Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tác động của du lịch đối với môi trường tại cụm di tích Phố Hiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.92 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1 .Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Bố cục của bài tiểu luận
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : MƠI TRƯỜNG DU LỊCH
1.1. Mơi trường du lịch
1.1.1.Khái niệm môi trường du lịch
1.1.2.Các loại môi trường du lịch
1.1.3.Vai trị của mơi trường với sự phát triển du lịch
1.2. Bảo vệ môi trường du lịch là mục tiêu cơ bản của sự phát triển
bền vững
CHƯƠNG II : SỰ THAY ĐỔI CỦA MƠI TRƯỜNG TẠI CỤM DI
TÍCH PHỐ HIẾN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH
2.1. Cụm di tích Phố Hiến - Quần thể di tích kiến trúc nghệ thuật có
giá trị
2.2. Hoạt động du lịch tại cụm di tích Phố Hiến
2.2.1. Những dịch vụ hiện tại có tại cụm di tích Phố Hiến
2.2.2. Tình hình phát triển du lịch của cụm di tích Phố Hiến
2.3. Mơi trường cụm di tích Phố Hiến dưới tác động của hoạt động
du lịch
CHƯƠNG III : BẢO VỆ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MƠI
TRƯỜNG TẠI CỤM DI TÍCH PHỐ HIẾN
3.1. Ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường du lịch tại cụm di tích
Phố Hiến


3.1.1. Vị thế của cụm di tích Phố Hiến trong sự phát triển du lịch của


tỉnh Hưng Yên
3.1.2. Tạo sự phát triển bền vững cho cụm di tích Phố Hiến
3.2. Hệ thống các giải pháp để bảo vệ và nâng cao chất lượng mơi
trường tại khu di tích Phố Hiến
3.2.1. Các giải pháp chung
3.2.2. Các giải pháp và việc làm cụ thế để bảo vệ mơi trường tại cụm di
tích Phố Hiến
3.2.3. Đề xuất của cá nhân để bảo vệ mơi trường tại một số điểm của
cụm di tích Phố Hiến
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1 .Lý do chọn đề tài
Hiện nay, du lịch được đánh giá là một nghành kinh tế mũi nhọn của
đất nước. Hoạt động du lịch ngày càng trở nên sôi động không chỉ ở các
thành phố lớn mà cịn phát triển mạnh ở các vùng nơng thơn và miền núi.
Du lịch phát triển không chỉ thỏa mãn nhu cầu đi du lịch của con
người mà cịn góp phần rất lớn vào việc giải quyết việc làm cho người lao
động, tăng thu nhập cho người dân địa phương nơi có tuyến điểm du lịch.
Đồng thời du lịch phát triển cũng tạo điều kiện để nâng cao cơ sở hạ tầng, cơ
sở vật chất kỹ thuật cho địa phương. Ngoài ra, du lịch phát triển cịn góp
phần rất tích cực vào việc quảng bá hình ảnh, đất nước và con người Việt
Nam với các nước khác trên thế giới.
Để có một ngành du lịch phát triển thì phải có một nguồn tài nguyên
du lịch dồi dào, hấp dẫn, một môi trường du lịch trong sạch, lành mạnh bởi lẽ
tài nguyên và mơi trường du lịch chính là điều kiện cần và đủ của sự phát
triển du lịch .

Tuy nhiên, sự phát triển du lịch cũng kéo theo rất nhiều tác động tiêu
cực đến đời sống của cư dân địa phương từ việc làm thay đổi các điều kiện
kinh tế, sinh thái đến sự xáo trộn trong đời sống của họ cũng như tác động
trực tiếp đến các giá trị văn hóa truyền thống của họ.
Du lịch được coi là ngành kinh tế thời thượng, là ngành cơng nghiệp
khơng khói. Chính vì vậy trong một thời gian dài Việt Nam chúng ta chỉ lưu
tâm đến việc làm sao để tiến nhanh, tiến mạnh ngành du lịch, cải tạo các
khách sạn, nhà hàng , xây dựng công nghệ lữ hành để thu hút thêm lượng
khách. Việc làm này thực sự đã đem đến một nguồn thu hút đáng kể. Nhưng
giờ đây chúng ta phải nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về các tác động của
du lịch. Qua thực tế, chúng ta nhận thấy mặt trái của hoạt động du lịch là
không nhỏ nếu chúng ta không biết cách quản lý và khai thác phù hợp vì nó
có thể góp phần làm hủy hoại sinh thái ( rác thải, ô nhiễm, phá rừng…), sự


gia tăng về các tệ nạn xã hội (móc túi, trộm cắp, ăn xin, mại dâm…), sự biến
đổi các giá trị văn hóa truyền thống. Đây chính là các yếu tố đang đe dọa sự
phát triển bền vững của hoạt động du lịch.
Hưng Yên là một mảnh đất truyền thống văn hiến, trong đó có cụm di
tích Phố Hiến đã đi vào câu ca từ xa xưa :
“ Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến “
Ngày nay, Phố Hiến đã khơng cịn sầm uất như xưa nhưng những
cụm di tích xung quanh nó vẫn đang được đầu từ vào việc phát triển du lịch.
Sự phát triển du lịch nơi đây cũng như tình trạng phát triển du lịch nói chung
của cả nước đó là sự phát triển chưa bề vững thề hiện thực tế là việc phá vỡ
cấu trúc , hủy hoại nguồn tài nguyên và môi trường du lịch. Thực tế hiện nay
vấn đề nhận thức về tầm quan trọng của nguồn tài nguyên và môi trường tại
Phố Hiến chưa được quan tâm triệt để. Hơn thế nữa, cho đến nay chưa có
một cơng trình nghiên cứu nào nói về vấn đề này tại Phố Hiến mà chỉ có một
số bài viết rải rác trên các báo, tạp chí.

Từ những lý do trên, tơi đã quyết định chọn đề tài “ Tác động của du
lịch đối với môi trường tại cụm di tích Phố Hiến “ làm đề tài cho bài tiểu luận
của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
•Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu về mơi trường du lịch tại
cụm di tích Phố Hiến.
•Phạm vi nghiên cứu : Cụm di tích Phố Hiến là một địa danh nổi
tiếng cuat tỉnh Hưng Yên đã từ lâu được biết đến là thương cảng sầm
uất một thời với nhiều di tích lịch sử văn hóa xung quanh Phố Hiến.
Trong khn khổ của một bài tiểu luận vì vậy tơi lựa chọn cụm di tích
Phố Hiến .
3. Mục đích nghiên cứu
Với việc lựa chọn đề tài này, nội dung bài tiểu luận có mục đích đánh
giá các tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động du lịch tới môi trường tại


cụm di tích Phố Hiến. Đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khai thác và
bảo vệ môi trường một cách hợp lý, góp phần vào sự phát triển du lịch bền
vững tại cụm di tích Phố Hiến nói chung và tỉnh Hưng Yên nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực tế có rất nhiều phương pháp để nghiên cứu khoa học, nhưng với
phạm vi của bài tiểu luận này tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên
cứu sau :
•Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu
•Phương pháp nghiên cứu thực tế
•Phương pháp nghiên cứu xã hội học thông qua việc lập phiếu
điều tra và phỏng vấn trực tiếp.
5. Bố cục của bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu , kết luận nội dung của bài được chia làm 3
chương :Chương 1 : Môi trường du lịch

