợp với những thơng tin định tính thu
được từ phỏng vấn sâu.
Nghiên cứu phỏng vấn 30 trường hợp tại hai đơn vị là HVCT và TSQLQ1 trong
đó bao gồm các đối tượng là giảng viên và học viên cung cấp những thông tin phục vụ
cho việc nghiên cứu của luận án. Cụ thể 10 trường hợp đối với học viên, 20 trường hợp
đối với giảng viên, cán bộ quản lý ở hai trường khảo sát nhằm để thu thập những ý kiến
đánh giá của họ về thực trạng định hướng VHCT và tìm ra nguyên nhân ưu, nhược
điểm, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong việc nâng cao VHCT cho các chủ thể.
Thời gian cho một cuộc phỏng vấn tùy thuộc vào từng tiêu chí và đặc điểm đối
tượng được phỏng vấn. Công cụ thu thập thông tin là bản hướng dẫn phỏng vấn sâu đã
được thiết kế sẵn [PL 2, tr.171-173].
Tồn bộ thơng tin thu thập, sẽ được tiến hành tổng quan, sắp xếp, chia tư liệu
thành các chủ đề với các tiêu chí về nội dung thông tin, cuối cùng là chọn lọc các thơng
tin có giá trị để làm luận cứ, luận chứng cho luận án.


Điều tra bằng bảng hỏi là cách thức thu thập thông tin được sử dụng phổ biến
trong các nghiên cứu điều tra xã hội học. Với những ưu điểm của phương pháp này
như: cho phép thu thập thông tin từ những tổng thể có quy mơ lớn, có tính đại diện
cao, xét trong điều kiện thực hiện luận án là phù hợp nên nghiên cứu sinh sử dụng
phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo để thu thập thông
tin cho nghiên cứu này. Đây là dữ liệu quan trọng để phân tích trong chương 3 và
chương 4 của luận án.
* Cách thức chọn mẫu


Lựa chọn xuất phát từ thực tế khách quan trong nghiên cứu, hiện nay hệ
thống các nhà trường QĐND Việt Nam được tổ chức rất đa dạng với số lượng trên
hàng trăm nhà trường. Vì vậy, tác giả chỉ lựa chọn hai nhà trường điển hình cụ thể
theo mục tiêu nghiên cứu của luận án là Học viện Chính trị - Bộ Quốc phịng (đại
diện khối học viện và thuộc nhóm trường chính trị) và Trường Sĩ quan Lục quân 1
(đại diện cho khối trường sĩ quan, thuộc nhóm trường quân sự) để khảo sát và đánh
giá thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay.
* Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo cơng thức sau:

Trong đó:
N là số người cần điều tra
2

/
Z1
hệ số tin cậy = 1,96 với độ tin cậy 95% (xác xuất α = 0,05)
2

p = 0,5 là tỷ lệ học viên đang học tập tại hai địa bàn nghiên cứu.
d là sai số chấp nhận bằng 5%
Như vậy, cỡ mẫu điều tra trong nghiên cứu mơ tả theo cơng thức tính toán tối
thiểu là 300 mẫu để khảo sát. Đây là cỡ mẫu tối thiểu cho phép phân tích thống kê.
Để tránh trường hợp đối tượng phỏng vấn từ chối trả lời, nghiên cứu sinh lấy thêm
40 mẫu dự phòng trong cùng một danh sách chọn mẫu. Bằng cách này, nghiên cứu
đã đảm bảo được số lượng mẫu cần thiết 300 mẫu được khảo sát tại hai trường. Đặc
điểm của mẫu khảo sát và người cung cấp thông tin được thể hiện trong (Phụ lục 3).
Công cụ thu thập thông tin là bảng hỏi được thiết kế theo một trình tự lôgic,
gồm 7 câu hỏi (Phụ lục số 1). Tiến hành điều tra 300 mẫu, nhằm làm rõ thêm thực
trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay.



* Cách thức xử lý thông tin:

Sau khi khảo sát và thu về được 300 đơn vị mẫu. Toàn bộ thông tin thu được
từ bảng hỏi sẽ được tổng hợp, mã hoá, nhập, làm sạch và sẽ được xử lý qua phần
mềm SPSS version 22.0 theo các biến số cơ bản. Kết quả cho thấy, nhìn chung chất
lượng số liệu đảm bảo độ tin cậy, logic, đáp ứng yêu cầu đặt ra của nghiên cứu.
Trong luận án, tác giả sử dụng hệ số tương quan Pearson, mơ hình hồi quy
logit nhị phân (Binary Logistic) để phân tích sự tương quan giữa các yếu tố, kiểm
định giả thuyết.
H0: khơng có mối quan hệ giữa các biến.
H1: có mối quan hệ giữa các biến.
Dựa vào giá trị p (p-value) để kết luận là chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H0
dựa trên mức độ tin cậy nhất định (thông thường p <0,05).
p-value (sig.) ≤ α (mức ý nghĩa 0,05)  bác bỏ giả thuyết H0. Có mối quan
hệ có ý nghĩa giữa các biến cần kiểm định.
p-value (sig.) > α (mức ý nghĩa 0,05)  chấp nhận H0. Khơng có mối quan
hệ giữa các biến cần kiểm định.
* Các biến số độc lập được sử dụng

