Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

5 Bài cảm nhận về vẻ đẹp của người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.69 KB, 17 trang )

Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

VĂN MẪU LỚP 12: VỢ NHẶT - KIM LÂN
5 BÀI “CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP NGƯỜI VỢ NHẶT TRONG TÁC
PHẨM VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN”
BÀI MẪU SỐ 1:
Kim Lân là cây bút chuyên về đề tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh một cách chân
thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm
lí của họ. Một trong những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác
phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi về sức sống
và niềm tin của con người Việt Nam. Trong truyện ngắn này Kim Lân đã xây dựng thành
cơng hình tượng người “vợ nhặt” – một hình tượng nghệ thuật độc đáo mang lại nhiều vẻ
đẹp khuất lấp cần khám phá.
1. Khái quát: Tâm sự về hoàn cảnh ra đời của “Vợ nhặt” Kim Lân nói:
“Ban đầu tơi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tơi viết đến chương thứ V thì dừng
lại. Sau khi hồ bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ
cư có một đoạn ln ám ảnh tơi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở
vùng quê người ta ra chợ nhặt xác người đi chơn. Tơi viết lại chương đó thành truyện ngắn
Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ”. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí”.
Bối cảnh của truyện là nạn đói năm 1945, người chết đói như ngả rạ. Từ Quảng Trị đến Bắc
Kỳ đã có trên hai triệu người chết. Tràng, một thanh niên nghèo khổ làm nghề đẩy xe bị
th. Giữa nạn đói đang diễn ra, Tràng dắt một người đàn bà về làm vợ. Cả xóm ngụ cư
ngạc nhiên, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên và ngay cả bản thân Tràng cũng không tin đó
là sự thật.
a. Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trơi nổi, bấp bênh:
Dưới ngịi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ không tên không tuổi, không
quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ khơng thể đặt
cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trơi trong nạn đói, là cành củi khô trôi dạt
vào cuộc đời Tràng, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ
được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này


để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
- Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
+ Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi
trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc: “Muốn ăn cơm trắng

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 1


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị: “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít
mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
+ Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao:
“áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng
hốy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội
nghiệp hơn nữa. Cái đói khơng chỉ tàn hại dung nhan của thị mà cịn tàn hại cả tính cách,
nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên: “chao chát”,“chỏng lỏn”,“chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong
cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng
tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng: “sà xuống cắm
đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình,
đặt miếng ăn lên trên nhân cách. (So sánh thêm với Đói – Thạch Lam)
b. Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía sau tình cảnh trơi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt”
lại có một lịng ham sống mãnh liệt. Lịng ham sống, khát vọng sống đã thơi thúc thị
đồng ý theo Tràng:
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa: “có muốn theo tớ về nhà thì ra khn đồ lên xe rồi ta
cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng
ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc

tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải
chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo
Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất
chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng (“theo trai” –
chữ dùng của Kim Lân). Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là
loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại,
thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống
của thị chính là một phẩm chất rất đáng q. Nói như Kim Lân: “Trong hồn cảnh khốn
cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
c. Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là
một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều:
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng
sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ.
Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bơng đùa, chịng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị
ngượng nghịu, thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa
khn mặt”. Đó phải chăng là vẻ đẹp của cơ dâu về nhà chồng.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 2


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngơi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng
nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao
rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo

toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được
trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lịng của thị thật
đáng q biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp
bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào
đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ
chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
d. Vẻ đẹp khuất lấp còn thể hiện bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại
là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan, có ý thức xây dựng hạnh phúc
gia đình.
+ Sau đêm tân hơn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hồn tồn về tâm trạng và tính cách. Thị
dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ
nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hơm nay thị lại hiền
lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị
hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực khơng cịn vẻ gì chao chát,
chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật
của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình u đích thực với sức nhiệm
màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi
người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lịng.
Thị đã đem sinh khí, thơng tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống
thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta khơng chịu
đóng thuế nữa đâu. Người ta cịn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự
hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa
chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ
to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là: Người truyền tin cách
mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở
đây. Cũng qua hình ảnh người vợ nhặt và nhan đề độc đáo ấy, Kim Lân đã góp tiếng nói lên

