Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Văn mẫu lớp 12: 5 bài văn mẫu phân tích đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.55 KB, 13 trang )

Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

VĂN MẪU LỚP 12: TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
TỎNG HỢP 5 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH ĐOẠN 2 BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG
DŨNG”

BÀI MẪU SỐ 1:
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn . Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian
khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ , dữ dội , hoang sơ . Đoạn
2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ
mộng . Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến . Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và
miền Tây . Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa , lãng mạn , phóng khống của hồn thơ Quang Dũng .
Với tài năng và tâm hồn ấy , Quang Dũng đã khắc hoạ thành cơng hình tượng người lính Tây Tiến
mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ ,
dữ dội , mĩ lệ .
Trong miền kí ức của Quang Dũng khơng chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo cao ,
mưa rừng , thú dữ , sương phủ mà cịn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên hoan tưng bừng và
những buổi chiều êm ả , mông lung.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây :
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu , nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương
đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất thơ mộng . Từ “bừng lên” kết hợp
với hình ảnh đẹp “ đuốc hoa” miêu tả khơng khí sơi nổi , cả doanh trại bừng sáng , lung linh ánh lửa
đuốc khi đêm văn nghệ bắt đầu . Tiếng reo “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngỡ ngàng , ngạc
nhiên , say mê , vui sướng của các anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy bất ngờ của các cơ gái nơi núi
rừng . Các cơ gái chính là trung tâm , là linh hồn của đêm hội có vẻ đẹp e thẹn , tình tứ , mềm mại ,
duyên dáng trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ “ man điệu” đã thu hút hồn vía của các chàng trai


Tây Tiến . Khơng khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực , réo rắt khiến cho
cả con người , cảnh vật như bốc men say , trở nên phong phú , sinh động như muốn “ xây hồn thơ”
lãng mạn . Đây cũng chính là tâm hồn hào hoa , tinh tế của Quang Dũng .
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc khơng khí háo hức thì cảnh sông nước miền
Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mờ ảo :
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 1


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa .”
Ngịi bút của Quang Dũng khơng tả mà chỉ gợi .Những hình ảnh “ chiều sương ấy” , “hồn
lau” , “ nẻo bến bờ” , “ hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “ có thấy” , “ có nhớ” mở ra một khung
cảnh buổi chiều sương trong kí ức . Sương mờ giăng mắc khắp không gian , bến bờ lặng lẽ hoang dại
, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại , uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc
mộc , những bơng hoa rừng đong đưa làm dun tronng dịng nước . Cảnh như có hồn , có sự thiêng
liêng của núi rừng , đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại . Qua những nét vẽ hư ảo trên , ta như thấy
trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm , tinh tế ,
lãng mạn , tài hoa , vơ cùng u mến , gắn bó với mảnh đất miền tây-tâm hồn Quang Dũng . Đồng
thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp .
Trong hai đoạn thơ sau , nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa mà tập trung vào khắc
hoạ chân dung người lính tây tiến và nỗi nhớ miền tây bằng những nét vẽ khoẻ khoắn , mạnh bạo ,
gân guốc đạm chất bi tráng .

Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên , con người miền tây với vẻ đẹp
mĩ lệ , thơ mộng , trữ tình .Chất nhạc , chất hoạ , chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong
đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại , tinh tế , uyển
chuyển . Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa , lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ
.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 2


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 2:
“Tây Tiến” là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm
xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến “ áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (“ Nhớ” – Hồng
Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy
thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc – Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” (Mắt
người Sơn Tây – 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến
đấu ở thượngnguồn sơng Mã, miền Tây Hịa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa, trên dải biên cương
Việt – Lào. Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người
là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ “Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ của tác
giả sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”
Bài thơ gồm có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sơng Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ
đồn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vơ cùng gian khổ… Đoạn thơ trên
đây gồm có 16 câu thơ, là phần 2 và phần 3 của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ,
những hình ảnh đầy tự hào về đồng đội thân yêu.
Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”,

người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:
“Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”
Bát cơm tỏa khói nặng tình qn dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng, của
Mai Châu,… và hương của tình thương mến.
Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành
kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phịng cưới, đêm tân hơn, từ ngữ được dùng trong văn
học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều – 3096). Quang Dũng đã có một sự
nhào nặn lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. “Bừng”
chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng cịn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát,
tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em”, của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ
niệm đẹp một thời chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô phù xao Lào
xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã
“xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là đại từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm
áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách,… như đã bị
đẩy lùi và tiêu tan.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 3