Các biến số độc lập được xem xét bao gồm: độ tuổi, cấp bậc quân hàm, học
viên năm mấy, trường đang học, điều kiện sống của gia đình học viên, nơi ở của học
viên sinh sống (trước khi học tập), v.v..
- Phương pháp chuyên gia

Phương pháp này giúp nghiên cứu sinh có được những ý kiến tham khảo và
định hướng từ các chun gia có trình độ cao và có những kinh nghiệm, hiểu biết
sâu sắc về những vấn đề liên quan để xem xét, nhận định, đánh giá về VHCT trong
NTQĐ, đồng thời cũng là điều kiện để tác giả kiểm chứng và khắc phục những hạn

chế trong q trình nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về lý luận
- Góp phần quán triệt sâu sắc và vận dụng một cách khoa học, sáng tạo quan

điểm của Đảng về phát triển văn hóa gắn với việc nâng cao chất lượng đào tạo cán
bộ quân đội của Đảng.


- Luận án hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận về VHCT; đưa ra

quan niệm về VHCT của QĐND Việt Nam và đặc điểm VHCT trong NTQĐ hiện
nay dưới góc độ văn hóa học.
5.2. Về thực tiễn
- Luận án khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó rút ra

những vấn đề làm cơ sở cho việc thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo cán bộ quân đội.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo

phục vụ trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong NTQĐ, đồng thời luận án có
thể được sử dụng như một tài liệu bổ trợ giúp nâng cao chất lượng hoạt động cơng
tác đảng, cơng tác chính trị cho đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và cán bộ làm
cơng tác văn hóa nói riêng trong mơi trường qn đội.
6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết, trong đó:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến văn hóa chính trị
trong nhà trường Qn đội nhân dân Việt Nam.

Chương 2: Lý luận về văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam và khái lược về khách thể nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng văn hóa chính trị trong nhà trường Qn đội nhân dân
Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Những yếu tố tác động và một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa
chính trị trong nhà trường Qn đội nhân dân Việt Nam.


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HĨA
CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
1.1.1. Nghiên cứu văn hóa chính trị với tính cách là một thực thể xã hội

Tiếp cận nghiên cứu VHCT với tính cách là một khoa học chỉ thực sự bắt đầu
từ những năm 50 của thế kỷ XX và được khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu chính
trị của châu Âu và Mỹ. Tuy nhiên, sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT đã
xuất hiện từ rất sớm cùng với sự xuất hiện của con người. Khởi đầu của tư tưởng về
VHCT xuất phát từ việc tìm hiểu và giải thích bản chất và cách thức của sự cai trị
(thuật cai trị) hay việc nắm giữ và ứng xử đối với quyền lực của các nhà tư tưởng cổ
đại cả ở phương Tây và phương Đông.
Ở phương Tây, từ các nhà triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại (thế kỷ V- TCN)
cho đến các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVIII), VHCT được xem xét
như là đối tượng nghiên cứu của triết học, nghĩa là được nghiên cứu với tính cách
một thực thể xã hội. Các nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã cổ đại tiêu biểu như Platon
(428 - 348, TCN), Aristotle (384 - 322, TCN) là những người đầu tiên tiếp cận
VHCT và đưa ra quan niệm chính trị vừa là khoa học vừa là một nghệ thuật. Có thể
nói, Platon và Aristotle được xem là những người đi đầu trong cách tiếp cận VHCT
truyền thống phương Tây khi đặt ra được vấn đề quan điểm, thái độ ứng xử của con
người đối với quyền lực, đồng thời định hướng cách thức làm thế nào để quản lý tốt

