Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phân tích vở kịch hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.86 KB, 12 trang )

VĂN MẪU LỚP 12
PHÂN TÍCH VỞ KỊCH HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT CỦA LƯU
QUANG VŨ
BÀI MẪU SỐ 1:
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc
biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh
vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong
những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các
vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bằng
nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc
nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, cơng diễn lần
đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân
gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều
triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần
sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc
trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ”
Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống
trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một
nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú và người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc,
Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý
thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quy định chống lại bằng cách tách ra
khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện
dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vơ lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự
vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời
khuyên của Đế Thích nhằm trả lại cơng bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một
nghịch cảnh vơ lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống
nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên
của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia,
nay vì phải sống mượn, chắp vá, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến


được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng
sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể.
Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán
ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải). Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra


khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình khơng cịn là mình nữa. Trương
Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào
trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.Ý thức được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và
quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào
thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vơ ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba,
tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào
thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thồ hiệp vì theo lí lẽ của xác thịt là “chẳng
cịn cách nào khác đâu”, vì cả hai “đã hồ vào nhau làm một rồi”. Trước những “lí lẽ ti tiện”
của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng
thới cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác
thịt trong tuyệt vọng. Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa
ẩn dụ: Một bên đại điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng
đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối
thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt
tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm
quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân Màn đối thoại này cho thấy:
• Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống
chung với sự dung tục và bị sự dung tục ấy đồng hố.
• Khơng chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất
yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ,
cao quý trong con người.
Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân: Không phải ngẫu nhiên mà tác giả không
đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những
người thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ

hơn. Ơng hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông
không hề muốn điều đó. Thái độ của vợ trương Ba, con dâu và cháu gái trước sự biến đổi và
tha hoá của Trương Ba:
• Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bàn tính vị tha nên định nhường Trương Ba
cho cơ vợ anh hàng thịt.
• Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi
buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng
mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngồi là khơng đáng
kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi
ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhịa mờ dần đi, đến nối có
lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.


• Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn
trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong
thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã khơng cần phải giữ ý. Nó một
mực khước từ tình thân (tơi khơng phải là cháu ơng… Ơng nội tơi chết rồi). Cái Gái u q
ơng nó bao nhiêu thì giờ đây nó khơng thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”,
bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý
mới ươm” trong mảnh vườn của ơng nội nó. Nó hận ơng vì ơng chữa cái diều cho cu Tị mà
làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ơng
nội đời nào thơ lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi
quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Tuy nhiên, họ chỉ là những
người dân thường, họ khơng giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba. Tình
huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương
Ba thách thức xác anh hàng thịt: “có thật là khơng cịn cách nào khác?” và phản kháng
quyết liệt: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”). !”. Đây là lời độc
thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt
khốt.

Màn đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích: Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ
kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngồi một
nẻo nữa và muốn được là mình một cách tồn vẹn “Khơng thể bên trong một đằng, bên
ngồi một nẻo được. Tơi muốn được là tơi tồn vẹn”. Qua lời thoại này của nhân vật Trương
Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thơng điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn
và xác phải hài hồ. Khơng thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội
lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho
thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc
nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn khơng tồn
vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả. Nhưng Trương Ba khơng chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba
thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là
chuyện không nên nay đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tơi sống, nhưng sống thế nào thì ơng chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con
người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi khơng
được là mình thì cuộc sống ấy thật vơ nghĩa.
Lịng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vơ tâm cịn tệ hại
hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích định tiếp tục sửa sai của
mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba
nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống
giả tạo, mà theo ơng là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão lí trưởng và đám trương tuần,
không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi
Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích


cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới
các ông thật kì lạ”. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và
thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải
hài hịa. Khơng thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con
người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác,
không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự

cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá,
khi khơng được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba
với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của
mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời
càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp,
vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ
cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống
lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự
hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
Màn kết: Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hôn được trong
sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân
yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hồn theo quy luật của mn đời. Màn kết với chất thơ
sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi
thông điệp về sự chiến thăng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.
Khơng chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, trong vở kịch nói chung
và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực
trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất , con người đang có nguy cơ chạy theo những ham
muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ
hai , lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng
đến sinh hoạt vật chất, khơng phấn đấu vì hạnh phúc tồn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống
trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng khơng
kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không
được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và
lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu
Quang Vũ.