Chương 2 : Sự thay đổi môi trường du lịch tại cụm di tích Phố Hiến
dưới tác động của hoạt động du lịch
Chương 3 : Một số phương hướng và giải pháp để bảo vệ và nâng cao
chất lượng và môi trường du lịch tại cụm di tích Phố Hiến.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MÔI TRƯỜNG DU LỊCH
1.1.MÔI TRƯỜNG DU LỊCH
1.1.1. Khái niệm môi trường du lịch
Môi trường hiện nay là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Sự phát
triển của nền kinh tế và xã hội cũng tỉ lệ thuận với tốc độ và mức độ làm ô
nhiễm , xuống cấp môi trường. Môi trường hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp
các điều kiện bên ngồi có ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện nào
đó. Nói đến môi trường, thường gắn với cuộc sống của con người. Vì vậy
theo nghĩa hẹp hơn thì mơi trường sống của con người bao gồm : môi trường
thiên nhiên ( vật lý, hóa học, sinh học tồn tại khách quan ngồi ý muốn của
con người hoặc ít chịu sự chi phối của con người ) ; Môi trường xã hội ( gồm
tổng thể các mối quan hệ trong xã hội thơng qua các hình thái tổ chức, các
thể chế kinh tế - xã hội. ; Môi trường nhân tạo ( bao gồm các nhân tố vật lý,
hóa học, sinh học và xã hội do con người tạo nên và chịu sự chi phối của con
người ).
Khái niệm môi trường du lịch theo nghĩa rộng bao gồm các nhân tố về
tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhân văn trong đó hoạt động du lịch tồn tại và
phát triển.
Mơi trường du lịch tự nhiên thường được xem xét ở một số nhân tố chủ
yếu : môi trường địa chất, môi trường nước, mơi trường khơng khí, mơi
trường sinh học và các sự cố môi trường.
Đối với môi trường kinh tế - xã hội các nhân tố chủ yếu cần được xem

xét là thể chế chính sách, trình độ phát triển khoa học công nghệ, mức độ
phát triển cơ sở hại tầng, môi trường đô thị và công nghiệp, mức sống của
người dân, tổ chức xã hội và quản lý môi trường.
Khi nghiên cứu về môi trường du lịch nhân văn thì các nhân tố chủ yếu
cần được xem xét là dân cư, dân tộc, truyền thống và quan hệ cộng đồng,


trình độ văn minh và dân trí, chất lượng cuộc sống dân cư lao động và trình
độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ du lịch.
1.1.2.Các loại môi trường du lịch
Do nội hàm của khái niệm môi trường du lịch khá sâu rộng cho nên có
rất nhiều loại mơi trường du lịch. Tuy vậy, về cơ bản chúng được xếp vào hai
nhóm chính đó là mơi trường du lịch tự nhiên và môi trường du lịch nhân
văn.
Môi trường du lịch tự nhiên là một bộ phận cấu thành nên môi trường tự
nhiên nói chung, bao gồm tập hợp các đối tượng tự nhiên sống ( hữu cơ ) và
không sống ( vơ cơ ) ; trong đó có nhứng đối tượng tự nhiên chưa bị con
người tác động, cải tạo ở mức độ khác nhau, song vẫn bảo tồn được một phần
hoặc tồn bộ các đặc tính tự phục hồi và phát triển. Môi trường du lịch tự
nhiên bao gồm các nhận tố tự nhiên như : đất, nước, không khí,…tức là các
yếu tố vật lý thường được gọi là môi trường sinh học.
Môi trường địa chất là một thành tố của một thành tố của môi trường du
lịch tự nhiên. Môi trường này được hiểu là một tập hợp các thành tố địa chất
của mơi trường tự nhiên. Nó bao gồm các yếu tố như : cấu trúc địa chất, các
hoạt động kiến tạo, tân kiến tạo, động đất, các qua trình kars hóa, phong hóa,
các tai biến địa chất ảnh hưởng đến môi trường hoặc chi phối môi trường. Từ
đó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động du lịch.
Môi trường nước cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của mơi
trường tự nhiên, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của sự sống và hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội trên hành tinh nói chung , hoạt động du lịch

nói riêng . Những biến động của mơi trường nước thường dẫn đến những
biến động về chất lượng sống trên trái đất hoặc trên các khu vực cụ thể. Các
yếu tố của môi trường nước phân bố khá rộng, từ nước lục địa trong đó có
nước mặt ( ao, hồ, sông, suối ), nước dưới đất ( nước ngầm ) đến nước đại
dương, nước biển.


Mơi trường khơng khí là bộ phận của mơi trường tự nhiên tồn tại trong
thể khí. Hoạt động sống của con người trên trái đất lien quan chặt chẽ đến
môi trường khơng khí. Vì vậy các đặc điểm chất lượng của mơi trường khơng
khí có vai trị to lớn trong sự tồn tại sự sống. Những biến đổi của các yếu tố
mơi trường khơng khí như sự biến động của chế độ nhiệt, chế độ mưa - ẩm ,
chế độ gió,…đưa đến những biến động đời sống và sản xuất trên hành tinh
như nạn khô hạn với cháy rừng , mưa lũ, bão tố,…Mơi trường khơng khí có
ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định các khu du lịch nghỉ dưỡng, đến tổ chức
mùa vụ khai thác du lịch…Các yếu tố của mơi trường khơng khí có vai trị
khá lớn trong việc quyết định hướng quy hoạch khu du lịch , bố trí khơng
gian và kiến trúc quần thể khu du lịch.

Môi trường sinh học là hợp phần

sinh học và sự sống của tất cả các cơ thể. Môi trường sinh học thường được
xem là bộ phận sông ( hữu cơ ) của môi trường tự nhiên. Môi trường sinh học
là cơ sở để duy trì và phát triển cuộc sống trên hành tinh, điều hoà cán cân
nước, làm sạch bầu khí quyển, cung cấp lương thực thực phẩm cho xã hội.
Do đó, mơi trường sinh học có vai trị rất to lớn trong việc thiết lập và bảo vệ
cân bằng sinh thái của tự nhiên. Nhưngc biến đổi của môi trường sinh học cả
về lượng và cả về chất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và hoạt động sản
xuất phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có cả du lịch. Một trongg những yếu
tố quan trọng của môi trường sinh học là đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học

là một đặc tính quan trọng của mơi trường sinh học , có ảnh hưởng lớn đến tổ
chức các hoạt động du lịch, đặc biệt là hoạt động sinh thái, du lịch tham quan
nghiên cứu. Vì vậy nên các điểm du lịch sinh thái, cảnh quan có ý nghĩa quốc
gia và quốc tế ở Việt Nam gắn liền với các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, rừng văn hố, cảnh quan mơi trường.
Sự cố mơi trường là một trong những yếu tố mơi trường có ảnh hưởng
trự tiếp đến hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Nguyên
nhân của sự cố mơi trường có thể do các q trình tự nhiên như động đất sụt