các mối quan hệ xã hội; khẳng định vai trị của chính thể đối với người dân là thực
sự quan trọng.
Nếu như trong tác phẩm “Nền cộng hòa” (The Republic), Platon đã cho
rằng, các chế độ chính trị truyền thống cần thiết phải được điều hành bằng một tầng
lớp cầm quyền mới, đó là các nhà triết học được giáo dục tốt, bởi vì suy cho cùng
mục đích của triết học là xây dựng nhà nước lý tưởng, trong khi nhân cách của con
người chỉ có thể được hồn thiện trong một tổ chức nhà nước thực sự hợp lý, thì
Aristotle lại cho rằng, chính trị có vai trị quan trọng trong việc xác định sự tồn tại
của con người và khẳng định “con người là động vật chính trị”. Chính trị và luân
thường có sự liên kết chặt chẽ với nhau, một đời sống có đạo đức chỉ thực sự có ở
những người tham gia vào đời sống chính trị, mục đích cao nhất của chính trị và sứ


mệnh của người cầm quyền là không chỉ đảm bảo quyền sống mà còn đặt ra yêu cầu
đòi hỏi phải làm thế nào để có được sống tốt hơn. Các thể chế chính trị có nguy cơ
bị tha hóa nếu quyền lực không thực sự thuộc về quần chúng, Aristotle đã sử dụng
từ “demosthe” (quần chúng, dân thường) thay vì “democracy” (dân chủ) và
“ochlocracy” (chính quyền quần chúng hay thường dân cai trị).
Coi trọng và đề cao vai trò của các nhà triết học - những người có kỹ năng
đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội, Platon cho rằng: “Lồi người sẽ khơng tránh
được cái ác cho tới khi các nhà triết học chân chính và biết tư duy đúng đắn chưa
giữ được các chức trách nhà nước hoặc là các nhà cầm quyền chưa trở thành các
nhà triết học chân chính” [dẫn theo 149, tr.19].
Triết gia người Italia N.B Machiavelli (1469 - 1527) - “một trong những
người khổng lồ của thời đại Phục hưng” (chữ dùng của F. Engels), trong luận thuyết
về chủ nghĩa hiện thực chính trị qua tác phẩm “Quân vương” (The Prince) đã đề
nghị cần có một tầm nhìn thế giới về chính trị đồng thời lên án quan điểm đạo đức
truyền thống của giới cầm quyền với những hành vi chính trị xảo quyệt và thủ đoạn.
N.B Machiavelli đã phê bình mạnh bạo tư tưởng duy lý phi tơn giáo, lịng căm ghét
bọn quý tộc ăn bám và thể hiện khát vọng muốn xây dựng Italia thành một quốc gia

thống nhất, tự do, bình đẳng với một chính quyền mạnh, sử dụng bạo lực để xây
dựng trật tự mới. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo đương thời tiếp
thu và thực hiện.
Thời kỳ Khai sáng, thế kỷ XVIII cùng với sự bùng nổ của các tư tưởng triết
học, các học thuyết chính trị xã hội cũng xuất hiện hết sức đa dạng và phong phú
với các tên tuổi như: J. Loker; D. Diderot; S. L. Montesquieu; J. Rousseau...
Tư tưởng về VHCT của S. L. Montesquieu (1689 - 1755) thể hiện ở chủ
trương tam quyền phân lập nhằm giữ vững cán cân quyền lực. Đây là tư tưởng tiến
bộ đương thời vì đã loại bỏ tư tưởng và tàn dư của chế độ phong kiến đồng thời
cũng thể hiện tư tưởng VHCT cùng với những giá trị trí tuệ, tài năng của S. L.
Montesquieu. Với J. Rousseau (1712 - 1778), quyền lực phải thuộc về nhân dân
thông qua đại diện và luật pháp không phải do các cơ quan đại diện ban hành mà
phải do dân chúng trực tiếp lập ra. Mục tiêu của chính quyền nhà nước là phải bảo
đảm tự do, bình đẳng và cơng bằng cho tất cả mọi người. Theo J. Rousseau, triết
học chính trị gắn liền với đạo đức, nhà nước không thực hiện được các giá trị đạo
đức thì sẽ khơng thực hiện đầy đủ


các chức năng vốn có của mình. Có thể nói, tư tưởng chính trị của J. Rousseau đã
thể hiện tinh thần cấp tiến hơn so với các nhà tư tưởng đương thời.
Theo dòng thời gian, thuật ngữ VHCT được biết đến lần đầu tiên khoảng
cuối thế kỉ XVIII ở châu Âu do các nhà triết học, chính trị học sử dụng. Triết gia cổ
điển Đức I. G. Gerzer (1744 - 1803), trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ tương
tác giữa văn hóa và chính trị đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “VHCT”, “sự chín
muồi của VHCT” hay “những đại biểu của VHCT” trong cuốn sách “Các phương
pháp triết học lịch sử nhân loại”, năm 1784 [dẫn theo 47, tr.1].
Tuy nhiên phải đến thập niên 50 - 60 của thế kỉ XX, VHCT mới được quan
tâm như một lĩnh vực nghiên cứu mang tính độc lập và khái niệm VHCT mới thực
sự gia nhập vào hệ thống khái niệm, phạm trù của khoa học chính trị gắn với tên
tuổi của hai nhà chính trị học nổi tiếng người Mỹ là G. Almond và S.Verba. Theo