án, tố cáo tội ác tày trời của bọn phong kiến, phát xít, thực dân đã đẩy dân tộc ta vào hoàn
cảnh khốn cùng. Giá trị của một con người trở nên rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ,

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 3


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

thậm chí có vợ theo. Nhưng con người Việt Nam dù trong hoàn cảnh nào họ cũng biết yêu
thương, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau để hướng về tương lai hi vọng trông chờ.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo;
diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với
tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã
thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn
cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai tươi đẹp hơn.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 4


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 2:

Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ
là một người làm nên chính cái tên của truyện lại khơng có tên, khơng biết tuổi. Đó chính là
vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng
thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận
khơng thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải
chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền
thục của bà cụ Tứ?
1.Lai lịch, ngoại hình
– Vợ Tràng là người đàn bà khơng rõ lai lịch, khơng có gia đình, khơng có nhà cửa. Cơ ta
thậm chí khơng có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ
có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà
thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho
thóc Liên đồn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có cơng việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn
đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người khơng tên,
khơng tuổi, cịn biết bao chị gái như thế.
– Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị
mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta khơng
nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hơm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là
phải.
2.Tính cách
– Khi mới gặp Tràng:
+Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu
cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bị với anh nì), thị đã
cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai,
khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa
nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn.
Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hốy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn
thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì. Ăn xong, thị cầm
dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.

+Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo
Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả
chỉ để được… ăn!

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 5


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

– Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì
phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị
lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng
che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa,
bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn
bây giờ, thị đang về nàh chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận
mình, là người vợ theo khơng. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn
và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
+Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên
đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị
có vẻ khó chịu lắm, đơi lơng mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm
chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tị mị, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ
diíucả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu
trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự
dịm ngó của mọi người.
+Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tị mị của nàng dâu mới. Thị
đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ

mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà
cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng
rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hồn cảnh của thị đã
khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng
dâu, nhìn thị lịng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút
trước đó cả hai đều hồn tồn xa lạ.
+Sáng hơm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy sớm,
lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra
sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu
đúng mực khơng có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngồi tỉnh. Khơng những
thế, thị cịn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngồi
đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể
cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta khơng chịu đóng thuế
nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc
rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo
cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa
cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn
len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ.
Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều khơng muốn làm

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 6


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ
ứng xử đầy chất nhân bản như thế!

Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói
khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã
sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
3.Số phận
– Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ
rúng.
– Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù
cuộc sống cịn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật
– Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung
miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt
(khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ).
– Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự
hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng
xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo khơng về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở
dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám,
đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số
phận khi đến bước đường cùng… Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói
được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
5.Kết luận
– Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến
sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của
mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh
nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
– Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau.
Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở
thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ
nghĩa nhân đạo cao cả.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!


Trang | 7


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 3:
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân.
Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bị th. Giữa trận đói
kinh hồng ni thân cịn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bịng thêm cơ vợ nhặt. Kim Lân
đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngơn ngữ bình dân tự
nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và
người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Nhân vật
vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng tình huống
khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong
cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn
sâu sắc, góp phần hồn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi,
để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một
dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể tốt lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn
vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là : “Dường như chẳng có gì
cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Cho nên, khi tác giả cố tình khơng đặt
tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn
đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.
Cốt truyện xoay quanh sự kiện “ nhặt vợ " bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng. Nhà Tràng chỉ
có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên Tràng bị khinh rẻ. Đã thế, anh
ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ. Trong hồn cảnh bình thường, Tràng khơng thể
cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói khủng khiếp, anh ta lại “nhặt" được “vợ” một cách

tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin gì.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vơ cùng khủng
khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen trên nền trời.
Đồn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những
bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Khơng khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi
và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không.
Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt
nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 8