BÀI MẪU SỐ 2:
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là con trai của nhà biên kịch Lưu Quang Thuận, quê gốc

Quảng Nam, sống và làm việc trên đất Bắc. Thừa hưởng truyền thống văn chương của dòng
họ, Lưu Quang Vũ sáng tác khá sớm. Ở tuổi hai mươi, khi đang là một chiến sĩ của binh
chủng Phịng khơng – Khơng quân, Lưu Quang Vũ đã có nhiều bài thơ trữ tình được thế hệ
trẻ u thích. Từ năm 1978 đến năm 1988, ơng là biên tập viên của tạp chí Sân khấu. Trong
giai đoạn đầu tiên của thời kì đổi mới, xã hội Việt Nam có rất nhiều vấn đề nóng bỏng và
bức xúc, liên quan tới q trình phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân. Vốn là
người quan tâm tới thời cuộc, Lưu Quang Vũ đã quyết định chuyển hẳn sang sáng tác kịch
để có điều kiện bày tỏ, thể hiện những nhận thức và quan điểm của mình trước cơng luận.
Chỉ trong vịng mười năm, hơn năm mươi vở kịch với những đề tài hết sức thời sự và thiết
thực của Lưu Quang Vũ đã được dàn dựng, biểu diễn trên khắp cả nước, đem lại một sức
sống mới cho sân khấu Việt Nam và tạo ra những tranh luận, đánh giá sôi nổi, thậm chí có
những ý kiến hồn tồn trái ngược nhau. Người ta gọi đó là “hiện tượng Lưu Quang Vũ” vì
hiện tượng này có thể nói là chưa từng xảy ra trong lịch sử sân khấu Việt Nam. Những vở
kịch như: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Nếu anh không đốt lửa, Khoảng khắc và vô
tận, Bệnh sĩ, Tôi và Chúng ta… đã khẳng định tài năng xuất sắc và nhiệt tình cháy bỏng
cộng tình yêu thương con người, cuộc đời và trách nhiệm công dân rất cao của Lưu Quang
Vũ. Ông mất ngột trong một tái nạn giao thông năm 1988. Năm 2000, ông được Nhà nước
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và văn học nghệ thuật.
Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt vốn là một câu chuyện dân gian có từ lâu đời đã được
tác giả Lưu Quang Vũ xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ
có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân văn sâu sắc. Vở kịch được cơng diễn nhiều lần trong và
ngồi nước, được dư luận đánh giá tà một trong những vở kịch làm nện tên tuổi Lưu Quang
Vũ. Nội dung vở kịch tóm tắt như sau ; Trương Ba là một người làm vườn có tài chơi cờ
tướng. Vì sự nhầm lần của Nam Tào (vị quan trên Thiên đình trông coi về việc sinh tử của
con người dưới trần gian) nên Trương Ba ba chết oan. Để sửa sai. Nam tào cùng Đế Thích
(tiên cờ) làm cho Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt. Mọi chuyện rắc rối xảy
ra từ đây. Trương Ba bị làm phiền liên tục, bị người thân sợ hãi, xa lánh. Bản thân Trương
Ba cũng, rất "khó chịu vì phải sống trong thân xác khơng phải của mình”. Cuối cùng ơng đã
quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết thực sự để giải thốt cho
mình. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch : Bi kịch của

con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm
hồn nhân hậu bị tha hóa trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của
người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được
sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.