quan niệm của họ, hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội, vì vậy khi xem
xét hành vi chính trị phải tính đến các nhân tố văn hóa, tâm lý cá nhân và của toàn
xã hội. Trong tài liệu nghiên cứu “Các hệ thống chính trị so sánh” (Comparative
Political Systems), năm 1956 [164], G.Almond cho rằng, văn hóa của cộng đồng có
ảnh hưởng đến hệ thống chính trị của các cộng đồng đó và ơng sử dụng thuật ngữ
“VHCT” (Political Culture) để so sánh, đối chiếu sự khác biệt giữa các nền chính
trị. Theo G. Almond “Mỗi hệ thống chính trị đều bắt rễ từ trong một loại định
hướng xác định riêng, tôi phát hiện thấy điều này rất hữu dụng và gọi nó là văn hóa
chính trị” [164, tr.15]. Năm 1963 G Almond và S. Verba đã xuất bản một trong
những tác phẩm được xem là kinh điển cho nghiên cứu VHCT ở phương Tây là
“Văn hóa cơng dân” (The Civic Culture) [166], trong đó cho rằng, VHCT bao gồm
các yếu tố nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và giá trị chính trị đồng thời đưa ra
ba loại hình cơ bản của VHCT trong lịch sử là văn hóa bộ lạc, văn hóa thần thuộc,
văn hóa tham dự hay cịn gọi là văn hóa cơng dân.
Một trong những nhà nghiên cứu chính trị hàng đầu của Mỹ thế kỷ XX là L.
Pye trong khi biên soạn “Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế” (International
Encyclopedia of the Social Sciences) vào năm 1961 [169] đã đưa ra định nghĩa về
VHCT như sau: “VHCT là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý
nghĩa và trật tự cho q trình chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm
vận hành của một chính thể”, đồng thời khẳng định: “VHCT là sản phẩm bao gồm
lịch sử


tập thể của hệ thống chính trị và cả lịch sử đời sống của các cá thể trong hệ thống đó,
do đó, nó bắt rễ sâu xa trong lịch sử các sự kiện chung và lịch sử cá nhân” [169,
tr.220].
Ở phương Đông, Nho giáo đã mở đầu cho việc tiếp cận VHCT với tính cách
là một thực thể xã hội. Bằng mệnh đề: “việc chính trị cốt ở chính tâm của người trị
dân” [79, tr.429], Khổng Tử (551 - 479 TCN) cho rằng, những người trị dân là
những “chính nhân quân tử”, khác với hạng “ tiểu nhân” và ông ln đề cao vai trị,

trách nhiệm của những người “qn tử” hay “người hiền”. Quốc gia có “thái bình
thịnh trị” hay không phụ thuộc vào việc giữ “Lễ”, tuân theo “Đạo” hay sự chính
danh của người “quân tử” và yêu cầu phải giữ được “tam cương, ngũ thường”, đó
chính là “văn trị” (cai trị bằng văn) nghĩa là, chính trị phải có văn hóa. Học thuyết
chính trị - đạo đức của Khổng Tử đã thể hiện rõ nét quan niệm về VHCT của ơng, ở
đó chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng
đến VHCT của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tư tưởng “văn trị” của
Khổng Tử tiếp tục được các thế hệ học trị của ơng kế thừa và phát triển, trong số
đó, phải kể đến Mạnh Tử (372 - 289 TCN), với tư tưởng “văn trị giáo hóa” và được
hiểu là chính trị gắn với giáo dục. Theo Mạnh Tử, “chính giỏi khơng thể tranh thủ
được dân bằng giáo giỏi. Chính giỏi thì dân sợ, giáo giỏi thì dân yêu” [32, tr.308].
Mạnh Tử là người đề xuất chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”,
ông cũng là người đưa ra thuyết “tính thiện” của con người rằng con người sinh ra
đã là “thiện” rồi, “nhân chi sơ bản tính thiện”, tư tưởng này đối lập với thuyết “tính
ác” của Tuân Tử rằng “nhân chi sơ bản tính ác”. Ơng cho rằng “kẻ lao tâm trị người
cịn người lao lực thì bị người trị”. Học thuyết của ơng được gói gọn trong các chữ
“Nghĩa”, “Trí”, “Lễ”, “Tín”. Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người “qn tử” phải có
“hạo nhiên chính khí”, cần “lấy Đức thu phục người khác”, theo ông “người nhân từ
khắp thiên hạ khơng có kẻ thù nào” [dẫn theo 149].
Vào thời kỳ “Bách gia chư tử”, ở Trung Hoa, Lão Tử (580 - 500, TCN) cũng
được xem là tư tưởng gia lỗi lạc trong việc đề xuất chủ trương cai trị với phương
châm “vô vi nhi trị”, nghĩa là cai trị bằng cách không cai trị. Trong cuốn “Lão Tử Đạo đức kinh” [76] - cuốn sách hướng dẫn dành cho các vị vua về thuật cai trị đất
nước như thế nào cho hợp với “Đạo”, ông cho rằng: “Khơng tán dương người quyền
q thì người dân khơng tranh tụng” và “Khơng đề cao giá trị đồ q thì người dân
không tranh cướp”. Như vậy, Lão Tử đã thể hiện một quan niệm mới trong cách ứng
xử chính trị của bậc trị nước và đây cũng chính là cách tiếp cậnVHCT của ông.


