Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mặc Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.63 KB, 7 trang )

VĂN MẪU LỚP 11
PHÂN TÍCH NÉT ĐẸP CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI TRONG BÀI THƠ
“ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Hàn Mặc
Tử là nhà thơ lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một
tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy
bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ
mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tơn giáo…nhưng đó là hình chiếu
ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. "Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ hay
và tiêu biểu nhất cho phong cách tâm hồn thơ HMT, bài thơ đã được nhà phê bình Hồi
Thanh chọn in trong tập "Thi nhân Việt Nam" (1941). Đây có thể xem là một chủ âm
trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử, là một thi phẩm xuất sắc của thi đàn Thơ
mới. Hàn Mặc Tử quan niệm “Ta không nên quên thơ ta là thơ quốc âm, ta phải giữ cái
tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa cái tinh thần phương Đông mà rung cảm tâm hồn
người ta là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm thía”. "Đây thơn Vĩ Dạ"
cũng theo tinh thần ấy, bài thơ là sự kết hợp giữa nét truyền thống và hiện đại.
+Cổ điển:
Buổi đầu, để khẳng định cái mới, đề cao Thơ mới, người ta cho rằng Thơ mới đã
đoạn tuyệt với thơ cổ. Thực ra, trong quá trình vận động, Thơ mới luôn tiếp nối văn mạch
của thơ cổ, tiếp thu tinh hoa thơ cổ. Chịu ảnh hưởng thi ca Pháp nhưng Thơ mới có liên
hệ sâu sắc với Đường thi.
- Trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ", yếu tố truyền thống trước hết thể hiện ở thể thơ
7 tiếng tuân thủ chặt chẽ hiệp vần, đối, điệp.
- Thi liệu lấy tứ từ thơ cổ: gió, trăng, thuyền, trúc, bến sơng, thuyền,…
Hình ảnh hàng cau , lá trúc, vườn cây là hình ảnh cuả thơn q Việt Nam . Hình ảnh ấy
đã trở thành tình tự dân tộc trong ca dao, và tâm hồn VN trong thơ cổ điển. “ Gió đưa
cành trúc la đà “( Ca dao ), “ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo “ ( Thơ Nguyễn
Khuyến).
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Tứ thơ có cái cao rộng trí tuệ cuả dịng trường giang chảy bên trời trong thơ cổ


điển ( vì sơng trăng cũng chảy ngang bầu trời, như sơng Ngân hà ), vưà có cái ấn tượng
thân phận mơ hồ sâu xa cuả “ thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa “trong thơ Nguyễn


Du, lại có cái cảm thức đời thực cuả những con đò chở khách hay con thuyền đánh cá trở
về vào buổi tối.
Nét truyền thống trong thơ trung đại được HMT vận dụng trong việc gợi tả, chấm
phá "nắng hàng cau", "vườn ai mướt quá xanh như ngọc", khắc họa bức tranh thiên nhiên
tươi đẹp, tinh khôi của xứ Huế chỉ bằng 2 câu thơ. Cần chi phải tả nhiều, viết nhiều, ngần
ấy thôi cũng đủ cho bạn đọc cảm nhận về thơn Vĩ tươi đẹp trong kí ức nhà thơ.
- nhịp điệu thơ nhẹ nhàng: Tồn bài thơ ln duy trì một âm điệu trầm buồn , sâu
lắng , rất thích hợp để diễn tả tâm trạng của nhà thơ .Âm điệu này được tạo nên bởi nhịp
điệu đều đều chậm rãi của thể thơ thất ngôn : 2/2/3 hoặc 4/3 với rất nhiều thanh bằng nằm
ở vần thơ.Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca
dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì 1 dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)
Và vì thế nó gợi lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng
khng.
Tồn bài thơ có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, khơng
chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về
một miền dân ca Huế man mác sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:
“Núi Truối ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm ao cá nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò…”
+ Hiện đại:
- Nét hiện đại trong Thơ Mới thể hiện rõ ràng nhất ở cách bộc lộ tâm trạng trực
tiếp của tác giả. Yếu tố tâm lí phức tạp, "điên loạn" thể hiện rõ qua sự thay đổi tâm trạng