Ở đọan này, điểm đỉnh của mâu thuẫn kịch đã được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, giằng xé
đau đớn của hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt
ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc : Không !
Không ! Tôi không muốn sống như thế này mãi!… Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi
này lắm rồi, chán lắm rỗi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn
rời xa mi tức khắc ! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác
này, dù chỉ một lát!
Tiếp sau đó, hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn Và
xác bất đầu. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ của những lời đối thoại là nhiều tầng nghĩa khác nhau,
tuỳ thuộc vào trình độ của người xem kịch. Lưu Quang Vũ rất chú ý đến việc dùng ngôn
ngữ để phản ánh tính cách và bản chất nhân vật. Xác hàng thịt lên tiếng với giọng điệu mỉa
mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của hồn Trương Ba: Vở kịch, cái linh
hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tơi được đâu, dù
tơi chì là thân xác… Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi thường,
mày cũng biết nói kia à ? Vơ lí, mày khơng thể biết nói. Mày khơng có tiếng nói mà chỉ là
xác thịt âm u đui mù… Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào
cũng có được : thèm ăn ngon, thèm rượu thịt.
Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, tiếp tục khẳng định vai trò quan
trọng của linh hồn so với thể xác. Thế nhưng tác giả đã để cho cuộc tranh luận giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt không kém phần gay go, quyết liệt. Có những lúc tiếng nói của
xác thịt đường như lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế lúng túng, bị động:
Nhưng tôi là cái hồn cảnh mà ơng buộc phải quy phục!… Sao ơng có vẻ khinh thường tơi
thế nhỉ? Tơi cung đáng được q trọng chứ. Tơi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tơi
mà ơng có thể làm lụng, cuốc xới. Ơng nhìn mảnh đất cây cối, những người thân… Nhờ có

đơi mắt của tơi, ơng cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành
hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác… Những vị lắm chữ nhiều sách như các
ông hay vịn vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê cho
thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác… Mỗi bữa tơi địi ăn tám, chín bát cơm, tơi thèm ăn
thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào ? Lỗi là ở chỗ khơng có đủ tám, chín bát cơm cho tơi ăn chứ …
Tơi thơng cảm với những "trị chơi tâm hồn của ơng Nghĩa là: Những lúc một mình một
bóng, ơng cứ việc nghĩ rằng ơng có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hồn
cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ơng cứ việc đổ tội cho
tơi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ơng được ve vuốt. Tâm
hồn là thứ lắm sĩ diện, Hà hà, miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm
khát của tôi. Hồn Trương Ba tuy vẫn khăng khăng phủ nhận lí lẽ của xác hàng thịt: Lí lẽ của
anh thật ti tiện, nhưng rõ ràng là đã lâm vào tình thế tuyệt vọng và chỉ biết than: Trời!


Cả gia đình Trương Ba cũng bị cuốn vào bi kịch bởi những điều lộn xộn, tréo ngoe do hồn
một đằng xác một nẻo gây ra. Vợ Trương Ba thì trách móc chồng : ơng bây cịn biết đến ai
nữa ! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con
mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế ! Cái Gái thương bạn, ngơ ngẩn cả người… Không hiểu
thằng bé có qua khỏi được khơng, khéo mà… Cái thân tơi thì sao trời lại khơng bắt đi cho
rảnh ! Bà muốn bỏ nhà mà đi. Bà nói như khóc: Tơi nói thật đấy… ơng Trương Ba ạ, tơi đã
nghĩ kĩ: Có thể tơi phải đi.. Đi cấy th làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt,. Để ông được
thảnh thơi… với cơ vợ người hàng thịt.. Cịn hơn là thế này… Tơi biết, ơng vẫn là người hết
lịng thương u vợ con… Chỉ tại bây giờ… ơng đâu cịn là ông, đâu còn là ông Trương Ba
làm vườn ngày xưa…
Cái Gái, đứa cháu nội yêu quý của Trương Ba cũng tỏ thái độ gay gắt : Tôi không phải là
cháu của ông ! ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ
ơng ! Ơng dám nhận là ơng nội, dám đụng vào cây cối trong vườn của ông nội tôi. Khi hồn
Trương Ba cố gắng thanh minh: …sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài
vườn, cháu khơng thấy sao : Chỉ có ơng nội cháu mới biết quý cây như thế… thì cái Gái lại
càng gào lên căm giận : Q cây! Hừ, tơi phải rình lúc này, cà nhà đi vắng hết để đến nói