Vào cuối thời Chiến quốc, một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử
tư tưởng Trung Hoa cổ đại và cũng là một trong số “Bách gia chư tử” đã xuất hiện

đó là Hàn Phi, hay cịn được biết đến với tên gọi là Hàn Phi Tử (281 - 233, TCN).
Là học trò của Tuân Tử (313 - 238, TCN), Hàn Phi theo thuyết “tính ác” của thầy
một cách triệt để và cho rằng, con người bẩm sinh vốn “đại ác”, do đó ơng khơng
bàn đến “Nhân”, “Nghĩa”, cũng không trọng “Lễ” như Tuân Tử, mà đề cao phương
pháp dùng “Thế”, dùng “Thuật”, dùng “Luật” của Pháp gia để trị nước. Khác với tư
tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản lý xã hội thì phải dùng “Nhân trị” và
“Đức trị”), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật: “Pháp
luật không hùa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khơn cũng khơng
từ, kẻ dũng cũng khơng dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng
cái đúng khơng bỏ sót của kẻ thất phu”. Bộ sách “Hàn Phi Tử” [152] được xem là
bộ sách chính trị học vĩ đại, học thuyết chính trị của ông được người xưa tụng ca là
“đế vương chi học”. Xét theo khía cạnh VHCT, tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử
đã có những tiến bộ nhất định và ảnh hưởng tích cực đến đời sống chính trị xã hội
không chỉ dừng lại ở Trung Hoa cuối thời Chiến quốc.
Tại Ấn Độ, thời kỳ cổ đại do ảnh hưởng của giáo lý Bà La Môn, bộ Luật
Manu xuất hiện (vào thế kỷ II, TCN) đã có những quy định chi tiết về cách ứng xử và
địa vị của từng đẳng cấp trong xã hội. Đây thực chất là những luật lệ, những tập quán
thể hiện thế giới quan của giai cấp thống trị được tập hợp lại dưới dạng trường ca.
Nội dung của bộ luật Manu không chỉ là những quan hệ pháp luật mà còn tập trung
vào những vấn đề trong kiến trúc thượng tầng của xã hội Ấn Độ cổ đại đương thời
như: chính trị, tơn giáo và thế giới quan, vũ trụ quan. Những quy định khắt khe mang
tính phân biệt đối xử của bộ luật Manu làm cho xã hội Ấn Độ cổ đại bị phân hóa sâu
sắc. Trong bối cảnh đó, Phật giáo ra đời (thế kỷ VI - IV, TCN) với chủ trương từ bi,
hỷ xả nhằm cứu rỗi và xóa bỏ những kỳ thị về đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ đương
thời. Có thể nói, cùng với bộ luật Manu và sự ra đời của Phật giáo đã thể hiện sự tiếp
cận VHCT trong lịch sử văn hóa - văn minh của Ấn Độ nói riêng và nhân loại nói
chung.
Như vậy, cùng với sự xuất hiện của chính trị khi chế độ Cơng xã thị tộc tan
rã thì sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT cũng được đề cập hết sức phong
phú và đa dạng trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng của cả phương Đông và

phương Tây từ cổ đại đến hiện đại. Tuy nhiên, các nghiên cứu chuyên sâu và độc
lập