giữa các khổ thơ, các yếu tố không gian thời gian bị đảo lộn, không theo quy luật khách
quan từ gần đến xa từ xa đến gần, khơng theo dịng chảy của thời gian mà theo dòng chảy
của tâm trạng:
- Tâm trạng buồn của nhà thơ lại in đậm nỗi buồn, cô đơn của thời đại, khát khao
yêu đương chân thành, đằm thắm, sự gắn bó với xứ Huế, một miền đất quê hương... Từ
ao ước, đắm say đến hoài vọng, đợi chờ và mơ tưởng, hoài nghi để cuối cùng sầu muộn
và bi quan, yếm thế. Tất cả chỉ là những cung bậc khác nhau nhưng cốt lõi vẫn là một nỗi
niềm thiết tha giao cảm với đời, với con người.từ góc độ không- thời gian nghệ thuật, bài
thơ liên kết với nhau khơng tn theo tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của


không gian: cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong ánh nắng mai với cảnh sắc bình dị mà tinh
khơi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cảnh thực; cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo,
thực hư xen lẫn vào nhau chập chờn chuyển hố và hình bóng “khách đường xa” nơi
chốn sương khói mơng lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Không- thời gian nghệ thuật của
bài thơ được sáng tạo mang tính chủ quan gắn với tâm lí và cảm quan của nhà thơ.
Thời gian trong bài thơ tồn tại khơng có tính liên tục, bị đứt nối, ngắt qng: cảnh
thôn Vĩ vào buổi sớm tinh mơ- cảnh sông nước đêm trăng và cuối bài thơ chỉ còn là thời
gian vô thức, không xác định. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” như một dịng chảy trơi
những đứt nối của một nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, khát vọng sống đến khắc khoải.
Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ của nhà
văn về cuộc đời và con người. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện quan niệm
của Hàn Mặc Tử về thế thái nhân sinh. Cuộc đời là một chuỗi thời gian đứt gãy, chắp nối
và cuối cùng tan vào hư vô. Mở đầu bài thơ, thời gian bắt đầu một ngày mới “Nhìn nắng
hàng cau, nắng mới lên”, cảnh vật tràn đầy sức sống. Thời gian thường vận động theo
dịng vận động tuyến tính, một chiều. Thế nhưng, nét mới, nét hiện đại ở đây là thời gian
trong bài thơ không liên tục mà ngắt quãng. Thời gian mở đầu là buổi sớm tinh khôi
nhưng đột ngột chuyển sang đêm trăng đầy mong ngóng, lo âu, buồn đến nao lòng và kết
thúc trong thời gian mộng ảo, không xác định. Sự đứt nối thời gian trong bài thơ như một
nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc đời và kiếp sống mong manh, đứt đoạn của con

người, của Hàn Mặc Tử- một kiếp người dang dở tình duyên và sự nghiệp văn chương.
Thời gian của bài thơ khơng mang tính liên tục cịn khơng gian lại khơng tn theo
tính duy nhất. Khơng gian trong “Đây thơn Vĩ Dạ” là khơng gian của sự chia lìa. Khơng
gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là mơ hình thế giới độc lập, có tính chủ ý và
mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả, là không gian tinh thần của con người, là không
gian sống mà con người cảm thấy trong tâm tưởng. Không gian nghệ thuật là loại không
gian topos, là không gian cảm giác được, là không gian nội cảm chứ không phải như
không gian mặt phẳng kiểu Euclid. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc
sống. Do đó khơng thể quy khơng gian trong “Đây thơn Vĩ Dạ” về khơng gian địa lí hay
khơng gian vật lí, vật chất.
Khơng gian trong bài thơ là khơng gian xứ Huế , cách trở, huyền hồ ”mờ nhân
ảnh”. Không gian xa xơi, ngăn cách ấy khơng phải vì khơng gian địa lí mà đó là sự cách
trở của hai tâm hồn, là nỗi niềm thổn thức của Hàn thi sĩ. Khơng gian ở đây được soi
chiếu qua lăng kính cảm xúc chủ quan của nhà thơ
- Hình ảnh :


