Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Phân tích nghệ thuật bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thị Nhậm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.83 KB, 4 trang )

VĂN MẪU LỚP 11
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT BÀI CHIẾU CẦU HIỀN CỦA NGƠ THÌ
NHẬM
"Văn bản Chiếu cầu hiền có 6 đoạn với bố cục ba phần: đặt vấn đề, giải quyết vấn
đề và kết-đây là bố cục quen thuộc của một văn bản nghị luận ( Phần một: đoạn 1; Phần
2: đoạn 2, 3, 4, 5; Phần 3: đoạn 6). Phân tích mỗi đoạn như thế sẽ có một ý nghĩa riêng.
Những ý nghĩa đó vẫn cịn mang giá trị đời sống sâu sắc dù văn bản chỉ là chứng tích của
“một thời vang bóng”. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là đi tìm mối liên hệ về mặt ý nghĩa của
văn bản với cuộc sống hiện đại hơm nay mà khơng làm xã hội hóa một tác phẩm văn học
hay và đẹp. Tơi đã nói với học sinh của mình rằng trên con đường khám phá cái hay, cái
đẹp của một tác phẩm văn chương, nếu đi đến tận cùng ta sẽ gặp được cuộc sống của
chính ta trong đó. Và tất nhiên con đường tối ưu để đến được với những giá trị tận cùng
đó là tiếp cận tác phẩm từ đặc trưng thể loại. Với Chiếu cầu hiền, chúng ta bắt đầu từ
những đặc sắc nghệ thuật của một văn bản chính luận.
Thành cơng nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm này có lẽ là ở nghệ thuật lập luận
với những lí lẽ rất chặt chẽ, sắc sảo và lập trường chính trị vững vàng của tác giả. Ngơ
Thì Nhậm vốn là một sĩ phu Bắc Hà, nay lại thay mặt vua Quang Trung kêu gọi sự nhập
cuộc của các sĩ phu Bắc Hà – những trí thức của triều đại Lê – Trịnh đã bị nhà Tây Sơn
lật đổ. Điều đó thật khó vô cùng ! Thế nhưng trong mỗi câu, mỗi đoạn, mỗi phần của
Chiếu cầu hiền ta thấy được rằng Ngô Thì Nhậm đã vượt qua được những trở ngại đầy
khó khăn đó ! Giá trị thuyết phục của văn bản cũng đã vượt ra khỏi giới hạn của một thời
đại cụ thể ấy.
1. Phần một (đoạn 1)
Đoạn văn mở đầu văn bản được trình bày bằng thao tác so sánh với hai lập luận:
- Lập luận 1: “ Người hiền như ngôi sao sáng trên trời, sao sáng hướng về ngôi
Bắc Thần”, suy ra “người hiền là sứ giả cho thiên tử’.
- Lập luận 2: Sao che mất ánh sáng thì sẽ mất đi vẻ đẹp, người hiền mà khơng đem
tài ra dùng là trái mệnh trời.
Chung quy lại, mọi lập luận đều để khẳng định một điều: sao muốn đẹp phải tỏa
sáng, người hiền tài muốn được công nhận phải cống hiến tài năng đó cho nước, cho đời.
Bằng cách này Ngơ Thì Nhậm muốn nhắn gửi đến người hiền tài sứ mệnh của chính họ.


Nhận thức đúng sứ mệnh này rồi, thì tự họ ắt biết sẽ phải làm gì. Nghệ thuật thuyết phục
tế nhị mà thật sắc sảo !


Hiền tài ngày xưa là thế, hiền tài ngày nay thì sao? Mở rộng vấn đề, hơm nay
khơng chỉ người học rộng tài cao mới có sứ mệnh của người hiền tài mà tất cả mọi người
có năng lực đều cần phải biết rõ mình nên làm gì. Một cá nhân tồn tại khép kín, rụt rè,
nhút nhát hoặc là ích kỉ, tự phụ …thì khó mà khẳng định được vị thế của mình trong xã
hội. Vì thế người hiền khơng thể hiện tài năng giúp ích cho đời khơng thể gọi là người
hiền. Nên chăng từ đây chúng ta hãy tự rút ra cho mình một bài học về cách sống ở đời
đó là cách sống tự tin, bản lĩnh và cống hiến hết mọi khả năng của mình. Đó mới là ý
nghĩa của cuộc sống con người.
2. Phần hai (đoạn 2, 3,4,5).
Phần hai của văn bản gồm có bốn đoạn, trong đó đoạn thứ hai như là một điểm tựa
để tác giả bẩy đoạn 3,4,5 lên cao nhằm thực hiện mục đích thuyết phục, kêu gọi hiền tài
ra giúp vua, giúp nước. Điểm tựa ấy bắt nguồn từ những sự việc của quá khứ gần: “Trước
đây thời thế suy vi”. Thời thế suy vi là thời nào? Tại sao đó lại là thời suy vi? Đặt câu hỏi
này sẽ đưa người đọc ngược dòng lịch sử, trở về với mạt thời Lê Trịnh bệ rạc, thối nát.
Hiền tài như ngôi sao bị che khuất, không được trọng dụng, tơn kính. Vì thế cách hành xử
tích cực nhất của họ lúc này là giữ gìn lấy khí tiết trong sạch của một nhà nho chân chính
bằng cách trốn tránh, ẩn dật hoặc là dè dặt, giữ mình ở chốn quan trường. Thời thế không
cho phép họ tự thể hiện mình chứ khơng phải là họ tự vùi lấp mình.
Đọc-hiểu đoạn văn này, chúng ta không chỉ biết đồng cảm với cách ửng xử của
các hiền tài trước đây mà cịn biết học ở Ngơ Thì Nhậm cách nhìn nhận, đánh giá con
người. Tại sao đoạn một, tác giả khẳng định sứ mệnh của người hiền tài như thế mà ở
đoạn hai, tác giả lại có vẻ ủng hộ cách ửng xử của họ trong mạt thời Lê Trịnh như vậy?
Bởi vì ơng đã nhìn họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh sống (hoàn cảnh rộng-lịch sử xã
hội). Chỉ những nhân tài kiệt xuất như Quang Trung Nguyễn Huệ… mới có khả năng tạo
ra thời thế, cịn như phần lớn con người đều ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh lớn của xã
hội. Cách ứng xử của các bậc hiền tài trước đây như vậy cũng có nghĩa là họ đã làm chủ