lún, do vận động kiến tạo…Song cũng có thể do tác động của con người như
cháy rừng, tràn dầu, rò rỉ hố chất,…
Nhóm mơi trường du lịch thứ hai chính là môi trường du lịch nhân văn.
Môi trường du lịch này bao gồm những yếu tố của môi trường kinh tế - xã
hội và môi trường nhân văn. Đây là yếu tố cấu thành quan trọng của môi
trường du lịch, tạo ra những điều kiện cần thiết để phát triển du lịch. Môi
trường du lịch nhân văn được xem là thuận lợi khi các yếu tố văn hoá các giá
trị nhân văn đa dạng, có sức hấp dẫn, có trình độ văn minh và tri thức của
cộng đồng cao, tạo ra những điều kiện thuận lợi trong giao lưu văn hố giữa
khách du lịch và cộng đồng địa phương.
Mơi trường kinh tế - xã hội là một bộ phận của mơi trường du lịch nhân
văn, mơi trường du lịch có phạm vi rộng và bao gồm nhiều yếu tố, trong đó
phải kể đến đầu tiên là thể chế, chính sách. Đây là những điều kiện pháp lý
quan trọng cho việc phát triển du lịch.
Trình độ phát triển kho học cơng nghệ cũng là một trong những yếu tố
quan trọng, góp phần tạo nên môi trường thuận lợi cho phát triển du lịch.
Nhờ sự phát triển của khoa học, công nghệ sẽ tạo ra khả năng phát triển
những sản phẩm du lịch hiện đại và hấp dẫn, có khă năng cạnh tranh cao như
các cơng viên vui chơi giải trí hiện đại ; các bảo tang, tàu lặn biển…sự phát
triển của khoa học cơng nghệ cũng sẽ góp phần khai thác có hiệu quả tài

nguyên du lịch và hạn chế các tác động tiêu cực đến môi trường.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật không chỉ là yếu tố
quan trọng trong môi trường kinh tế - xã hội mà cịn chiếm một vị trí đáng kể
trong môi trường du lịch. Sẽ không thuận lợi đối với hoạt động phát triển du
lịch trong điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, kém
phát triển.
Yếu tố tổ chức quản lý xã hội cũng là yếu tố quan trọng có ý nghĩa như
động lực cho sự phát triển bền vững. Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và của nghành du lịch nói riêng, một cơ chế quản lý xã hội phù hợp sẽ


có ý nghĩa thúc đẩy tích cực. Trong trường hợp ngược lại, đó sẽ là lực cản
đối với sự phát triển.
Trật tự an toàn xã hội là một yếu tố quan trọng trong môi trường kinh tế
- xã hội để phát triển du lịch. Một xã hội văn minh phải được thể hiện ở trình
độ đảm bảo trật tự an tồn xã hội cho mọi cơng dân cũng như trong mọi mặt
hoạt động nói chung.
Mơi trường văn hố nhân văn là bộ phận của môi trường du lịch lien
quan trực tiếp đến con người và cộng đồng, bao gồm các yếu tố dân cư, dân
tộc, truyền thống và quan hệ cộng đồng, trình độ văn minh, chất lượng cuộc
sống dân cư.
Sự phong phú và đa dạng về văn hoá, dân tộc của một quốc gia, một
vùng lãnh thổ nào đó sẽ tạo được sự hấp dẫn và những điều kiện thuận lợi để
phát triển du lịch. Chính vì vậy, đứng trên quan điểm của mơi trường thì đó
sẽ là yếu tố tích cực của mơi trường du lịch.
Một trong những yếu tố của môi trường nhân văn là chất lượng cuộc
sống dân cư. Đây là cơ sở xã hội quan trọng cho sự phát triển môi trường du
lịch. Chất lượng cuộc sống dân cư được xem xét cả về vật chất lẫn tinh thần,
hai mặt này đều có liên quan chặt chẽ đến hoạt động du lịch. Chất lượng cuộc
sống được nâng cao sẽ thúc đẩy nhu cầu du lịch của nhân dân.

1.1.3. Vai trị của mơi trường đối với sự phát triển du lịch.
Môi trường sống của con người hiện nay là một trong những vấn đề
được quan tâm hang đầu của nhân loại. Mơi trường có ảnh hưởng rất lớn đến
cũng khơng thể nằm ngồi sự ảnh hưởng đó. Trong tình hình kinh tế xã hội
hiện nay nghành du lịch biết khai thác những nguồn tài nguyên tự nhiên và
tài nguyên nhân văn vào kinh doanh du lịch để góp phần làm cho nền kinh tế
nước nhà phát triển là đièu đáng khích lệ, nhưng việc bảo vệ môi trường ( cả
môi trường thiên nhiên và môi trường văn hố ) là một điều vơ cùng quan
trọng.


Như vậy, mơi trường du lịch có tốt thì mới tạo điều kiện, tạo thuận lợi
và là động lực thúc đẩy cho du khách đi tham quan và ngược lại phát triển du
lịch theo chiều hướng đúng đắn sẽ góp phần cải thiện mơi trường. Chính du
lịch cần phải là ngành có ý thức trách nhiệm quan tâm đến mơi trường rất
nhiều.
Một điểm du lịch hấp dẫn được hình thành từ rấ nhiều yếu tố. Nếu như
ở nơi đấy có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn có sức hút đối
với u khách rất lớn nhưng mơi trường du lịch lại bị ô nhiễm với rác thải,
nước thải, ăn xin, những hiện tượng văn hoá thiếu lành mạnh,…thì hoạt động
du lịch ở đây cũng khơng thể phát triển được.
Môi trường du lịch là yếu tố tạo điều kiện cho sự phát triển của du lịch.
Môi trường du lịch hấp dẫn, lành mạnh và trong sạch là một trong những bí
quyết của ngành du lịch muốn thu hút ngày càng đông khách du lịch trong
nước và quốc tế. Mặc dù vậy, thực trạng môi trường du lịch nước ta hiện nay
đang xuống cấp rất mạnh. Chính vì vậy vấn đề bảo vệ và tôn tạo môi trường
du lịch hiện nay là rất cấp thiết không chỉ riêng với ngành du lịch mà với
tồn xã hội.
1.2. Bảo vệ mơi trường du lịch là mục tiêu cơ bản của sự phát triển du
lịch bền vững.