với ông: Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ơng tơi nữa ! Ơng mà q
cây à ? Sáng qua, tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái
chồi non chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cà cây sâm quý mới ươm Ị Ông nội tôi
đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy ?
Chị con đâu của Trương Ba là người hiểu ông, thương ông nhất. Lúc đầu, chị chấp nhận
tình cảnh trớ trêu của cha chồng vì thân xác tuy là của anh hàng thịt thô kệch nhưng tâm hồn
ông vẫn thuần hậu như xưa. Chị nói: Thầy vẫn dạy chúng con : Cái bên ngồi có quan trọng
gì, chì có tấm lịng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể. Nhưng đến
lúc này, chị cũng thấy vừa thương vừa sợ. Chị đau đớn, day dứt khi phải thật tình bộc bạch
suy nghĩ của mình với cha chồng: …thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy…
mỗi ngày thầy một khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi
có lúc chính con cũng khơng nhận ra thầy nữa… Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm
sao, làm sao giờ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia ?
Làm thế nào, thầy ơi Ị Chị con dâu đã nhận xét rất đúng, rất đầy đủ về tình cảnh nan giải của
Trương Ba lúc này.
Lời nói của chị con dâu chứa đựng sự thực phũ phàng có tác dụng thức tỉnh hồn Trương
Ba, thúc đẩy ông tới một sự lựa chọn một hành động đau xót nhưng quyết liệt. Đoạn độc
thoại thể hiện sự dằn vặt khổ sở của hồn Trương Ba khi phải đối điện với chính mình, khi tự
đặt ra và trả lời những câu hỏi của lương tâm : Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác khơng
phải của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày,
khuất phục mày và tự đánh mất mình ? “Chẳng cịn cách nào khác”. Mày nói như thế hả ?


Nhưng có thật ta khơng cịn cách nào khác ? Không cần cái đời sống do mày mang đến.
Không cần!
Để củng cố thêm quyết tâm, Trương Ba thắp nhang cầu khẩn sự giúp đỡ của vị tiên cờ Đế
Thích và thổ lộ nỗi khổ tâm của mình : Ơng Đế Thích ạ! Tơi khơng thể tiếp tục mang thân
xác anh hàng thịt được nữa, không thể được.. Không thể bên trong một đằng, bên ngồi một
nẻo được. Tơi muốn được là tơi tồn vẹn. Thế nhưng những lời giải thích của Đế Thích lại
làm cho Trương Ba một phen bàng hồng: Thế ơng ngỡ tất cả mọi người đều được là mình