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


Xa Tây Tiến mới có bao ngày thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”, nhớ “chiều
sương Châu Mộc ấy”. Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và
thơ mộng lại hiện lên và ùa về:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”
Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một
nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long
là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những
cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ
niệm. “Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu
thơ sau” như những kỉ niệm trở về… Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con
thuyền độc mộc “trôi dịng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn
gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trơi theo thời gian và dịng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ
đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và
nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài
hoa qua đoạn thơ này.
Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong
đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực
mà lãng mạn, tài hoa.
Phần ba bài thơ nói về đồn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng bút pháp hiện thực để tạo
nên bức chân dung những đồng đội thân yêu của mình. Ở phần một nói về con đường hành qn vơ
cùng gian khổ để khắc hoạ chí khí anh hùng các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu miêu tả vẻ đẹp
lãng mạn của những chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ dang nhớ,
đang ngắm nhìn, đang hồi tưởng, đang nghĩ về từng gương mặt thân yêu, đã cùng mình vào sinh ra
tử, nếm trải nhiều gian khổ một thời trận mạc. Như một đoạn phim cận cảnh gợi tả cái dữ dội, cái
khốc liệt một thời máu lửa oai hùng. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc hun đúc qua 4.000 năm lịch sử
được nâng lên tầm vóc mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh:
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc

Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong
khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “
Đồn binh khơng mọc tóc”, “ Qn xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều
sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn
nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu khơng mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước
hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “ Tam qn
tì hổ khí thơn Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần; “ Tướng sĩ kén tay tì hổ – Bề tơi
chọn kẻ vuốt nanh” là tầm vóc các nghĩa sĩ Lam Sơn. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm
Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 4


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

liệt hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Gian khổ và ác liệt thế,
nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”; Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng “ xác thù chất đống
xây thành chiến công”. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “ mắt trừng”, giữa đêm khuya trong
doanh trại có những cơn mơ đẹp: “ đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng kiều thơm” từng
in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “
đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn
năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ,
một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hố, lúc thì bình dị mộc mạc,
lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của những

anh hùng vơ danh trong đồn qn Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang
lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc
rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Rải rác biên cương
mồ viễn xứ…” Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lịng Mẹ, giấc ngủ
nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về
đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên”
như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” ấy đã tạo nên khơng khí thiêng liêng, bi tráng và
cao cả:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các từ Hán Việt xuất hiện bất ngờ trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào,
khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót xa
thương tiếc. Không bi lụy yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là
một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh
dũng của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần
thơ cảm động như thế:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”
(“Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
Những tháng năm chiến tranh đã đi qua. Đoàn binh Tây Tiến những ai còn ai mất, những ai
đã “lấy đá ven rừng chép chiến công”? “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?” – xưa nay, buổi chiến tranh,
mấy ai đi chinh chiến còn trở về?

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!


Trang | 5


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Đoạn thơ trên đây cho thấy cái tâm đẹp và cái tài hoa của Quang Dũng. Nếu Chính Hữu, qua
bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nơng dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây
Tiến” đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ
nước” dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan u đời. Anh hùng, hào
hoa là hình ảnh đồn binh Tây Tiến.
Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang
Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì “Tây Tiến” đã cho ta cảm
nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh
bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ
ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 6