về VHCT với tính cách là thực thể xã hội chỉ thực sự được bắt đầu từ giữa những
năm 50 của thế kỷ XX với sự ra đời của ngành chính trị học gắn liền với tên tuổi
của các nhà nghiên cứu phương Tây và Mỹ. Trong tình hình hiện nay cho thấy, cũng
như khái niệm và quan niệm về văn hóa, các khái niệm và quan niệm về VHCT vẫn
cịn rất khó khăn để để đi đến sự thống nhất trong các trường phái, các nhà nghiên
cứu. Mặt khác, những thành tựu đạt được trong nghiên cứu VHCT trên thế giới lại
chủ yếu là do các nhà triết học, chính trị học đóng góp.
Ở Việt Nam, do chịu ảnh hưởng của những trào lưu tư tưởng và tôn giáo trên
thế giới, tư tưởng về VHCT đã xuất hiện từ rất sớm, đặc biệt là sự chi phối của Phật
giáo, Nho giáo trong thời kỳ độc lập tự chủ thế kỷ X đến thế kỷ XIX và văn hóa
phương Tây giai đoạn giao thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng sâu
sắc đến lịch sử tư tưởng nói chung, VHCT Việt Nam nói riêng. Nhìn chung, vấn đề
tiếp cận VHCT ở Việt Nam thời kỳ đầu, chủ yếu được lồng ghép trong các nghiên
cứu về văn hóa và các nhà nghiên cứu đã xem VHCT như một thành tố quan trọng
của triết học và chính trị học, một số cơng trình đáng chú ý như:
Xuất phát từ góc độ triết học, Nguyễn Hữu Khiển (2006) trong cơng trình
“Phân tích triết học - Những vấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị”, Nhà
xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [70] đã tiếp cận nghiên cứu chính trị với tính
cách là một hình thái ý thức xã hội, chỉ ra bản chất của các mối quan hệ tư tưởng (ý
thức) và thực tiễn đời sống chính trị - một bộ phận của đời sống xã hội đang vận
động. Theo tác giả, VHCT thuộc phương diện bản chất của con người và tiếp cận
phạm trù VHCT từ “văn hóa” và “chính trị”, trong đó văn hóa được hiểu với nghĩa
rộng. Xét về mặt bản chất, đặc trưng cơ bản nổi bật nhất của VHCT là “luôn luôn
được đo bằng lập trường, quan điểm và lịng trung thành với lý tưởng chính trị, tính
trung thực và khiêm nhường; kiên quyết, khéo léo, mưu lược, lòng nhân ái và vị
tha; hướng về Nhân dân và phục vụ Nhân dân một cách có hiệu quả, tất cả những

điều trên làm rõ bản chất của VHCT” [70, tr.100]. Về mặt cấu trúc, tác giả cho rằng,
“VHCT là một hệ giá trị bao gồm nhiều nhân tố cấu thành có quan hệ hữu cơ với
nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau… hình thành nên một cấu trúc hoàn
chỉnh - một hệ thống - trên một cái nền chung là mục tiêu chính trị” [70, tr. 100101]. Các yếu tố cấu thành VHCT bao gồm: trình độ trí tuệ và lý luận chính trị; lập
trường giai cấp của mỗi người và tổ chức chính trị; nhu cầu, thói quen, hành vi tự


giác, chủ động tích cực của mỗi người trong đời sống chính trị - xã hội tạo thành giá
trị của họ trong đời sống cộng đồng; ý thức về sự đổi mới chính trị và định hướng
về sự đổi mới đó; nền tảng pháp lý của xã hội; chuẩn mực đạo đức trong quan hệ xã
hội của các cá nhân trong đời sống và thái độ của các chính khách. Tuy nhiên cách
tiếp cận và trình bày của tác giả xem ra còn thiên về nhấn mạnh và đề cao tính giai
cấp. Từ góc nhìn triết học, tiếp cận văn hóa với tính cách là một thực thể xã hội,
trong “Giáo trình triết học văn hóa” (Dùng cho đào tạo nghiên cứu sinh và học
viên cao học), (2016) do Văn Đức Thanh (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, [110], mặc dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm VHCT, tuy nhiên
xuất phát từ góc độ triết học, trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận mác
xít, lấy khách thể nghiên cứu là văn hóa, các tác giả đã cho rằng: bản chất của văn
hóa dưới góc độ là một phương diện của đời sống xã hội thể hiện đậm đặc trong mối
liên hệ biện chứng giữa văn hóa với cách mạng xã hội, tiến bộ xã hội, trong đó, “có
thể coi lý luận cách mạng là nội dung sâu sắc của văn hóa chính trị” [110, tr.41]. Ở
mức độ cụ thể hơn, các tác giả khẳng định:
Hệ thống quan điểm lý luận chính trị, hệ thống thể chế chính trị, thiết chế
chính trị cùng các hoạt động chính trị của giai cấp cách mạng, tiến bộ với
mục tiêu vì con người, tự nó đã mang đậm giá trị văn hóa với tính cách
dấu ấn của con người và cộng đồng lên lĩnh vực chính trị của một giai
cấp, quốc gia, dân tộc nhất định được phong hóa theo thời gian và tác
động trở lại đối với bản thân nền chính trị đó [110, tr.44].
Điểm đáng chú ý là trong mục “Các nguyên lý của sự phát triển văn hóa”,
các tác giả khẳng định, về mặt hệ thống - cấu trúc: “Hơn nữa bản thân chính trị cũng