Phát triển du lịch bền vững là mục tiêu mà bất kỳ khu du lịch nào
cũng mong muốn đạt được bởi vì đó “ là sự phát triển đáp ứng được các nhu
cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch
của thế hệ tương lai “. Phát triển du lịch bền vững cũng giống như sự phát
triển bền vững về kinh tế - xã hội nói chung, đều phải đạt được sự phát triển
đồng bộ trên cả 3 lĩnh vực : kinh tế, tài nguyên môi trường và văn hoá xã hội.
Đối với kinh tế, nếu như khơng quan tâm đến lợi ích của cộng đồng địa
phương thì sẽ khơng có lý do để họ bảo vệ những gì mà du khách muốn
chime ngưỡng và tận hưởng. Sự phát triển bền vững về mơi trường địi hỏi


việc sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, đảm bảo sự bảo tồn đa dạng sinh
học, khơng có những tác động tiêu cực đến môi trường.
Để phát triển du lịch bền vững phải chú ý đến rất nhiều vấn đề,
đặc biệt là môi trường. Phải phát triển và thực thi các chính sách mơi trường
hợp lý trong mọi lĩnh vực của du lịch. Trong hoạt động du lịch phải hạn chế
và giảm thiếu tối đa chất thải. Để đạt được điều đó thì phải thực hiện quản lý
tốt để đảm bảo việc hạn chế chất thải.
Bên cạnh việc thu lợi nhuận từ các hoạt động du lịch của các
doanh nghiệp du lịch và các cơ quan có chức năng thì cũng phải biết chia sẻ
lợi ích với cộng đồng địa phương, có như vậy mới đảm bảo được sự phát
triển toàn diện và bền vững. Thường xuyên tiến hành nghiên cứu để có
những đánh giá chính xác, kịp thời đưa ra các biện pháp bảo vệ và phục hồi
một cách kịp thời và có hiệu quả. Tăng cường hợp tác, hỗ trợ quốc tế trong
việc khai thác và bảo vệ môi trường giữa các tổ chức, cá nhân trong nước và
quốc tế.


CHƯƠNG II
SỰ THAY ĐỔI CỦA MÔI TRƯỜNG TẠI CỤM DI TÍCH PHỐ

HIẾN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
2.1. CỤM DI TÍCH PHỐ HIẾN - QUẦN THỂ DI TÍCH KIẾN
TRÚC NGHỆ THUẬT CÓ GIÁ TRỊ.
Từ Hà Nội theo quốc lộ 5 rẽ về con đường 39A, bạn sẽ đến thành phố
Hưng Yên, nơi có Phố Hiến một thời hưng thịnh.
Thành phố Hưng Yên hình thành và phát triển trên mảnh đất có từ lâu
đời, nằm bên tả ngạn song Hồng, cách thủ đơ Hà Nội 60km về phía Nam.
Phía Bắc giáp huyện Kim Động, phía Đơng giap huyện Tiên Lữ, phía Tây
giáp song Hồng, bên kia song là huyện Duy Tiên ( Hà Nam ).
Theo các nhà địa lý, vào thế kỷ 17, 18. Từ biển đến Thăng Long vùng từ
Nhân Dục đến Mậu Dương là gờ song tương đối cao ( 3 đến 4m) so với vùng
lân cận ( 1đến 2m ). Đó là nơi thuận tiện nhất để hình thành một tụ điểm
thương nghiệp. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập các điểm quần
cư từ Nhân Dục ( Hà Nam ) kéo dài đến Phố Hiến. Các điểm quần cư này
đều nằm ở bờ lồi khúc uốn của con sông Hồng. Hồ Bán Nguyệt mà du khách
sẽ gặp ở thành phố Hưng Yên đánh dấu lịng sơng cổ đó.
Phố Hiến xuất phát từ chữ Hiến, với các tên gọi là Hiến Danh hay Hiến
Nam, vốn là cơ quan hành chính của trấn Sơn Nam, đời Lê có thời đặt ở xã
Nhân Dục gọi là “ Cung cũ Hiến Nam “{ 1; 286 }. Lê Đình Kiên đã từng
chấn thủ Sơn Nam trong 40 năm từ 1664 – 1704 và dân làng đã dựng lên đền
thờ ơng tại Phố Hiến. Dấu tích nơi đó là miếu Ánh Linh Vương ngày nay.
Phố Hiến cịn có tên gọi là Phố Khách ( tức là phố của người Hoa ) hay
Vạn Lai Triều, trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí ( 1809 – 1821 ) cho
biết “ Trấn Sơn Nam phía Tây theo ven núi, phía Đơng gần bờ biển lớn nhất
Kinh Bắc, Hải Dương ở phía Bắc, Thanh Hố ở phía Nam. Địa thế chốn này
rộng xa , người nhiều, cảnh tốt là bậc nhất trong 4 thừa tuyên “.Đến đầu thế


kỷ XVII, Phố Hiến trở thành một thương cảng lớn ở trong nước, là cửa ngõ
về mậu dịch đối ngoại ở Đàng Ngồi.

Cùng với hang hố, người nước ngồi đã mang đến Phố Hiến những
phong tục tập quán, đặc sản của xứ họ. Cũng vì thế, Phố Hiến cịn có tên là
Vạn Lai Triều và dần trở thành đô thị sầm uất đông vui đứng sau Thăng Long
với câu ca “ Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến “.
Năm tháng qua đi, đến nay đã thế kỷ. Trải qua bao đổi thay biến cố của
thiên nhiên và xã hội. Qua những thăng trầm của lịch sử đất nước, quê hương
Phố Hiến vẫn cịn tiềm ẩn nhiều di sản q báu, ẩn chứa bao dấu tích lịch sử.
•Đình:
Quần thể di tích Phố Hiến có 7 ngơi đình. Đình lúc đầu vốn là loại
hình kiến trúc mang tính chất dịch trạm của Trung Quốc. Theo tín ngưỡng
của người Việt, trong gia đình thờ cúng tổ tiên, thờ thổ thần, xóm có thần
xóm, làng có thần làng, thần làng có thể là thần sơng, thần núi, là người có
cơng dựng làng, giữ nước, là tổ nghề của làng gọi chung là Thành Hồng
được thờ ở Đình.
Ở Phố Hiến có đình Phương Độ, đình Nễ Độ thuộc phường Hồng
Châu, Thành phố Hưng Yên. Đây là những ngơi đình có quy mơ nhỏ. Đình
Cao Xa, phường Lam Sơn được xây dựng từ thời Nguyễn có kiến trúc kiểu
chữ Cơng ( I ) thờ Trưng Nữ Vương, đình Tân Khai cũng thuộc phường Lam
Sơn được xây dựng từ thời Nguyễn. Đình thuộc thơn Nễ Châu, phường Hồng
Nam. Đình có kiến trúc kiểu chữ Đinh ( J ), thờ Cao Sơn Trung Quốc Linh
Lang Đại Vương. Đình Hiến thuộc xã Hồng Châu – Thành phố Hưng Yên là
nổi tiếng hơn cả. Đình được xây dựng thời Hậu – Lê ( thế kỷ XVI ), kiến trúc
đình kiểu chữ Đinh. Đây là nơi thờ quan thái giám họ Du ( quan nhà Tống,
Trung Quốc ), người từng phục vụ nhiều năm trong triều đình nhà Tống, có
cơng tôn tạo đền Dương Quý Phi (đền Mẫu ) và xây dựng quê hương thứ hai
này cùng người Việt. Đình có quy mơ tương đối lớn, mang nét chung của
đình làng Việt Nam. Ngơi đình gồm 5 gian khá cao to.