tồn vẹn cả ư? Ngay cả tơi đây. Ở bên ngồi, tơi đâu có được sống theo những điều tơi nghĩ
bên trong. Mà cả Ngọc Hồng nữa, chính người lắm khi cũng phải khn ép mình cho xứng
với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất trên trời đều thế cả nữa là ơng. Ơng đã bị gạch tên khỏi
sổ Nam Tào, thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, cịn chút hình thù nào của ơng
đâu Ị
Bàng hồng nhưng Trương Ba vẫn như đang đắm mình trong dịng suy nghĩ, dằn vặt,
thống chút trách móc: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên,
đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tơi
sống, nhưng sống như thế nào thì ơng chẳng cần biết.
Sự giằng xé trong tâm trạng Trương Ba được tác giả vở kịch thể hiện tự nhiên, sinh động và
chân thật. Muốn thốt khỏi tình huống khó xử và khó chịu như thế này, Trương Ba chì cịn
một cách là chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Ông muốn Đế Thích trả lại thân xác cho anh hàng
thịt để phần hồn sẽ sống hòa thuận với thân xác anh ta, để vợ anh ta khơng cịn phải sống
trong cảnh góa chồng thật đáng thương. Trong khi, Đế Thích đang phân vân hỏi nếu làm
như vậy thì hồn Trương Ba sẽ trú ở đâu, Trương Ba đã trả lời dứt khoát: Ở đâu cũng được
chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ… tôi sẽ… nhảy xuống sông hay đâm một
nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tơi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất. Mâu thuẫn kịch
được đẩy len cao hơn với chi tiết cu Tị con chị Lụa hàng xóm sắp chết. Cu Tị là bạn thận
của cái Gái! cháu nội ông Trương Ba. Đế Thích nhân cơ Hội này đề nghị Trương Ba nhập
hồn vàp xác cu Tị. Trương Ba suy nghĩ rất nhanh, hình dung rất nhanh về hậu quả của sự
việc đó để rồi từ chối, bởi những rắc rối mà ông đang phải chịu đựng đã khiến ông vô cùng
khổ sở, khổ sở hơn là chết.
Thương Trương Ba con người hiền lành, đôn hậu và không muốn mất người bạn cờ tri âm
tri kỉ nên Đế Thích vẫn cố gắng thuyết phục, nhưng Trương Ba khăng khăng không đổi ý :
Tôi đã nghĩ kĩ.. Tơi khơng nhập vào hình thù ai nữa Ị Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
Hành động trả lại thân xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là hành động đúng đắn, dũng
cảm và hợp đạo lí. Điều đó khẳng định rằng : Một linh hồn dù tốt đẹp đến đâu nhưng phải
trú ngụ trong một thể xác khác thì cũng khơng thể nào thấy thoải mái vì mặc cảm giả dối.
Sống như thế thì khơng phải là sống theo đúng ý nghĩa của từ này mà chỉ là sự tồn tại đơn


thuần mà thôi. Trương Ba chết nhưng tâm hồn tốt đẹp cua ông sẽ sống mãi trong tình yêu
mến và nỗi tiếc nhớ của gia đình, bạn bè; làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.


Đọan trích Hồn Trương Ba da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân
văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm
đúng đắn về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự.
Có ý nghĩa khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người vì sự tốt đẹp của cuộc đời.
Tư tưởng triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa biện chứng vừa lạc quan, cao thượng.
Tất cả những điểu đó được thể hiện bằng tài năng sáng tạo hiếm có của tác giả khiến vở
kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang Vũ xứng đáng là nhà biên kịch
xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.


BÀI MẪU SỐ 3:
Lưu Quang Vũ là một trong những hiện tượng nổi bật nhất của đời sống văn học dân tộc
những năm tám mươi của thế kỉ XX. Chỉ trong bảy, tám năm mà ông sáng tác khoảng năm
mươi kịch bản dược dàn dựng hầu hết. Công chúng náo nức đến với ánh đèn sân khấu, sàn
diễn của nhiều nhà hát, đoàn nghệ thuật ở kháp mọi miền đất nước nhờ kịch bản của Lưu
Quang Vũ. Có những đợt Hội diễn sân khấu toàn quốc, đa số vở được trình diễn và đoạt giải
mang tên tác giả Lưu Quang Vũ. Kịch Lưu Quang Vũ viết về nhiều đề tài, có giá trị về
nhiều mặt, trong dó Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở có tính triết lí sâu sắc.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện
dân gian để gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một sô
tiêu cực trong lối sống hiện thời. Cốt truyện dân gian có thể tóm tắt như sau : Có ơng
Trương Ba hiền lành, chăm chí và rất cao cờ, một hơm đột ngột chết (do việc làm tắc trách
của hai vị quan Nam Tào, Bắc Đẩu trên Thiên đình). Tiếc tài đánh cờ của người nơng dân
ấy, tiên Đế Thích dùng phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác một anh hàng thịt để tiếp tục
sống. Vậy là xảy ra chuyện tranh chấp chồng giữa hai người vợ, phải đưa lên quan xét xử.
Quan tiến hành phép thử bằng cách ra lệnh cho đương sự lần lượt làm hai việc : mổ lợn và