là một thành tố của văn hóa - VHCT - trong xã hội có đối kháng giai cấp” [110,
tr.97].
Từ góc độ chính trị học, xuất phát từ vị trí, vai trị của VHCT đối với việc
bồi dưỡng cán bộ, đã có một số cơng trình như: “Văn hóa chính trị và việc bồi
dưỡng đội ngũ lãnh đạo ở nước ta hiện nay”, (1995), do Phạm Ngọc Quang (Chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [100]; “Nâng cao văn hóa chính trị
của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay”, (2006), Lâm Quốc Tuấn, Nhà
xuất bản Văn hóa Thơng Tin và Viện Văn hóa, Hà Nội [149]. Theo đó, các tác giả
đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về VHCT và cho rằng, nói đến văn hóa là nói
tới con người, VHCT gắn liền với chủ thể chính trị, trong đó cán bộ lãnh đạo quản


lý giữ vai trò là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Khi
đề cập VHCT với tính cách là hệ giá trị thì đó là một hệ thống các hoạt động, các
quan hệ, các thiết chế chính trị phản ánh đầy đủ các dấu hiệu chân, thiện và mỹ. Từ
đó, cho thấy yêu cầu nâng cao VHCT cho cán bộ lãnh đạo quản lý là một tất yếu
khách quan và đề ra phương hướng, nội dung giải pháp để nâng cao VHCT cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay. Nhóm tác giả “Tập bài giảng
Chính trị học”, (2007) do Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên), Viện Khoa học Chính trị,
Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [160], trong khi khẳng định chính trị học là
khoa học nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể trong tính hệ thống, cung cấp
những kiến thức cơ bản về chính trị và chỉ ra những vấn đề có tính quy luật làm cơ
sở vận dụng có hiệu quả vào các hoạt động chính trị nói chung, trong đó VHCT
được xem như một thành tố quan trọng; “Chính trị học - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”,(2007) do Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên), Nhà xuất bản Lý luận Chính
trị, Hà Nội [67], cho rằng, VHCT như là một đối tượng nghiên cứu của chính trị
học; “Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam”,
(2009), Nguyễn Văn Huyên - Nguyễn Hoài Văn - Nguyễn Văn Vĩnh, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội [68], trong khi khẳng định chính trị có vai trị hết sức
quan trọng trong thực tiễn, bản chất chính trị, lý tưởng chính trị, trình độ hoạt động

chính trị hướng tới một xã hội nhân đạo, nhân văn, tất cả vì sự phát triển và tiến bộ
của xã hội và con người, điều đó nói lên VHCT của một nền chính trị; “Văn hóa
chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính trị”, (2010) của Phạm Hồng Tung,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [150], trong đó, tác giả làm rõ các khái
niệm cơ bản có liên quan và được sử dụng phổ biến trong khoa học chính trị
phương Tây cũng như của phương Đông. Bên cạnh những thành tựu mới trong
nghiên cứu VHCT, tác giả cịn có những đóng góp trong việc khẳng định vai trị của
VHCT khơng chỉ đối với chính trị học mà cịn là khách thể nghiên cứu và có ý
nghĩa phương pháp luận đối với một số ngành khoa học xã hội; “Văn hóa chính trị
Hồ Chí Minh với việc xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam” (Sách chun khảo),
(2016) của Nguyễn Minh Khoa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [73].
Cuốn sách đã trình bày những vấn đề cơ bản về lý luận văn hóa và VHCT, đồng
thời khẳng định, VHCT Hồ Chí Minh là một di sản tinh thần vơ giá cần được gìn
giữ và phát huy. Tác giả cho rằng, VHCT là một bộ phận của văn hóa, đó là một
bộ phận tinh thần của đời


sống xã hội, là tổng thể các giá trị, định hướng, quan điểm, sự ứng xử mẫu mực
của các chủ thể chính trị và đóng vai trị then chốt đối với hoạt động của mọi thể
chế chính trị; “Văn hóa chính trị Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”,
(2017) do Phan Xuân Sơn chủ nhiệm đề tài, Viện Chính trị học - Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
cấp Bộ năm 2016), [107] từ cách tiếp cận theo tầng nội dung của VHCT với các
giá trị cốt lõi của VHCT Việt Nam như: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng
đồng, chủ nghĩa nhân văn, tinh thần thân dân, tinh thần hòa hiếu và tinh thần
thượng võ, các tác giả đã cố gắng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
VHCT trong bối cảnh hội nhập quốc tế; chỉ ra thực trạng biến đổi của VHCT Việt
Nam trong hội nhập cũng như những hạn chế và đề xuất giải pháp xây dựng và
phát triển VHCT Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Dưới góc độ chính trị học, VHCT cũng được lựa chọn làm đề tài của các luận