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác : Áo quần tả tơi như tổ đỉa…
người gầy vêu vao, trên cái khn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt… Chị là
hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết
gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị quen
Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi người. Khi
nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò này – Lại đây mà đẩy xe bị với anh, nì và bị
mấy cơ bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này, nhà tơi
ơi, nói thật hay nói khốc đấy ? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và
liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm. Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay.
Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu
sầm sầm chạy đến, sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm

hẹn xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng khơng nhận ra vì chị ta khác quá. Một lúc
sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Chị ta
ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích bố cu… hai con
mắt trũng hốy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả : Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta dang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một
người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần : Thị cắm đầu ăn một chặp bốn
bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi
vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta
khơng phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ
diện và nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ : về chị ấy thấy
hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt: Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói
đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta
theo về thật. Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là
chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ơng xa lạ, xấu xí trước hết là để có
miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì với nhau
đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ
ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tị mị.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngồi ra khơng
biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà chị ta đi theo
ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng ? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ ! Theo anh ta để
được ăn, được sống cái đã ! Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói,
khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê
gớm, kinh khủng biết chừng nào !

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 9



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng, xấu
hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng khơng sao tránh khỏi tiếng
xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến đầy rẫy những định kiến nặng nề lúc đó.
Cịn lo lắng, phấp phỏng vì khơng biết liệu cái anh chàng mà chị đánh liều theo về làm vợ
này có giúp chị thốt khỏi chết đói và những người trong gia đình anh ta có thơng cảm mà
chấp nhận chị hay không? Chuyện làm “vợ” đến với chị q bất ngờ khiến lịng chị khơng
n. Bên cạnh dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị
ta lại càng nổi bật : Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu
hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt.
Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì dang diễn ra trong lịng
người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời làm vợ Tràng rồi
theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép của một cơ dâu. Chắc là
với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được
đón nhận một cách dễ dàng? Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân" này có mang
lại cho chị được chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình
cảnh của chị bây giờ ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu hỏi: sắp
đến chưa ? vẫn chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai khơng ?
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những
búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta
khơng khỏi chán ngán, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhơ lên,
nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe
rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi ! Thất vọng, buồn tủi,
chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng
mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần
thần… Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường
này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm xuống
mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm trạng ngổn ngang

trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị khơng ? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có
phải là nơi chị dung thân ? Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần
thần. Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái
thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời? Hay là
chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ
của mình. Nó là thực mà cứ như khơng phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm
dâu mà như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời
người con gái chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi lắm ! Chị khơng nói được
nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau khơng trào ra thành nước mắt mà chảy
ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 10


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập. Gặp bà cụ
Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị ta có lúc
thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta khơng phải như vậy.
Tuy nhiên, ngịi bút của Kim Lân khơng chỉ tinh tế mà cịn rất nhân hậu. Ơng khơng muốn
xốy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lịng ấy. Khi viết truyện ngắn vợ nhặt, mặc dầu
lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất
Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù
trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn
khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra
con người.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ nhặt đã

bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy khơng tìm thấy sự no đủ nhưng dẫu sao chị cũng
vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Chị hiểu như thế là ít có khả năng
bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao?
Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của Tràng, chị
đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hơm qua, cái đói đã làm mất đi những gì
là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên
thì vẻ đẹp ấy đã trở về với chị. Chị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân
nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của
mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay
đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng cịn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng
gặp ở ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật.
Người đàn bà vơ danh nhưng khơng vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho
mẹ con Tràng.
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa cơm
đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối lại,
nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh
tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ.
Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người
mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu
vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chì là cơ vợ nhặt.
Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói tồn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng
về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; cịn người nói đến phong trào đấu tranh chống
thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt – người đàn bà
khơng tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đồn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 11



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một
sự đổi thay ghê gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xơ đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt
của câu chuyện đáng buồn này.
Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân hậu và
từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả khơng sai, nhưng đọc đến những dịng
chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh người vợ nhặt của anh
Tràng.
Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa
thành cơng hình ảnh người vợ nhặt – người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp đã gây ra
nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là
một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng định: Trong đói
khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ
vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con
người như vậy nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 12