đánh cờ. Đương sự không biết cầm dao mổ lợn thế nào cho thuận song đánh cờ lại rất cao
tay. Quan bèn quyết định cho bà Trương Ba đem chồng về. Như thế, tình huống kịch của
Hồn Trương Ba, da hàng thịt được bắt đầu từ chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn
Trương Ba được sống "hợp pháp" trong xác anh hàng thịt, mọi sự ngày càng trở nên rắc rối,
éo le. Nhân vật đâu được sống bình thường, yên ổn. Ba tháng "ngụ cư" trong thân xác lạ,
hồn Trương Ba có nguy cơ bị thân xác lấn át. Nó đã phải trải qua những cuộc đấu tranh gay
gắt với chính thể xác mà mình trú ngụ - một thể xác đầy ham muốn bản năng của anh hàng
thịt. Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ, đáng sợ trong mắt những người thân. Một tâm
hồn thanh cao lại phải sống nhờ trong một thân xác thô lỗ, cồng kềnh. Thậm chí, đã có khi
Hồn Trương Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt, nhân vật chút nữa bị thất bại trước sự
dẫn dắt của thể xác. Kết cục, để bảo toàn sự thanh sạch của mình, Hồn Trương Ba chấp
nhận cái chết vĩnh viễn, khước từ cuộc sống khơng cịn được là mình, dù sự sống mn
phần đáng q. Nội dung chính của vở kịch là tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của
Hồn Trương Ba từ khi "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo", là quyết định đúng đắn,
cao thượng của nhân vật để thốt khỏi tình cảnh ấy.
Văn bản trong sách Ngữ văn 12 thuộc cảnh VII và Đoạn kết, cũng là cảnh cuối cùng của
kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Ở cảnh này, xung đột trung tâm của vở kịch (xung đột
giữa linh hồn và thân xác trong nhân vật Hồn Trương Ba) lên đến đính điểm. Có thể nhận ra
diễn biến cụ thể của tình huống kịch ở đây theo các bước: Sau mấy tháng sống trong tình
trạng bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên


xa lạ đối với những người thân trong gia đình, với bạn bè và cũng tự chán mình. Hồn
Trương Ba cảm thấy không thể sống như
thế này mãi, muốn tách ra khỏi thân xác kềnh càng, thô lỗ của anh hàng thịt. Tâm trạng này
được thể hiện qua lời nói của nhân vật ở ngay đầu đoạn trích. - Cuộc đối thoại giữa hồn và
xác với sự giễu cợt, tự đắc của xác khiến hồn càng khổ đau, càng cảm thấy bế tắc. - Thái độ,
cư xử của những người thân trong gia đình (người vợ, đứa cháu và nhất là chị con dâu mà
Trương Ba hằng thương yêu, tin cậy) khiến nhân vật Hồn Trương Ba càng đau khổ, tuyệt
vọng, cuối cùng đi đến quyết định giải thoát. - Cuộc gặp gỡ, đối thoại cuối cùng cua Hồn