văn, luận án và đã được bảo vệ thành cơng như:“Văn hóa chính trị Việt Nam và vai
trị của nó đối với cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”, (1998), luận văn thạc sĩ
của Lê Tấn Lập, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; “Văn hóa
chính trị của đội ngũ giảng viên đại học nước ta hiện nay - thực trạng và giải
pháp”, (2004), luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh; “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực
tiễn”, (2015), luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu Lập, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh); “Văn hóa chính trị của công an nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”, (2017), luận án tiến sĩ của Tạ Thành
Chung, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [24].
Nhìn chung, các luận văn và luận án đã tập trung luận giải những vấn đề lý
luận chung về VHCT, khảo sát thực trạng VHCT Việt Nam, từ đó đưa ra những
quan niệm, phương hướng giải pháp để phát triển VHCT đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Cùng với các cơng trình nêu ở trên cũng đã có nhiều bài báo đăng trên các
tạp chí chun ngành nhằm cơng bố những kết quả nghiên cứu chính trong tiếp cận
nghiên cứu VHCT, một số bài viết đáng chú ý:
“Văn hóa chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và nội dung
nghiên cứu của chính trị học”, (1992) của Hồng Chí Bảo, trong “Một số vấn đề về
khoa học chính trị”, Viện Mác - Lênin; “Văn hóa chính trị - một cách nhìn trong
thời


kỳ đổi mới”, (1998) của Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng số 10, 11; “Vai
trị của văn hóa chính trị trong việc hình thành phẩm chất và năng lực của người
cán bộ lãnh đạo chính trị”, (2003) của Nguyễn Văn Vĩnh, Thơng tin Chính trị học;
“Về văn hóa chính trị”, (2004) của Văn Hải, Tạp chí Lý luận chính trị số 5; “Tiếp
cận triết học về văn hóa chính trị và xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện
nay”, (2005) của Nguyễn Văn Hun, Thơng tin Chính trị học số 1; “Văn hóa chính
trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, (2010) của Phạm Huy Kỳ, Tạp chí Cộng
sản. “Xây dựng, phát huy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản trong tiến trình xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, (2014) của Phùng Hữu Phú, Tạp chí Cộng
sản số 856; “Văn hóa chính trị”, (2016) của Nguyễn Hữu Đổng, Tạp chí Lý luận
chính trị số 2… Xét một cách tổng qt, từ góc độ chính trị học, trên cơ sở hạt
nhân của
chính trị là vấn đề quyền lực, các tác giả đã xem VHCT như một thành tố quan
trọng của chính trị và là đối tượng nghiên cứu của chính trị học. Q trình nghiên
cứu, các nhà chính trị học đã cố gắng nêu lên những khía cạnh bản chất, chỉ ra đặc
trưng, cấu trúc của VHCT, đồng thời đưa ra những khuyến nghị, những giải pháp
mang tính định hướng nhằm đề cao, phát huy và phát triển VHCT trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Nghiên cứu văn hóa chính trị với tính cách là hệ giá trị

Khi đặt vấn đề xem xét, VHCT với tính cách hệ giá trị, các nhà nghiên cứu
trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều nhấn mạnh và đề cao vai trị của văn hóa nói
chung và VHCT nói riêng trong thực tiễn đời sống.
Ở phương Tây thế kỷ XX đã có những tác giả, những trường phái có đóng
góp quan trọng cho sự hình thành, phát triển khái niệm, quan niệm, cấu trúc VHCT
và nhấn mạnh những đóng góp của VHCT đối với sự tiến bộ xã hội. Alexis de
Tocqueville khi nghiên cứu VHCT Mỹ để tìm câu trả lời cho sự thành công của
nước Mỹ đã khái quát các giá trị VHCT của Mỹ bao gồm: tự do, bình đẳng, dân
chủ, chủ nghĩa cá nhân, nhà nước pháp quyền, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tư bản
và thị trường mở; D. Kavannagh năm 1972, [168] và W. Rosenbaum (1995) [170]
đã cho xuất bản các tác phẩm về “Văn hóa chính trị” (Political Culture); W. J
Patzelt thuộc trường phái Passau của Đức (1992); định nghĩa của Trường Đại học
Tổng hợp California ở Berkeley của Mỹ (2006); định nghĩa của trường phái học
thuật Heidelberg của Đức (2007)...


×