Đình là di tích kiến trúc có ý nghĩa lớn, cung cấp những nguồn xử

liệu kiến trúc ở Phố Hiến, vừa là cơng trình có giá trị thẩm mỹ cao.
•Đền :
Phố Hiến có số lượng đền khá lớn, có đến 27 ngơi đền, chiếm gần ½ di
tích kiến trúc ở Phố Hiến. Đền là nơi thờ thần, thờ thánh, bên cạnh đó đền
được hình thành trên mảnh đất có ghi dấu giá trị lưu niệm của các anh hung
dân tộc như đền thờ Trần Hưng Đạo ; đền Mây thờ Phạm Phòng Át là một
trong 12 thủ lĩnh quân sự thời Ngô Quyền thé kỷ X. Dưới đây là một số ngơi
đền có kiến trúc tiêu biểu :
- ĐỀN THIÊN HẬU :
Thuộc phố Trưng Trắc - Phường Quang Trung – Thành phố Hưng
Yên. Thiên Hậu là chữ được phong của Lâm Tức Mặc ; con gái thứ 6 của
Lâm Nguyên, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
Theo truyền thuyết, khi sinh ra , Lâm Tức Mặc có hương thơm
ngào ngạt hào quang rực rỡ. Khi lớn lên có phép màu bay trên biển. Thời
Khang Hy phong làm Thiên Phi, sau gia phong Thiên Hậu.
Lâm Tức Mặc là thần hang hải của người Phúc Kiến. Người
Phúc Kiến di cư đến đâu thì mang theo thần tích về lập đền thờ ở đó. Khi
người Phúc Kiến di cư đến Phố Hiến, lập đền thờ ở phố Trưng Trắc - phường
Quang Trung – thành phố Hưng Yên. Đền thờ được xây vào năm 1540 theo
kiến trúc Phúc Kiến trên nhiều phương diện như : Tam quan, cổng chính,
ngói, đao góc và hầu hết các vì nóc. Qui mơ đền vào tầm trung bình, nay cịn
tam quan , giải vũ, thiên hương và đền chính, đền kiến trúc kiểu nội cơng
ngoại quốc. Riêng tam quan có sự đan xen giữa kiến trúc Việt Nam và Phúc
Kiến thế kỷ XVII. Theo tương truyền, thì ngơi đền được làm sẵn ở Phúc
Kiến, sau đó vận chuyển theo đường biển sang Phố Hiến. Đền do 40 dòng họ
người Hoa ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đơng qun góp xây
dựng.
Đền Thiên Hậu là cơng trình kiến trúc tiêu biểu giữa người Hoa



Và người Việt ở Phố Hiến. Đền có nhiều cổ vật giá trị. Tại Thiên Hậu
cung ở Phố Hiến còn lưu lại 2 cuốn sách nói về sự tích của bà là : “ Thiên
Hậu Thánh Mẫu Thánh Tích Đồ Chí “. In lần thứ 2 vào năm Hàm Phong thứ
3 ( 1853) và cuốn “ Thiên Hương Thánh Mẫu Cứu Khổ Chân Kinh “ in năm
Thành Thái thứ 19 ( 1907).
Đền Thiên Hậu ở thành phố Hưng Yên, đã được xếp hạng di tích lịch sử
văn hố theo quyết định số 3959/ BVHTT ngày 02/ 01/ 1992 của

Bộ Văn

hoá – Thông tin.
- ĐỀN TRẦN
Thuộc phố Bãi Sậy - phường Quang Trung – Thành phố Hưng Yên.
Theo nhân dân địa phương cho biết, đền được xây dựng từ thời rất xưa,
trước kia nhỏ. Đền thời Tự Đức thứ 16 ( 1863 ), đền được trùng tu, đến đời
vua Thành Thái ngôi đền được sửa lại một lần nữa.
Đền Trần được toạ lạc trên một khu đất hình chữ nhật, chiều dài là
34,4m, rộng 13,6m. Cửa đền quay về hướng Tây, nhìn ra phố Bãi Sậy và bên
kia là Hồ Bán Nguyệt, mang ý nghĩa về quy luật âm dương, sự đối đãi, thể
hiện sự phát sinh phát triển. Đền Trần có kiến trúc kiểu chữ Tam.
Tam quan đền Trần được xây dựng theo khổ đất. Kiến trúc của Tam
quan theo kiểu chồng diêm. Cửa chính xây cuốn cao 4m, rộng 2,63m. Trên
cổng chính, phía ngồi đắp 4 chữ nổi : “ Kiếm khí đầu ngang “. Các guột của
các mái cổng con và 8 mái cổng chính đều được tạo tác hình cong mềm mại,
Qua tam cấp, vào đến sân đền, sân đền rộng gần 200m. Bên trái sân,
ngay sát tam quan có cây nhãn cổ thụ, phía trước cửa đên có 2 con sư tử bằng
bê tơng cao 1,6m. Hai con sư tử được bố trí song song và quay nhìn vào tam
quan. Trong ý thức của người Việt Nam nó tượng trưng cho sức mạnh của
tầng trên, biểu hiện cho sự trong sang, đồng thời là biểu tượng của trí tuệ.
Phần nội thất đền Trần được xây theo kiểu chữ Đinh, chiều dài 18,37m, rộng

12,35m. Đền chính được chia làm 4 phần : Hiên, đại bảo, trung từ và hậu
cung.


Đền Trần là nơi gửi gắm tâm tư tình cảm của nhân dân Việt Nam đối
với anh hung Trần Hưng Đạo. Nó giáo dục lịng u nước đối với các thế hệ
“ăn quả nhớ kẻ trồng cây “.
- ĐỀN MẪU
Để giữ trọn khí tiết, lịng thuỷ chung với vua và trung thành với tổ quốc
bà đã nhảy xuống biển tự tận khi bị giặc Nguyên Mông truy đuổi. Xác của bà
khơng trơi theo dịng nước mà lại chẩy ngược dịng và trôi dạt vào vùng Phố
Hiến, được nhân dân ở đây chôn cất và lập miếu thờ.
Đền Mẫu được toạ lạc trên một vùng đất rộng gần 3000m2, quay về
hướng Tây Nam, phía trước là Hồ Bán Nguyệt, xa xa là đê sơng Hồng tạo
cho di tích một vẻ đẹp linh thiêng và cổ kính. Theo sách Đại Nam nhất thống
chí: Đền được xây dựng dưới triều vua Trần Nhân Tông, niên hiệu
Thiệu Bảo thứ nhất (1279). Qua thời gian ngôi đền không ngừng được trùng
tu và xây dựng thêm. Vào năm Thành Thái thứ 8 (1896) đền Mẫu được trùng
tu lớn và có quy mơ như ngày nay. Đền được xây dựng theo bố cục
tiền nhất hậu đinh gồm các hạng mục chính như: Nghi mơn, đại bái, trung
từ , hậu cung. Ngồi ra cịn có phủ Đơng, phủ Tây, nhà Oản (nhà sắp lễ).
Tồn bộ cơng trình được bài trí hài hào và được xây dựng bằng nguyên liệu
bền vững như: gỗ lim, vôi mật, xi măng tạo nên một khu di tích khang trang
thống đãng. Nghi mơn đền được xây dựng rất bề thế với chiều dài là 16,9m,
kiến trúc chồng diên 2 tầng 8 mái. Cửa đền được xây dựng theo kiểu vòm
cuốn gồm 1 cửa chính và hai cửa phụ, cửa chính cao 7m đắp hình ngói ống,
tầng trên cửa Nghi mơn đắp bức đại tự “Thiên hạ mẫu nghi” và được nghép
bằng các mảnh gốm lam (đây là nét trang trí điển hình của kiến trúc thời
Nguyễn).
Qua nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ gần 1000 năm tuổi đó