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 3:
Nếu như phần thứ nhất của bài thơ là bức tranh vừa dữ dội hoang sơ vừa hùng vĩ nên thơ của
núi rừng miền Tây và con đường hành quân đầy gian khổ được vẽ bằng nét bút gân guốc khỏe khoắn,
thì đến phần thứ hai này bài thơ “Tây Tiến” lại mở ra một thế giới khác của Tây Bắc, một Tây Bắc

mĩ lệ tài hoa, duyên dáng với những nét vẽ tinh tế mềm mại.
Hình ảnh “một đêm liên hoan văn nghệ” với đồng bào dân tộc để thắt chặt tình quân dân được
gợi lên với những chi tiết rất thực, rất mộng, rất ảo như thể khung cảnh một ngày lễ cưới, một đêm
hội hoa đăng, như trong huyền thoại cổ tích:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…….
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”
Nhà đại văn hào nước Pháp-Huygo có nói: “Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó hay nhất”. Chúng
ta thấy chữ “bừng” hiểu như vậy, chữ “bừng” là chữ rất hay, rất có hồn. Nó vừa gợi hình, vừa gợi
cảm, đặt giữa câu thơ âm hưởng mạnh mẽ, nó làm rực sáng cả câu thơ, rực sáng cả tâm hồn người
đọc. “Bừng” là bừng sáng lên bởi ánh lửa từ ngọn đuốc trong đêm của bộ đội liên hoan văn nghệ cùng
nhân dân; hay là tưng bừng rộn rã của niềm vui của tiếng khèn bản nhạc man điệu, cùng giọng hát
vừa ngọt ngào vừa mê say, tình tứ của các cơ gái Mèo, Mường, Thái… “Đuốc hoa” là một từ cổ để
chỉ ngọn nến đốt lên trong phịng cưới đêm tân hơn. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan
của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng, vừa ấm áp keo
sơn tình quân dân gắn bó. Đoạn thơ này cũng đã bộc lộ được nét tài hoa lãng mạn của ngòi bút Quang
Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc lãng mạn, bí ẩn của con
người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà trong lời thơ lại cho ta cảm
giác cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo
tự bao giờ”-một giọng thơ đầy trìu mến, thích thú vui sướng đến ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e ấp,
vừa tình tứ “nàng e ấp” với bộ xiêm y lộng lẫy đủ mọi sắc màu trong một vũ điệu mang màu sắc xứ
lạ (man điệu). Câu thơ “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” có sáu thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng
chới với như có thể đưa tâm hồn người lính phiêu diêu về chốn Viên Chăn, thủ đô nước bạn xa xôi
để xây hồn thơ.
Như vậy chỉ bằng bốn câu thơ mà Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh vừa phong
phú về màu sắc, đường nét (ở chỗ “đuốc hoa xiêm áo”); vừa đa dạng về âm thanh (Tiếng khèn man
điệu). Với tâm hồn lãng mạn tài hoa, bằng cảm hứng nhạy cảm với cái lạ thường, cái thi vị, tác giả
không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp đầy bản sắc văn hóa phong tục của đồng bào miền biên cương Tổ
quốc, mà cịn cho ta thấy được tình quân dân đằm thắm keo sơn và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu
cuộc sống kháng chiến gian khổ mà vui tươi của người lính Tây Tiến.

Cảnh sơng nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng: mênh mang hoang dại, tĩnh lặng, mờ ảo và
chứa chan thi vị.
Nếu khung cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc khơng khí mê say ngây ngất thì
cảnh sơng nước Tây Bắc lại gợi lên được cảm giác mênh mang hoang dại mờ ảo tĩnh lặng và chứa
chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa lãng mạn giàu mộng ảo của người
lính Tây Tiến. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “bản sương giăng, đèo mây phủ”, khi chiều về vốn mờ
Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 7


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

ảo lại càng mờ ảo hơn khi có lớp sương mờ bảng lảng chống lên như thực như mơ. Qua hoài niệm,
khung cảnh Tây Bắc như đang sống dậy trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của ông cất lên
như tiếng thì thầm, như lời tự hỏi “có thấy- có nhớ”, day dứt càng gợi lên cảm giác bâng khuâng xa
vắng đầy lưu luyến. Con người có tâm hồn tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió
trong cây như xơn xao một nỗi niềm.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Từ “người” được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ thể, vừa phiếm
chỉ, vừa là tác giả vừa là đồng đội, những người tri âm, tri kỷ đã từng đồng cam cộng khổ sống chết
có nhau. “Tơi với anh biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi…thương nhau tay
nắm lấy bàn tay”. Khi viết câu này hẳn tác giả lại nhớ đến lời ca quan họ: “Người ơi người ở đừng
về”- một lời ca nặng tình, nặng nghĩa nhờ có từ “người”- một đại từ thần diệu của Tiếng Việt. Từ
“ấy” không xác định được thời gian, nhưng lại gợi về thời khắc khó qn, một đi khơng trở lại, đã in
đậm trong trái tim, trong nỗi nhớ đầy vơi của Quang Dũng và những người lính Tây Tiến. Chữ “ấy”
đó lại bắt vần với chữ “thấy” ở câu dưới tạo nên một vần lưng đầy quyến luyến, vấn vương.
Có lẽ, trong những hình ảnh làm cho người lính Tây Tiến “Nghìn năm chưa dễ mấy ai qn”