Những hình ảnh vưà quen thuộc dân dã đã được HMT biến trở thành mới lạ hiện
đại. HMT đã truyền vào những chất liệu ấy một màu sắc thẩm mỹ mới. Không chỉ hàng
cau, mà nắng mới trên hàng cau; Không chỉ khám phá ra những lá non xanh mướt cuả
vườn cây mà còn nhận ra cái màu xanh ngọc sang trọng ; Không nhắc lại ngõ trúc, cành
trúc hiu quạnh tĩnh mịch cuả ngày xưa mà là “ lá trúc che ngang mặt chữ điền “ . Câu thơ
bao hàm được cả khung cảnh làng quê, ngõ trúc và cuộc sống đang diễn ra, gần gũi thân
thương…
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Khổ thơ vẽ nên cảnh sắc vưà thực vưà hư ảo, vưà là Quy Nhơn ( ở đây ), vưà là ấn

tượng xứ Huế trong linh hồn đau thương cuả HMT, cảnh vưà trong thực tại hôm nay
trong cõi đời này, lại vưà như ở nơi xa mờ ngoài cõi nhân gian. Trong không gian cuả thế
giới đa chiều ấy, linh hồn HMT vưà hy vọng vưà tuyệt vọng, vưà hướng ra xa tìm kiếm
mong đợi, vưà nhìn vào trong thương cho số phận mình. Điều lay động sâu xa nơi người
đọc vẫn là tấm lòng thiết tha cuả HMT với cuộc đời, với đất nước, con người quê hương.
Điều kỳ diệu là, trong nỗi bi thương và tuyệt vọng khơng cùng ấy, hình ảnh q hương,
con người xứ Huế hiện lên thật trong trẻo khôi nguyên. Nắng mới trên hàng cau, vườn
cây xanh ngọc, con thuyền đậu bến sơng trăng, áo em trắng q…Đó cũng là linh hồn
tinh khôi cuả HMT, người đã vượt lên trên cái bi thương tuyệt vọng , vượt lên trên sự
nhạt nhoà cõi chết, để sống mãi với đời trong niềm khát khao vô hạn cõi nhân sinh tuyệt
diệu này
- Xu hướng thơ siêu thực, tượng trưng:
“Trăng” là hình ảnh khá quen thuộc trong thơ ca trung đại để tỏ chí, tỏ lịng nhưng
trong bài thơ này khơng cịn là ánh trăng của thi ca cổ điển nữa, nó đã được tác giả làm
mới qua hình ảnh “sơng trăng”. Khơng cịn là ánh trăng cô đơn trên cao, không phải là
ánh trăng để người thi sĩ giài bày, "sơng trăng" tốt lên thứ ánh vàng kì lạ, như sáng bừng
một góc xứ Huế, sáng dậy một góc trong tâm thức thi sĩ . Hình ảnh Trăng xuất hiện rất
nhiều trong thơ HMT, nó gần như trở thành một nỗi ám ảnh trong thơ ơng. Nhà phê bình
Đặng Tiến có nhận xét minh xác về trăng Hàn thế này: “Trăng là nguồn sống để đối diện,
giãi bày nỗi lòng của thi sĩ. Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không chỉ là ánh sáng huyền ảo
và hắt hiu mà nó như một vật cụ thể khả xúc”.
Cảnh mây gió, sơng nước, đêm trăng xứ Huế êm đềm thơ mộng. Xứ Huế có dịng
sơng Hương nuớc lững lờ trôi. Thuyền cuả du khách xuôi êm như ru qua các cù lao, hai
bên bờ đậm nhạt hoa cỏ. Ở cù lao Hến người xứ Huế trồng bắp, hoa bắp lay theo gió.


Khách tham quan có thể ghé vào thưởng thức những trái bắp ngọt … Đêm trăng sông
Hương là một không gian tuyệt vời, bầu trời rất trong và thoáng đãng, khơng gian tràn
ngập ánh trăng. Trăng tn chảy thành dịng , HMT gọi đó là sơng trăng. Con thuyền đậu
bến sông trăng, như trong một thế giới trong veo cuả sự thanh khiết bình an và lãng mạn.