là sự hội ngộ của 3 cây đa- sanh –si quấn quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng
vững chắc bao trùm toàn bộ ngơi đền tăng thêm vẻ thâm nghiêm, cổ kính cho
di tích. Đền Mẫu có khơng gian và kiến trúc đẹp, đã được Bộ Văn hố Thơng


tin cơng nhận là di tích “kiến trúc nghệ thuật” năm 1990. Ngồi cảnh quan
đẹp và kiến trúc cổ kính ra trong đền còn lưu giữ nhiều di vật quý như: Kiệu
võng, long đình, long sàng, long đại có niên đại thế kỷ 18- 19 và 15 đạo sắc
phong từ triều Lê đến triều Nguyễn, cùng nhiều bức hoành phi câu đối, đại tự
ca ngợi sự trinh tiết và trung thành của Quý Phi.
Lễ hội đền Mẫu được diễn ra từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch
hàng năm. Trong hội thường diễn ra các hoạt động văn hoá dân gian như;
rước kiệu, múa lân, múa rồng, rước nước... rất long trọng và được diễu qua
nhiều đường phố tạo nên một khơng khí tưng bừng mang đậm bản sắc văn
hoá dân tộc.
Đền Mẫu từ khi được thành lập đến nay ngày càng trở lên linh thiêng và
thu hút được đơng đảo du khách trong và ngồi tỉnh đến hành hương chiêm
bái cầu phúc, cầu lộc, cầu tài .... Khơng chỉ vào chính hội, mà vào những
ngày rằm, mồng 1 âm lịch hàng tháng lượng người đến thắp hương lễ bái và
thăm quan cũng rất đông. Theo thống kê của ban quản lý đền từ đầu năm đến
nay có hàng vạn lượt khách trong và ngoài nước đến thăm quan và dâng
hương.
Đền Mẫu đang là chính là điểm đến của du lịch văn hoá tâm linh, đến
với đền mẫu du khách cịn có thể đi thăm quan nhiều n ững di tích lịch sử
khác, nằm trong quần thể khu du lịch Phố Hiến
- ĐỀN MÂY
Nhắc đến Hưng Yên, ta không thể không kể đến đền Mây, bởi từ lâu
ngôi đền này đã nổi tiếng với câu ca:“Trăm cảnh nghìn cảnh, khơng bằng
Bến Lảnh, đị Mây”
Nằm ẩn mình dưới bóng cây đa cổ thụ hàng trăm năm tuổi, xa xa là

dịng sơng Hồng chảy cuồn cuộn mang phù sa bồi đắp cho vùng đất Đằng
Châu - Hưng Yên, đền Mây được biết đến với cảnh vật nên thơ, hữu tình đậm
chất linh thiêng, là điểm đến đầy hấp dẫn cho du khách. Theo lời kể của
người dân địa phương, đền Mây được xây dựng vào thời Đinh – Tiền Lê và


được trùng tu vào thời Nguyễn.Đền thờ Phạm Bạch Hổ - một vị tướng tài ba,
anh hùng dân tộc có công đánh giặc cứu nước.
Tương truyền ngôi đền từ lâu đã linh thiêng, trong sách cổ đã ghi chép
về câu chuyện vua Lê Ngọa Triều xưa khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng
Châu thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm bơi thuyền ở khúc sông trước
cửa đền bỗng gặp mây kéo đến, gió thổi mạnh, trời tối đen. Nhà vua tìm nơi
trú ẩn, thấy bên bờ sơng có đền liền hỏi dân làng rằng đền thờ thần gì; dân
làng đáp đền thờ Thần Thổ Địa rất linh thiêng. Vua còn chưa thực sự tin vào
sự linh thiêng của ngơi đền này liền nói to rằng “Thần nếu khiến được mưa
gió thì nay thử khiến cho bên này sơng tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật
là thiêng”. Vua nói xong quả đúng như vậy liền lấy làm lạ mới sai tu bổ đền
thờ. Có thể nói đây là một câu chuyện về sự linh thiêng làm minh chứng sống
động cho một niềm tin bất diệt về sự bảo trợ của vị thần Đền Mây.
Đền Mây là ngôi đền có nhiều giá trị văn hóa đặc sắc cịn lưu giữ đến
tận ngày nay với 27 pho tượng cổ mang phong cách thời Hậu Lê được thờ
trong đền. Nhìn vào các pho tượng đó, ta thấy được sự sáng tạo không mệt
mỏi của những nghệ nhân, thấy được giá trị mỹ thuật của từng thời kỳ lịch
sử, với những đường nét trên khn mặt pho tượng mềm mại, uyển chuyển;
có những đường nét được điêu khắc đến mức tinh xảo, điêu luyện.Ngồi ra,
trong đền cịn có các bức cửa võng, đại tự, hoành phi, câu đối, nhang án, ngai
kiệu mang nhiều giá trị đặc sắc và vô cùng quý hiếm. Tiêu biểu là bức đại tự
khảm trai lớn có ghi bốn chữ Hán “Thái Bình Vương phủ” và bức trâm của
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh ca ngợi cảnh đẹp và sự linh thiêng của ngơi đền.
Những hiện vật đó đến nay còn được lưu giữ tại đền Mây mang những nét

hoa văn sống động, được chạm khắc rất tỉ mỉ, kì cơng.Lễ hội chính là đỉnh
cao kết tinh những giá trị văn hóa đặc sắc.
Lễ hội đền Mây là một trong những lễ hội hội tụ nhiều nét văn hóa
truyền thống của người dân Hưng Yên. Hàng năm, đền Mây thường tổ chức
lễ hội vào ba dịp là: Từ 8 - 16 tháng Giêng (ngày sinh của tướng quân), từ 12


- 18 tháng 11 (ngày mất) và từ 16 - 24 tháng 6 âm lịch (ngày mất của thân
phụ Phạm Bạch Hổ). Việc chuẩn bị lễ hội diễn ra từ đầu năm và có khi kéo
dài cả năm. Gia đình nào được Giáp mình tin tưởng giao cho trọng trách thì
phải chuẩn bị là một con lợn ỉ thật đẹp, một con gà sống thiến béo, gạo nếp
ngon để gói bánh trưng, bánh dày. Đến ngày lễ chính (16/11), các Giáp đưa lễ
vật lên kiệu rước ra đền để thi, sau đó tổ chức tế và rước kiệu thành hồng đi
vòng quanh làng. Trong những ngày diễn ra lễ hội, đền Mây có treo một lá cờ
đại ghi chữ “Phạm” lớn.Sau phần Lễ chính là phần Hội.
Hội làng thường diễn ra hát trống quân, hát chèo… và nhiều trò
chơi dân gian truyền thống mang đậm nét văn hóa đặc sắc như: đấu vật, múa
lân, đánh trống ngũ liên, đánh cờ người, chơi trọi gà, thi kéo co…Ngày nay
do điều kiện thay đổi, dân làng vẫn tổ chức lễ hội vào ba dịp trong năm
nhưng quy mô nhỏ hơn. Đến với lễ hội Đền Mây ta mới thấy hết được những
nét giá trị văn hóa đặc sắc của vùng đất Phố Hiến. Lễ hội đền Mây đã khơi
dậy tình đồn kết cộng đồng, khẳng định những giá trị văn hóa tinh thần của
làng xã, thể hiện sự biết ơn với vị anh hùng dân tộc. Lễ hội còn lưu giữ được
những trò chơi dân gian truyền thống của các tỉnh miền Bắc, thu hút người
chơi tham gia và dân làng đến xem cũng như các du khách thập phương về
đây tham quan, tham gia lễ hội và thưởng ngoạn khung cảnh trữ tình của đền
Mây.
•Chùa
CHÙA HIẾN
Khu di tích đình, chùa Hiến là một trong những di tích nổi tiếng, hàng