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 4:
Viết về người nơng dân và trận đói năm Ất Dậu 1945, “Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc

sắc, độc đáo. Kim Lân viết truyện này ngay sau Cách mạng tháng tám; đầu những năm 60,
tác giả viết lại, đổi thành“Vợ nhặt”.
“Vợ nhặt” kể chuyện anh cu Tràng nhà nghèo, ở xóm ngự cư, làm nghề kéo xe bị th, giữa
trận đói ni thân cịn khó, thế mà dám đèo bịng, dám cả gan nhặt vợ ! Kim Lân đã sáng
tạo nên một tình huống “nhặt vợ” rất hấp dẫn, đồng thời vận dụng tinh tế ngơn gnữ người
nhà q, phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, từ bà cụ Tứ đến anh cu Tràng, vợ Tràng, nhân
vật nào cũng chân thực, cảm động.
Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trị tơ đậm tư
tưởng nhân đạo của tác phẩm.
1. Trận đói đang diễn ra vơ cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên
như những đám mây đen trên nền trời. Đồn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái
Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi
gây của xác người. Thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho.
Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi ? Cái
đói đã cướp đi của Thị tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, thị
bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ”, cong cớn nói với Tràng: “Này nhà tơi ơi,
nói thật hay nói khốc đấy ?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng“thích lắm”. Lần
sau, thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi.
Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói
!Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt !”. Thấy
Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hốy” của thị tức thì sáng lên.
Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá !”. Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc
rồi thở, khen: “Hà, ngon !”. Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, thị
nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố !”. Chỉ một câu nói tầm phào
của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là thị theo về ngay, “thị về thật”. Khi đứng trong cái
nhà “vắng teo… rúm ró” của mẹ con Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái
ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”.
Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã
nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. Thị cần được ăn để sống.
Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói,

cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. Thị thật đáng thương ! Thị có khác gì người ăn
mày nọ:

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 13


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

“Ăn mày là ai ? Ăn mày là ta !Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày !”(Ca dao)
Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả
của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.
2. Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà
cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ
nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong
mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn
khác. Trước cái nhìn tị mị của bà con xóm chợ, thị “ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả
vào chân kia”. Nghe bọn trẻ con gào lên: “Anh Tràng ơi ! Chồng vợ hài”, thị “nhíu đơi mày
lại”, rồi đưa tay lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ,thị rất băn khoăn lo lắng “mặt
bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê
tà áo đã rách bợt”. Nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân”, thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái đi
lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cheo cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho
duyên số. Thật đáng thương !.
Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp
Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ
chồng: “… chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói
yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ !”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang

thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn
nhiều thử thách lo lắng, nhưng thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm
động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc
muộn mằn nhưng đáng quý giá biết bao ! Ngịi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân
trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.
3. Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu
dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của thị “kêu
sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xơn xao trong lịng thị ? Thị “lẳng lặng” đi
vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình “hiền hậu đúng mực” rất đáng yêu. Bà
cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực.
Thị đã đem sinh khí, thơng tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống
thúc thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên mạn Thái Ngun, Bắc Giang người ta
khơng chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta cịn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói
nữa đấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin
cách mạng.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 14


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác
tày trời của Nhật – Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị
của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được !
Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa,
bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám- hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng

thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” đã nói lên một sự thật ở đời. Trong đói khổ hoạn
nạn, kề bên cái chết, nhân dân ta vẫn khao khát được sông ấm no hạnh phúc. Những nguời
nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử
thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai
khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trị thể hiện tư
tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 15