Trương Ba với tiên Đế Thích và quyết định dứt khốt của Hồn Trương Ba. Quyết định của
Hồn Trương Ba thể hiện qua độc thoại nội tâm của nhân vật này : quyết không chịu khuất
phục thân xác và tự đánh mất mình. Ơng châm nén hương để gọi tiên Đế Thích. Đây là
bước ngoặt chuẩn bị cho việc giải quyết xung đột kịch về sau. Trong quá trình phát triển của
tình huống, cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ "mở nút". Nó
là đứa bé "ngoan lắm, khôn lắm" mà Hồn Trương Ba rất quý. Tình thế này buộc Hồn
Trương Ba phải dứt khoát chọn ngay một cách giải quyết. Qua diễn biến của xung đột kịch,
cho thấy Lưu Quang Vũ đã khéo dồn nén mâu thuẫn, đã đẩy tình huống kịch lên cao trào
(thắt nút) rồi giải quyết (mở nút) thật tự nhiên, hợp lí.
Sự thay đổi của Trương Ba trong thời gian để hồn trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt ngày
càng rõ rệt như thế nào ? Diễn tả sinh động điều này có ý nghĩa quan trọng bởi từ đó, người
đọc thấy rõ tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã khéo
mượn lời các nhân vật khác - những người thân trong gia đình Trương Ba (người vợ, đứa
cháu, chị con dâu) để chỉ ra điều đó. Hồn Trương Ba bây giờ đâu còn là người làm vườn
chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con như trước. Ông cũng chẳng quan tâm gì đến chuyện
của bà con hàng xóm. Hồn Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng chứ khơng cịn
khéo léo, nhẹ nhàng khi chăm sóc cây cối, khi chữa diều như trước nữa. Ngay cả người biết
thương cảm cho tình cảnh của Hồn Trương Ba như chị con dâu giờ cũng xót xa, ngỡ ngàng
bởi khơng cịn được thấy hình ảnh con người "hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng
con xưa kia",... Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích sau đó chứng tỏ nhân vật
này đã tự ý thức, đã thấm thía về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình.
Những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết của Lưu Quang Vũ được gửi gắm
nhiều ở cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích. Đoạn kịch này cũng là nơi
kết tinh giá trị tư tướng của tác phẩm. "Không thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo
được. Tơi muốn được là tôi trọn vẹn". Qua lời thoại này của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch
muốn khẳng định rằng con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hồ. Khơng thể
có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối
bởi những nhu cầu ban năng của thân xác thì đừng chỉ đổ lỗi cho thân xác, đừng vỗ về mình
bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn... "Sống nhờ vào đổ đạc, của cải người khác đã là chuyện
không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phái sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn

giản là cho tơi sống, nhưng sống như thế nào thì ơng chẳng cần biết !". Đây là lời thoại có ý
nghĩa triết lí về lẽ sống. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi
sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vơ nghĩa.


Thời gian Hồn Trương Ba trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt để Trương Ba tiếp tục được
sống thì ông bị mọi người xa lánh, bản thân ngày càng tự cảm thấy khó chịu, đau khổ.
Nhưng khi Hồn Trương Ba dứt khốt chọn cái chết để thốt khỏi tình trạng bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo, để nhường cuộc sống cho cu Tị thì ơng lại được sống trong tâm trí
mọi người, được con cháu mãi nhớ thương, kính trọng. Ơng như được gần gũi, quấn qt
quanh mọi người. Lời dạy của ông được con cháu nhắc nhở, thấm thìa. Đó chính là ý nghĩa
sâu xa của đoạn kết vở kịch. Từ tình cảnh của nhân vật Hồn Trương Ba, từ các lời thoại giàu
ý vị triết lí, vở kịch toát lên tinh thần phê phán lối sống chạy theo những ham muốn tầm
thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến trở nên phàm phu, thơ thiện. Tác phẩm cũng cất
lên lời cảnh báo về tình trạng con người phải "sống giả", vì những lí do nào dó mà khơng
cịn được là mình. Đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hoá do danh và lợi. Như vậy,
vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt thể hiện tinh thần chiến đấu thẳng thắn của Lưu Quang
Vũ - một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội ở những năm 80 của thế kỉ
XX ; đồng thời nêu lên những bài học về lẽ sống - chết, về hạnh phúc, có ý nghĩa với nhiều
thời. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được ; hạnh phúc chân
chính của con người là được sống trọn vẹn, sống thật với chính mình, với mọi người. Đó là
triết lí sâu sắc toát lên từ vở kịch này.



×