năm thu hút được hàng vạn lượt du khách về tham quan, chiêm bái. Chùa
Hiến có tên gọi "Thiên Ứng" là niên hiệu của vua Trần Thái Tông (12321250). Tương truyền chùa được khởi dựng vào cuối thời Lý, đầu thời Trần.
Trải qua nhiều lần tu sửa, ngôi chùa vẫn giữ được những nét kiến trúc nghệ
thuật thời Lê đan xen Nguyễn. Chùa Hiến được xây dựng ở hướng Nam, là
hướng "bát nhã", trí tuệ của nhà Phật, có bố cục kiến trúc kiểu “nội công


ngoại quốc”, gồm tiền đường, thiêu hương, thượng điện và ba mặt là hành
lang. Giữa thượng điện là tượng Quan Âm Nam Hải ở thế ngồi, có tám đơi
tay, bố trí đăng đối. Đầu tượng đội mũ chạm hoa cúc, sen, phù dung. Phía
trước là tượng tứ vị bồ tát ngồi trên tịa sen, khn mặt đầy đặn, trang
nghiêm. Các pho tượng này đều có niên đại thế kỷ 19. Việc thượng điện đặt
ban thờ nổi bật tượng Quan âm cùng tứ vị bồ tát thể hiện tâm lý sùng bái vị
thần có nhiều phép cứu giúp chúng sinh trên sông, biển và cũng là điểm khác
biệt về tâm linh thờ Phật của chùa Hiến với những ngôi chùa nằm trong tổng
thể di tích trên địa bàn tỉnh.
Phía trước sân chùa Hiến có hai tấm bia đá lưu giữ nhiều tư liệu
lịch sử nói lên q trình tụ cư của thương cảng Phố Hiến. Tấm bia “Thiên
ứng tự - Tân tự trùng tu kí thạch bi” niên đại Vĩnh Tộ thứ 7 (1625) ghi việc
hưng cơng tu sửa chùa, có thể xếp chùa vào hàng thứ năm sau bộ “tứ đại khí”
thời Lý. Bia ghi nhận “Phố Hiến nổi tiếng là nơi đô hội tiểu Tràng An của
bốn phương” và trụ sở Ty Hiến sát Trấn Sơn Nam đóng ở đất Hoa Dương.
Tấm bia “Thiên ứng tự - bi ký công đức tùy hỷ” dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 5
(1709) ghi việc góp cơng tu sửa chùa. Qua đó chúng ta có thể hình dung
được khung cảnh của đơ thị Phố Hiến, nơi hội tụ của nhiều cư dân người Việt
và kiều dân nước ngoài ( chủ yếu là người Hoa) sản xuất và buôn bán.
Bên cạnh chùa Hiến là đình Hiến hay cịn gọi là đình Hoa Dương,
đình tơn thờ vị thành hoàng làng Mậu Dương là quan thái giám họ Du thời
nhà Tống. Ông là người từng phục vụ nhiều năm trong triều đình nhà Tống,
có cơng trong việc khởi sự việc phụng thờ bà Dương Quý Phi (Đền Mẫu,

Quang Trung, thành phố Hưng Yên). Đặc biệt, ông đã có cơng lao hướng dẫn
nhân dân trong làng làm nghề buôn bán, canh nông, trồng trọt, đánh cá, nhân
dân nhờ vậy mà sống ấm no, hạnh phúc.
Đình Hiến được xây dựng vào cuối thế kỷ 13, mang đậm phong
cách nghệ thuật hậu Lê với kiểu kiến trúc chữ đinh, gồm 5 gian tiền tế và 3
gian hậu cung. Lễ hội hàng năm được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch để


nhân dân và du khách thập phương đến vãn cảnh chùa và đình Hiến thể hiện
tín ngưỡng tâm linh.
Một điều thú vị nữa, trong sân chính của khu di tích có "hậu duệ"
cây nhãn tổ có niên đại hơn 300 năm tuổi. Xưa kia, thân cây nhãn chính có
chu vi vịng tay 3 người lớn ơm khơng xuể, sau trận bão năm 1947 cây nhãn
chính đã bị mục ruỗng, cịn lại một nhánh nhỏ, được người dân vun trồng,
chăm bón. Đây là sản vật quý, cũng là linh hồn của Phố Hiến vì nhãn lồng
Hưng Yên nức tiếng xa, gần với giống nhãn đường phèn, mã lụa, quả to, cùi
mọng, hạt nhỏ. Nhá bác học Lê Quý Đôn từng thưởng thức và miêu tả: “Mỗi
lần bỏ vào miệng thì tận trong răng lưỡi đã nảy ra vị thơm tựa như nước
thánh trời cho". Nhãn được trồng ở nhiều nơi trên đất nước nhưng bén duyên
với mảnh đất Hưng Yên và là đặc sản tiến vua. Loại nhãn cho quả sai trĩu,
khi chín cho hương thơm lan tỏa khắp đất trời. Dơi, chim chóc từ mọi nơi
bay đến ăn nhãn, vì vậy, người dân phải đan lồng tre để bảo vệ, tên gọi nhãn
lồng ra đời từ đấy. Nhưng cũng có cách lý giải khác, khi ta bóc một quả nhãn,
thấy cùi nhãn màu trắng đường phèn xếp lồng vào nhau, hương thơm dịu
nhẹ, cũng là cách để gọi tên nhãn lồng. Năm 1992, Hội Làm vườn Việt Nam
đã công nhận kỷ lục Guinness ngơi chùa có cây nhãn tổ đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày nay, đình, chùa Hiến, nơi hiện hữu "hậu duệ" cây nhãn tổ là điểm
tham quan, chiêm bái không thể thiếu của du khách. Về với mảnh đất từng
nổi danh: "Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến", ta thỏa sức đắm mình trong
văn hóa tâm linh, của những truyền thuyết linh thiêng, và huyền bí...