Những nét vẽ cảnh vật cuả HMT sắc xảo, tinh tế và có thần. Ai đã từng thả thuyền trên
sông Hương ban ngày hoặc xi theo dịng trong đêm trăng đều nhận ra cái tài hoa rất
mực cuả HMT trong tứ thơ
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Khổ 2 là bức tranh Siêu thực về cảnh sắc xứ Huế qua tâm trạng cuả HMT. HMT
nhìn đâu cũng thấy sự chia ly. Nỗi buồn thương bao trùm lên tất cả.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay
Xưa nay mây đi theo gió, gió thổi mây bay. Giờ thì gió theo lối gió, mây đường
mây, một hình ảnh Siêu thực, hình ảnh cuả chia ly. Mây, gió trở thành ẩn dụ cho sự chia
xa không sao hàn gắn được trong tâm thức HMT. Dịng sơng Hương giờ chỉ cịn là “
dịng nước buồn thiu “, vắng lặng, thê thiết. Hoa bắp lay và dịng nước buồn thiu hình
như chẳng có liên quan gì với nhau. Đó là hai thực tại vơ dun, nhạt nhẽo. Gọi là vơ
dun bởi vì so với các lồi hoa, thì hoa bắp là loại hoa khơng hương khơng sắc, chẳng ai
để ý. Người nơng dân nhìn hoa bắp để biết trái bắp non hay già. Khi hoa bắp khơ, ấy là
lúc trái bắp đã cứng hạt, có thể thu hoạch. Hoa bắp trên thân cây khô chẳng gợi ra được
bất cứ cảm xúc thẩm mỹ nào. Khác với “ hoa trôi man mác biết là về đâu “ ( Truyện Kiều
) gợi ra số phận buồn thương. Trong mắt nhìn cuả HMT, thực tại bây giờ là thực tại vô
duyên, lạnh nhạt, thê thiết. HMT đã xa lạ với thực tại ấy, đang mất dần những mối quan
hệ với thực tại ấy, chẳng thể giữ được điều gì. HMT đã đem đến cho thơ ca VN những
mới mẻ cuả nghệ thuật Siêu thực. Cảnh sắc mây gió, sơng nước, đêm trăng xứ Huế đã
thăng hoa thành cái đẹp, cái đẹp vượt trên thực tại, để cùng với cái đẹp hiện thực cuả xứ
Huế làm nên tứ thơ lạ lùng, như chưa từng có. Quả thật khó có nhà thơ nào viết được
những tứ thơ hay hơn, độc đáo hơn về trăng như dịng sơng trăng cuả HMT. Bức tranh
thiên nhiêu Siêu thực đã làm thay đổi phẩm chất thơ trữ tình: Thơ trữ tình HMT trở thành
thơ trữ tình hướng nội.. Thử so sánh với các nhà thơ khác. Xuân Diệu chiêm ngắm muà
thu ở ngoài tâm hồn mình , từ đó cảm nhận cái đẹp khách thể cuả thiên nhiên trong Đây
Muà Thu Tới, Huy Cận trải lịng mình trên “ sơng dài, trời rộng bến cơ liêu “ mà nghe “
lòng quê dờn dợn vời con nước"( Tràng Giang ). Còn HMT lại tự hỏi, con thuyền đậu bến

sơng trăng kia “có chở trăng về kịp tối nay “.
=> phong cách thơ Hàn Mặc Tử: tượng trưng, siêu thực .....


- Nhạc điệu thơ Hàn Mặc Tử là nhạc điệu của tâm hồn có nhiều trạng thái đặc biệt.
Hàn Mặc Tử hay dùng cách kết hợp các từ láy hay chú công trong thanh điệu dể diển tả
những khúc nhạc lòng buồn miên man hoặc trầm lắng du dương. Một chữ “mơ” đầy tình
tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Du khách
hay thôn nữ Vĩ Giạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: “Áo em trắng quá
nhìn không ra”. Vừa thực vừa mông. Con người của thực tại hay con người trong hồi
niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Giạ đã làm mờ nhân ảnh của giai
nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một thứ tình u kín đáo, e dè,
thiết tha
Cùng với việc đổi mới câu thơ, đổi mới từ ngữ, Thơ mới có sự vận động tăng
cường tầng nghĩa sâu theo "Ngun lí tảng băng trơi" (Hemingway) bằng các biện pháp
ẩn dụ, chuyển đổi cảm giác, tạo nghĩa gợi ý, ẩn ý, hàm ý. Theo Chế Lan Viên, trong thơ
có "bề mặt" ,"bề sâu" và cả "bề xa" nữa. Câu thơ mở đầu bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn
Mặc Tử: "Sao anh không về chơi thôn Vỹ" là một câu hỏi phản ánh nội tâm phong phú và
tuyệt vời tế nhị. Từ "sao" là từ để hỏi, đặt ở đầu câu như nỗi niềm da diết, bức xúc bị dồn
nén quá lâu nay mới được bật ra. Câu thơ có 6 thanh bằng ở đầu, thanh trắc ở cuối vút lên
tạo âm điệu đặc biệt: nửa như trách cứ day dứt mà nhẹ nhàng, nửa như mời gọi giục giã
mà thiết tha. Người hỏi là ai ? Một cơ gái hay chính thi sĩ ? Có lẽ cả hai! Hay đúng hơn,
chính Hàn Mặc Tử phân thân để tự đối thoại. Từ tấm lòng thi sĩ vút lên câu hỏi khắc
khoải vừa thương nhớ Huế, vừa thương nhớ Người. Tình yêu đồng vọng với tình quê
khiến hình ảnh thơn Vỹ hiện về tràn ngập tâm hồn thi sĩ. Ở đây, sự giao tiếp của thơ thực
hiện vừa bằng cảm xúc, vừa bằng trí tuệ, vừa bằng cả thẩm mĩ các giác quan hịa quyện.
Bài thơ có cấu trúc rất lạ. Sự việc, con người được kể lại không theo bút pháp kể chuyện,
sự vận động cuả hình tượng thơ cũng khơng phải là nhịp điệu chuyển hố tâm trạng cuả
nhân vật trữ tình. Tuy vậy, ba khổ thơ vẫn liền một mạch. Trước hết có sự liền mạch là
do các câu hỏi được lặp lại trong mỗi khổ thơ. Phép lặp cấu trúc tạo nên sự kết nối.