được hoàn cảnh hẹp (hoàn cảnh trực tiếp) của bản thân mình. Tóm lại, bài học mà chúng
ta học được ở đây chính là cách đánh giá con người, phải nhìn nhận họ trong mối quan hệ
qua lại với hồn cảnh sống để có thái độ đúng mực.
Ở đoạn văn thứ ba, tác giả thay lời vua để thổ lộ những tâm tư sâu kín, đó là nỗi
niềm canh cánh chờ mong sự xuất hiện của hiền tài (“ghé chiếu lắng nghe”, “ ngày đêm
mong mỏi”). Hơn thế nữa, hai câu hỏi tu từ liên tiếp: “Hay trẫm ít đức khơng đáng để phị
tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”-cho thấy sự day
dứt, trăn trở khôn nguôi trong lịng vua Quang Trung lúc bấy giờ. Giọng văn bình dị như
một lời tâm tình làm gần hơn khoảng cách giữa vua với các hiền tài-“nguyên khí quốc
gia”(Thân Nhân Trung). Qua đó, ta thấy rõ ràng một điều rằng vua Quang Trung là người
rất coi trọng hiền tài. Như vậy người hiền tài sẽ không lo sợ bị che lấp tài năng hoặc tài


năng bị quên lãng, bỏ rơi như thời buổi suy vi. Lập luận như thế là đã rất chặt chẽ và
thuyết phục. Nhưng tác giả còn tăng mức độ thuyết phục cao hơn ở đoạn văn tiếp theo.
Đoạn bốn là những cơ hội của người hiền (thời cơ của người hiền thực sự đã đến)
đó là:
-Đất nước vừa đại định, cơng việc mới mở ra, cịn nhiều việc phải lo toan, khắc
phục.
-Dân cịn mệt nhọc, giáo hóa vua chưa thấm nhuần khắp nơi. Trọng trách quốc gia
khơng chỉ mình vua gánh vác được.
Tất cả đều là những mảnh đất trống cho người hiền thể hiện tài năng của mình. Cơ
hội đã đến. Tác giả không hô hào, kêu gọi mà đặt ra một câu hỏi day dứt: “Huống nay
trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại khơng có lấy một người tài
danh nào ra phị vua giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?” Như vậy,
một mặt tác giả chỉ cho người hiền thấy được thời cơ, vận hội mới, qua đó đề cao vai trị
của họ trong việc trị nước; mặt khác lại đánh vào tâm lý, khơi gợi lòng tự trọng của họ.
Lời văn nhẹ nhàng mà lí lẽ, lập luận thì sắc sảo, có sức thuyết phục cao-vừa lay động chí,
vừa chuyển tâm ý của người hiền tài.
Đoạn năm là bước chuyển ý quan trọng, tăng cấp tối đa sự thuyết phục bằng một