ấy thì hình ảnh “hồn lau nẻo bến bờ” là hình ảnh gợi cảm nên thơ nhất. Theo thi sĩ Chế Lan Viên thì
“Lau”là biểu tượng cho mùa thu. Cịn thi sĩ Hồng Hữu thì hồn lau trong gió qua hồi niệm lại gợi
cảm giác buồn vắng, lặng tờ nhạt nhòa như khói pha như thời tiền sử huyền thoại:
“Trường vắng mưa mờ bng dốc xa
Dây leo nửa mái,sắc rêu nhịa
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha”
(Hoa lau trường cũ)
Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn “Cỏ lau” lại có hình ảnh bơng lau; lơ thơ như
thực, như mơ, ở miền rừng núi hoang vu được diễn tả bằng những áng văn tuyệt hay “ở đây, bầu trời,
mặt đất thanh vắng hoang dại, hoa lau phơ phất trên nền xanh uyển chuyển của rừng lau. Những triền
cỏ lau mới nhú mang một vẻ hiu hắt, vài đọt hoa hiếm hoi, điểm xuyết giữa hoàng hơn vùng rừng
một sắc tím bâng quơ”. Những hồn lau như thế xuất hiện trong làn sương chiều mờ ảo nơi bến bờ
sông suối hoang sơ hẻo lánh của miền Châu Mộc, Châu Mai đã nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp tâm hồn
của một thi sĩ tài hoa lãng mạn đã có cách nhìn, cách cảm thiên nhiên rất lạc quan yêu đời và có phần
mộng mơ.
Tâm hồn lãng mạn mộng mơ đó cịn phát hiện ra trong cảnh sơng nước chiều sương mang
đậm màu sắc cổ tích huyền thoại ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc với dáng mềm mại của cô gái và
bông hoa trôi theo nước lũ:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”
Đúng là thi chung hữu họa. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chấm phá vài nét không chỉ gợi
được cái hồn của những bông lau, mà cịn cả cái dáng rất tạo hình của cơ gái lái đị người
Mường,người Thái,…cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa”chứ không phải “đung đưa” của