CHÙA PHỐ
Nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, ngơi chùa do người Trung Hoa
xây dựng và mang những phong cách kiến trúc độc đáo, khác lạ vào khoảng
thế kỷ 18 Các ngôi chùa ở Phố Hiến mang phong cách kiến trúc thuần Việt
như: Chùa Chng, Chùa Hiến, chùa Nễ Châu... thì chùa Phố có sự kết hợp


giữa các phong cách kiến trúc truyền thống Việt Nam, Trung Quốc và
phương Tây với các hạng mục cơng trình như: Tam quan, tiền đường, thiêu
hương, thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu...
Tam quan chùa xây dựng kiểu chồng diêm hai tầng tám mái. Tòa tiền
đường gồm 03 gian, kiến trúc vì kèo khá đơn giản. Tịa thiêu hương 03 gian
nhưng được kiến thiết kiểu vịm cuốn, có sự ảnh hưởng phong cách mỹ thuật
trung cổ phương Tây, mang dấu ấn của nhà thờ Kitô giáo. Ba gian thượng
điện kiến trúc theo kiểu giá chiêng chồng rường hai hàng chân cột. Phần
trung tâm của thượng điện được xây kiểu chồng diêm. Mang đậm sắc thái
dân tộc nhất là ở tất cả các đao mái của phần dưới và phần trên đều được tạo
dáng hình cong, hình rồng mớm phượng cách điệu.
Hiện tại, chùa còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật có giá trị như:
Hệ thống tượng Phật cổ được làm bằng gỗ và bằng đất, những bát hương
được làm bằng đá, chuông đồng, hệ thống các bức đại tự, câu đối được sơn
son thiếp vàng...
Với những kiến trúc độc đáo, vẻ đẹp uy nghiêm, Chùa Phố ngày
nay nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, không chỉ thu hút rất nhiều tín đồ
phật tử đến hành lễ mà cịn là điểm thu hút khách tham quan du lịch khi về
thăm quần thể di tích Phố Hiến.
- CHÙA CHNG
Khơng chỉ nổi tiếng là một địa danh tâm linh trong quần thể di tích lịch
sử Phồ Hiến, chùa Chng cịn hiện diện như một danh thắng đẹp của Hưng
Yên, đẹp đến nao lòng du khách. Chẳng thế mà “Hưng Yên tỉnh nhất thống

chí” của Trịnh Như tấu có viết: “Chùa Chng – phố Hiến đệ nhất danh
lam”.
Đến thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên, hỏi
đường về chùa Chuông, từ xa, du khách sẽ được chiêm ngưỡng chiếc cổng


tam quan cổ kính với ba tầng lầu lộng lẫy, kết hợp giữa lối kiến trúc truyền
thống của dân tộc và phong cách mỹ thuật Trung Quốc.
Qua tam quan uy nghi, sẽ đến chiếc ao mắt rồng với dòng trong, dòng
đục. Đi trên cầu đá xanh gồm ba nhịp được dựng từ năm 1702, bước qua đơi
dịng trong đục, ta như thấy được ta trọn vẹn, thấy như đang gột rửa được bụi
trần để đi gần về phần “người” trong ta hơn.
Bước tới sân chùa, du khách sẽ được đắm mình trong một khơng gian
rộng rãi, thống đãng với cây cối tốt tươi, xanh mát, có chim chóc líu lo và
bóng chùa ẩn hiện. Sân chùa được lát hồn tồn bằng gạch bát tràng, giữa
sân, con đường nhất chính đạo lát đá xanh rì chạy thẳng đến nhà tiền đường.
Theo quan niệm của nhà Phật thì nhất chính đạo là con đường duy nhất giúp
người ta giải thoát khỏi bể khổ. Đi trên con đường ấy, mọi ưu tư, muộn phiền
đè nặng tâm trí, mọi khổ hạnh trần tục như đang dần được tiêu tan. Ta như
thanh thản đứng giữa đất trời, lịng rộng mở đón chào những thanh âm trong
trẻo.
Khơng chỉ có cảnh trí thống đãng, xanh tươi, chùa Chng cịn hấp
dẫn bởi một hệ thống tượng Phật độc đáo, đẹp mắt và vô cùng phong phú.
Nổi bật nhất trong số đó là 8 bức tượng Kim Cương, 18 bức tượng La Hán, 4
bức tượng Bồ tát chạy dọc theo hai dãy hành lang. Các tượng đều làm từ đất
sét và được các nghệ nhân tạo tác rất công phu, trong tư thế ngồi thoải mái,
nét mặt thể hiện sâu sắc tâm trạng buồn vui, ưu tư hay thoát tục sinh động.
Chùa cịn có phù điêu Thập điện Diêm Vương tả lại 10 nhục hình mà Diêm
Vương trừng phạt các tội đồ khi về thế giới bên kia và hai động Phật bằng đất
mơ tả q trình tu hành đắc đạo của đức Phật. Đứng giữa hai thái cực của

những nhục hình và sự siêu thốt, ta như ngộ được cho mình con đường sống
chân chính nhất để đi tới hạnh phúc.
Trong số các cổ vật còn lại đến ngày hơm nay, đặc biệt chùa Chng
cịn lưu giữ được tấm bia đá mang tên Kim Chung tự thạch bia ký, được


dựng từ năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711) và cây hương đá “thạch trụ” ghi lại
cảnh đẹp của Phố Hiến xưa và công đức của nhân dân tu sửa chùa. Hiện nhà
chùa còn tiếp tục cho tu sửa một số hạng mục bên ngoài chùa nhằm khiến
cho cảnh quan thêm hấp dẫn du khách.
Xuân về, đến chùa Chuông vãn cảnh, chiêm bái và lễ Phật, du khách
sẽ thêm một lần thấy lịng mình như được gột rửa khỏi những gánh nặng
hồng trần để nhẹ nhàng trở về với những quay cuồng của cuộc sống hiện tại.
Và rồi sẽ được thêm hiểu, thêm yêu về vùng đất Hưng Yên văn hiến từng nổi
tiếng một thời “thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì phố Hiến”.
•Văn Miếu Xích Đằng
Người Hưng n ln tự hào có di tích Văn Miếu Xích
Đằng là nơi hội tụ những yếu tố tinh hoa trí tuệ, học vấn.Văn Miếu Hưng
Yên mang tên Xích Đằng bởi xưa kia được dựng trên nền ngơi chùa cổ
Nguyệt Đường tại thơn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.
Theo truyền ngôn của người dân, ngơi chùa có tới 36 nóc, được Hương Hải
thiền sư khởi dựng năm 1701. Trải qua thăng trầm của thời gian và biến cố
của lịch sử, ngôi chùa khơng cịn nữa nhưng dấu tích vẫn cịn lưu lại đến
ngày nay là hai mộ tháp đá: Phương Trượng tháp và Tịnh Mãn tháp.
Văn Miếu Xích Đằng là nơi tơn thờ Đức Thánh Khổng Tử người sáng lập ra đạo Nho, cùng các học trò giỏi của Ngài: Mạnh Tử, Tăng
Tử, Tử Tư, Nhan Tử. Phối thờ trong gian chính là tượng thầy giáo Chu Văn
An, nhà sư phạm tài năng đức độ thời Trần, được lịch sử tôn vinh là "ông tổ
đạo Nho của nước Nam ta". Hai bức tượng đồng lấy mẫu tượng từ Văn Miếu
Quốc Tử Giám và được cung tiến năm 2003.
Theo bài văn khắc trên chng thì từ năm 1804 Hưng n đã có

Văn Miếu, nhưng phải đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839) Văn Miếu Xích
Đằng mới được xây dựng lại với quy mơ to đẹp, bề thế như ngày nay.


×