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 5:
Trong dòng văn học hiện thực, ta đã bắt gặp Tắt đèn – Ngơ Tất Tố với hình ảnh người nơng
dân sưu cao thuế nặng. Chí Phèo bước vào trang sách đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu của văn
học hiện thực phê phán. Cùng viết về đề tài người nông dân, Kim Lân một lần nữa tái hiện
cuộc sống thời kì năm 1945. Trước bờ vực của cái chết, họ vẫn muốn sống, vẫn khao khát
hạnh phúc, mái ấm gia đình, vẫn u thương nhau. Đó là "Vợ nhặt" – một tác phẩm vừa có giá
trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Và nhân vật thể hiện rõ hai giá trị ấy chính là nhân vật Thị –
vợ anh cu Tràng.
Thị xuất hiện trong trang văn của Kim Lân khơng có tên, khơng gia đình, q hương, bị cái đói
đẩy ra lề đường. "Mỗi bận qua cửa nhà kho là thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy". "Họ
ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có cơng việc gì gọi đến thì làm". Với ngoại hình tố cáo rõ
hiện thực cái đói và tội ác của bọn phát xít thực dân. "Hơm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như
tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt". Thị
chẳng khác gì con ma đói. Thị là nạn nhân của cái đói. Cái đói khơng chỉ tàn phá ngoại hình

Thị mà cịn cả tính cách. Cái đói ấy đã đẩy Thị trở nên chao chát, chỏng lỏn, đanh đá, liều lĩnh,
mất lòng tự trọng. Khi nghe Tràng hò, "Thị cong cớn", rồi "vùng đứng dậy, ton ton chạy lại
đẩy xe cho Tràng". "Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngồi cổng chợ
tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến", rồi "sưng sỉa nói". Thị lại gạ ăn: "Có ăn gì thì ăn, chả ăn
giầu". Thế là thị "ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trị gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở". Thị chỉ tin vào câu nói
nửa đùa nửa thật của Tràng, theo Tràng về làm vợ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc và những lời
nói bơng đùa, Thị theo khơng Tràng về làm vợ.
Trên đường trở về nhà Tràng, nét dịu dàng của thị được trở lại. Thị có vẻ rón rén, e thẹn, vẻ
cong cớn vừa nãy biến đâu mất. "Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn". Khi"biết xung quanh người
ta đang nhìn đổ cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia".
Về đến nhà Tràng, thị "đảo mắt nhìn xung quanh" căn nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh
vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, "cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài". Thị
thấy, Tràng cũng không hơn gì mình. Nhưng thị khơng chạy trốn. Thị chạy trốn cái đói để liều
lĩnh về làm vợ Tràng. Nhưng lần này thị khơng chạy trốn. Có lẽ bởi khát khao mái ấm gia
đình. Thị "ngồi mớm ở mép giường", lo âu, băn khoăn, lo lắng, hồi hộp, không biết bà cụ Tứ
sẽ đối xử với mình ra sao. Nhưng khi cảm nhận được tình yêu thương của bà cụ, thị đã tự
nhiên hơn được một chút.
Buổi sáng hôm sau, thị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Có bàn tay thị căn
nhà trở nên gọn gàng sáng sủa, đầm ấm hơn. "Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt
khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong Hai cái anh nước vẫn để khô cong
ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch". Tràng

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 16


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017

Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

nom thị hôm nay khá lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng có vẻ gì chao
chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngồi tỉnh. Thị chính là người thắp sáng trong Tràng
niềm tin vào tương lai. Bây giờ "hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải
ko lắng cho vợ con sau này". "Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái
mặt bủng beo u xám của bà rạng rỡ hẳn lên". Khơng chỉ thế, nhân vật Thị cịn nâng cao giá trị
tác phẩm ở phần kết. Cùng viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám, nếu như Tắt
đèn là hình ảnh chị Dậu chạy ra trong tăm tối, Chí Phèo khao khát được làm người giết chết
Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Các tác phẩm đều kết thúc tăm tối khơng lối thốt của người
nơng dân. Nhưng với vợ nhặt thì khác. Thị đã gợi đến chuyện người Bắc Giang khơng cịn
phải đóng thuế nữa. Kết thúc tác phẩm là lá cờ đỏ sao vàng.
Thị là nhân vật tô đậm giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Là nạn nhân của cái đói,
nhưng bên bờ vực của cái chết vẫn khát khao sống, khát khao có một mái ấm gia đình.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 17



×