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 8



Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

những bông hoa rừng như muốn “làm duyên bên dòng nước lũ”. “Đung đưa” chỉ thuần túy tả chuyển
động đưa đi đưa lại mang tính chất Vật lý, cịn đong đưa vừa tả chuyển động, tả cảnh vừa tả tình làm
cho bơng hoa trở thành một sinh thể duyên dáng và rất đa tình. “Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa”
(Thị Mầu-Anh Ngọc)
Với một chữ “trôi” mà tác giả dùng ở đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng thanh thốt
“Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”. Phải có “tay lái ra hoa” thì chiếc thuyền độc mộc vượt qua suối
lũ ghềnh thác mới êm nhẹ đến thế. Với một chữ “trôi” tinh tế và một chữ “đong đưa” hơi phong tình,
dịng nước lũ dữ dằn bỗng trở thành suối mơ êm đềm yên ả, để con thuyền lướt nhẹ êm trơi.
Tìm hiểu kĩ đoạn thơ của Quang Dũng, chúng ta thấy hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả
dùng trong hai câu thơ giữa cũng thật tài tình. Dường như cái hồn thiêng của bơng hoa lau đã in hình
rõ nét trong mắt tác giả, còn cái dáng mềm mại, thon thả của cơ gái lái đị đẹp như hoa cùng bơng hoa
rừng đong đưa trên dịng nước lũ lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu non sông đất
nước, vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây này. Khơng có một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa thì khơng thể nắm
bắt được những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế. Đoạn thơ không chỉ được khắc, trạm hình
sắc, đường nét vào người và cảnh, mà còn được tác giả phổ vào câu thơ những nốt nhạc tinh tế. (Nhạc
điệu thể hiện ở vần chân: “Bờ-đưa”,vần lưng: ‘ấy-thấy”;ở điệp âm,điệp thanh: “Châu
Mộc,độc,dòng,đong” ). Nhưng đây là nhạc điệu được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và
người miền Tây Tổ quốc của người lính “Giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc; là những tâm
hồn có nhạc ở bên trong” (Phạm Tiến Duật). Cho nên rất có lý khi Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ
“Tây Tiến”, ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng.
Như vậy hùng vĩ gắn với thơ mộng, những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc; gắn với nét vẽ uyển
chuyển, tinh tế, mềm mại là cái nhìn riêng của tâm hồn lãng mạn và hào hoa Quang Dũng trước khung
cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ mà nên thơ đẹp đẽ. Xuyên qua cảnh vật và con người, là một niềm
hoài niệm “chơi vơi” mà sâu nặng, bâng khng da diết một tình u nói khơn cùng của tác giả với
một miền thiên nhiên Tổ Quốc đã gắn bó tha thiết với người lính về một thời oanh liệt:
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau; còn đủ sức soi đường”

(Chế Lan Viên)
Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá tinh tế, mềm mại, tài
hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật Tây Bắc. Với bút pháp thiên về cảnh vật và con người ấy
của Quang Dũng, bức tranh của cảnh và nguời miền Tây Tổ quốc hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng
dễ làm đắm say lịng người đọc. Đằng sau bức tranh đó, ta thấy nổi rõ tâm hồn lạc quan, yêu đời, lãng
mạn, giàu mộng mơ của tác giả nói riêng và của người lính Tây Tiến nói chung trong “Những năm
tháng khơng thể nào quên” của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà vô cùng oanh liệt.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 9


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 4:
Một trong những bài thơ hay mà cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống
như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng,
cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa,
mang một phong cách hồn hậu,phóng khống. Khơng những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy
được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.
Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt ngào đi
cùng năm tháng. Và vẫn cịn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của những người lính. Nó là
một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi
cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong
những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong
cách hồn hậu,phóng khống. Khơng những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi
tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.
Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Từ

những năm tháng chiến đấu gian nan,những con người ấy qua tiếng vọng thời gian trở nên sống động
và chân thực hơn bao giờ hết. Những cơn bệnh những buổi liên hoan những đêm nằm gác “ gửi mộng
qua biên giới” và có cả những sự mơ mộng của những người lính trẻ tuổi và đầy nhiệt thành. Càng
đọc chúng ta nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ
ải của đoàn quân Tây Tiến.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”
Hình ảnh người lính Tây Tiến còn hiện ra với những vẻ hồn nhiên trong những đêm liên hoan
đốt lửa trại hay những chiều có những khoảnh khắc mà kí ức ùa về. Một đêm liên hoan sau những
mệt nhọc là những gì họ vẫn làm, và họ coi đó là một niềm vui nơi chiến trận khốc liệt này. “Đuốc
hoa” gợi lên cho ta những hình ảnh liên tưởng vị. Đó có thể là những ngọn đuốc của những đêm lửa
trại cũng có thể là những cây đuốc rực lửa của những đêm hành quân dọc miền rừng núi. Và đó cũng
có thể là những bơng hoa chuối khoe sắc rực rở của mình cho dù ở trong đêm tối. Dù được hiểu theo
cách nào thì vẫn là một ánh sáng đẹp đẽ gợi lên một khơng gian ấm áp. Khơng chỉ có ánh sáng của
lửa trại mà cịn có nhạc có âm thanh và mọi người giao lưu với nhau. Câu thơ” Kìa em xiêm áo tự
bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp” cịn cho ta một liên tưởng thú vị. Đó có thể là hình ảnh của
những cơ giá dân tộc tới cùng giao lưu với các anh lính nhưng cũng có thể là những người lính tây
tiến giả gái để cho lễ hội của họ thêm phần náo nhiệt.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 10



Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Trong khổ thơ tiếp theo, Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu
câu thơ trĩu xuống như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Quang
Dũng trong khổ thơ nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có
“nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”… rồi
lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, Cùng con thuyền độc mộc “trôi dịng nước lũ hoa đong
đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trơi theo
thời gian và dịng hồi niệm. Đoạn thơ này được tác giả Quang Dũng vẻ ra những đường nét thật lãng
mạn và nên thơ. Nó gợi ra một vẻ mơ hồ , hư ảo giữa nền sương trắng xóa.
Mỗi phần của bài thơ “ Tây Tiến” đều mở ra những khung cảnh những hoài niệm khó qn
trong kí ức bản thâm của mỗi người lính. Những hình ảnh mộc mạc ấy dưới ngịi bút tài hoa của nhà
thơ, mỗi nét đậm nhạt với sự kết hợp cả cảnh và con người đều thật sống động.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 11


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 5:
Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ
đậm tình qn dân. Khơng khí đêm hội ở đây mang dấu ấn của tâm hồn trẻ trung, lãng mạn yêu đời:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

– “Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi đang diễn ra đêm hội đậm đà tình
quân dân. Từ “Bừng lên” trong “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” chỉ sự tưng bừng náo nhiệt của
đêm hội. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại, của khơng khí náo nhiệt, cũng cịn có nghĩa
là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Ở đây, từ “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi khơng
khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lịng các chiến sĩ .
Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ
ngàng của lính Hà Thành trước vẻ đẹp của cơ gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng
dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Sự duyên dáng “e ấp” ấy của cô gái vùng cao đang làm đắm say tâm hồn
những chàng lính trẻ.
Tiếp đó là là tiếng “Khèn man điệu” đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến
thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lịng u đời, u miền đất lạ . Chính vì thế
mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ
mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”.
Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang
vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Ngư¬ời đi Châu Mộc chiều s¬ương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng ng¬ười trên độc mộc
Trơi dịng n¬ước lũ hoa đong đưa.
– Thời gian chia tay là buổi chiều, không gian chia tay là một khơng gian bảng lảng khói
s¬ương như¬ trong cõi mộng. Nhưng sương ở đây khơng phải là “sương lấp”, sương che hay sương
phủ mà là một khơng gian núi rừng mơ màng trong sương khói. Có người cho rằng “Chiều sương
ấy” là chiều sương trong cái nhìn hồi niệm nên tất cả mờ ảo, nhạt nhịa.
– Bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, Quang Dũng đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ
vô cùng tinh tế, đó là “hồn lau”… gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có
chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” là nhìn đâu cũng thấy mênh
mang hồn lau. “Hồn lau” – những cây lau khơng cịn vơ tri vơ giác mà có linh hồn. Phải là một hồn
thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.
– Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư¬ời thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây
Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp

khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: “Có nhớ dáng người trên độc mộc’’. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ”
luyến láy như khắc chạm vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người
Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 12


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa
các chiến sĩ vượt sơng. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo
chống con thuyền vượt sơng, vượt thác dữ tiến về phía trước.
Câu thơ cuối sử dụng nghệ thuật đối lập: “Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”. Đó là sự đối lập
giữa cái dữ dội của thiên nhiên “Trơi dịng nước lũ” với cái mềm mại, dễ thương “hoa đong đưa” đã
làm cho thiên nhiên hòa hợp cùng với xúc cảm của con người. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất
gợi. Không phải cánh hoa rừng trôi nổi dập dềnh trên dịng nước lũ mà là “đong đưa” theo gió. Dáng
hoa ấy hoà hợp với dáng người trên độc mộc làm nên một bức tiểu họa thật lãng mạn mà cũng thật
hào hùng.
Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
cơng là kết hợp hài hịa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó cịn có các
yếu tố nghệ thuật: Nghệ thuật nhân hóa đầy sức gợi. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang
đậm chất lãng mạn, hào hoa. Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi
nhớ lưu luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu giá trị.
Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền
Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với
nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại,
tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng
thể bài thơ.
Sưu tầm: Mod Ngữ văn HỌC247


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 13



×