chính sách cầu hiền đặc biệt:
-Ai có tài cho phép tự trình bày cơng việc;
-Cho phép các quan tự tiến cử;
-Người hiền tự tiến cử mình.
Chính sách cụ thể, rõ ràng, cơng bằng, dân chủ - mở rộng cửa cho người hiền tài
vào cung giúp vua, giúp nước.
Có thể nói rằng trong phần hai này, nghệ thuật thuyết phục của Ngơ Thì Nhậm
khơng chỉ độc đáo mà còn rất tài năng. Lời lẽ thiết tha, lí lẽ sắc sảo, lập luận chặt chẽ.
Hịa quyện trong mỗi lời văn là tình và lí: một bên là sự cần thiết của nước nhà, một bên
là tấm lòng ưu ái canh cánh của nhà vua dành cho các bậc hiền tài. Bài học mà chúng ta
có được ở đây có lẽ là bài học về cách ứng xử ở đời: lấy chí để thuyết phục chí, lấy tâm
để thuyết phục tâm, lấy sự công bằng, dân chủ để thuyết phục nhân. Đó là nghệ thuật cầu
hiền của Ngơ Thì Nhậm và vua Quang Trung, nhưng cũng là nghệ thuật ứng xử của con
người trong mọi thời đại.
3. Phần ba (đoạn 6)
Phần kết của văn bản tác giả nhấn mạnh lại thời cơ, vận hội của người hiền. nó có
giá trị như một lời nhắc nhở với những hiền tài rằng cơ hợi lập danh, lập thân của họ thực


sự đã đến, họ cần phải chứng tỏ chí nam nhi của mình trước lịch sử. Lời kêu gọi cuối
cùng sơi nổi, nhiệt thành khuyến khích tinh thần của người hiền một cách sâu sắc.
Quay trở lại với hoàn cảnh và mục đích ra đời của văn bản Chiếu cầu hiền, ta thấy
rõ một điều: nếu tác giả viết không khéo, nói khơng thơng thì hoặc sẽ phản tác dụng, hoặc
bản thân bị chê cười. Vì sao vậy ? Các trí thức Bắc Hà cũng như những trí thức của các
triều đại phong kiến khác, họ đều trưởng thành từ cửa Khổng sân Trình, nghĩa là đều
nhập tâm lời dạy của Nho gia rằng “trung thần không thờ hai chủ”. Bản thân Ngơ Thì
Nhậm đã khơng tn thủ tuyệt đối lời dạy đó, nay lại ra lời kêu gọi họ ra đầu quân cho
nhà Tây Sơn – nếu không thuyết phục được họ thì lại dễ bị họ gọi là bất trung ! Thêm
nữa, Ngơ Thì Nhậm vốn xuất thân chỉ là một sĩ phu, nay lại đi nói lí lẽ với những người
thuộc tầng lớp trí thức liệu có khiến họ tự ái chăng ? Nhưng Chiếu cầu hiền của Ngơ Thì

Nhậm đã rất thành cơng. Ngun nhân là do đâu ? Tài năng của ông ? Thành tâm của ơng
? Tất cả những yếu tố đó cịn phải cộng thêm một điều rất quan trọng nữa, đó là nghệ
thuật ứng xử tài tình, khéo léo, tinh tế của ông. Vua Quang Trung đã không nhầm khi
đánh giá cao năng lực và giao cho Ngơ Thì Nhậm trọng trách chấp bút thay mình để cầu
hiền trong thiên hạ. Và chúng ta hôm nay không chỉ là ghi nhận mà còn phải biết cách thu
nhận từ bậc hiền tài này những bài học quý báu cho bản thân mình.
Triều đại Tây Sơn khơng cịn, nhưng lịch sử thì khơng thể xóa nhịa. Chiếu cầu
hiền mà Ngơ Thì Nhậm đã chấp bút thay vua Quang Trung ngồi ý nghĩa chính trị của
một thời nó cịn mang giá trị văn hóa của mọi thời. Những bài học rút ra từ văn bản này
thực sự là những điều rất tâm đắc của bản thân khi đọc và dạy nó, vì thế tơi tin vào sự
trường tồn của tác phẩm trước những thách thức nghiệt ngã của thời gian.
Trong kí ức của lồi người thì vào buổi trời đất tối tăm, Đan Cơ đã xé toang lồng
ngực, thắp lửa trái tim mình sáng rực soi đường cho mọi người đi tìm cuộc sống mới; đến
nay Đan Cơ khơng cịn nhưng trong tiềm thức con người, họ vẫn đi theo thứ ánh sáng đó,
hơn nữa họ cịn biết cách thắp sáng con đường mình đi. Thiết nghĩ người giáo viên hôm
nay cũng vậy, mỗi thầy cô cũng sẽ là một Đan Cô, phải biết thắp sáng những nẻo đường
bằng cách cháy hết trái tim mình trên những trang giáo án, trên bục giảng và trước những
trang đời của các thế hệ học trị. Vì thế trước khi mở lối để học sinh tiếp nhận được
những giá trị của văn bản Chiếu cầu hiền, nếu bản thân mỗi giáo viên tự coi mình là học
trị hậu thế của Ngơ Thì Nhậm và là học trị của chính mình (tiếp thu và ứng dụng những
những bài học mà mình sẽ dạy cho trị) thì tơi tin chúng ta cũng sẽ thuyết phục được
những học sinh thế hệ 8x, 9x u thích mơn Văn. Ánh sáng từ trái tim sẽ đi đến trái tim,
huống chi ta cịn có cẩm nang là những bài học xử thế, bài học về nghệ thuật thuyết phục
của Chiếu cầu hiền."



×