Nhưng cái mạch chính cuả bài thơ là ấn tượng cuả HMT về cảnh sắc, con người xứ Huế
đẹp, thơ mộng, êm đềm. Mỗi khổ thơ là một bức tranh xứ Huế trong những thời gian
khoảnh khắc khác nhau. Vườn cây, hàng cau, con thuyền đậu bến sống trăng, thiếu nữ xứ
Huế trắng loá trong sương. Ba bức tranh tuy là riêng biệt nhưng vẫn là những nét đẹp đặc
thù trong tổng thể đất nước con người xứ Huế . Mạch phát triển tình cảm xuyên suốt bài
thơ cũng là mạch thống nhất, đó là tình cảm đằm thắm sâu nặng cuả HMT với quê hương
xứ Huế, dù cung bậc và sắc thái tình cảm có khác nhau, song tình cảm ấy cuả HMT là
vẫn là một khối tinh rịng và lấp lánh những sắc màu cuả tình q hương, tình tự dân tộc,
vì thế bài thơ có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc.
Mạch phát triển thống nhất nhưng có một bước “ nhảy vọt nghệ thuật “ giưã các
khổ thơ. Nghiã là mội khổ thơ tồn tại độc lập, không quan hệ với nhau. Dường như còn


có vẻ xa lạ với nhau. Chẳng hạn khổ I có nhân vật “ anh “, khổ II có nhân vật “ ai ” và
khổ III có nhân vật “ em “. Khơng thể có một nhân vật trữ tình vưà là em đối thoại với
anh, vưà là mình đối thoại với ai, lại vưà là anh đối thoại với em trong cùng một bài thơ.
Cũng xa lạ như vậy về bút pháp, khổ I được viết bằng bút pháp hiện thực. Cảnh và người
là cảnh thực, thực đến từng chi tiết, chẳng hạn chi tiết lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Khổ thơ II cảnh khơng cịn là cảnh hiện thực nưã. Hiện thực thăng hoa thành Siêu thực.
Người đọc chỉ cịn thấy một vài dấu tích cuả hiện thực: dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay,
con thuyền, dòng sơng. Và ngay cả những dấu tích ấy, cũng nhồ đi trong tâm tưởng
HMT. HMT đang đâu đó khuất trong bóng tối, nhìn ra ngồi kia, thấy rất rõ đường nét,
linh hồn cuả mây, gió, sơng nước, và dịng sơng trăng soi sáng con thuyền chở trăng đang
đậu bến. Đến khổ thơ III, HMT đã ở nơi xa lắm, ngoài cõi nhân gian, nhìn thấy mình đã “
mờ nhân ảnh “ trong cõi người. Đó khơng cịn là cái nhìn Siêu thức, mà là cái nhìn bằng
tâm linh. Chỉ khi linh hồn thoát ra khỏi thân xác, bước vào cõi ánh sáng chói lố nhìn
khơng ra, thì khi ấy mới nhìn thấy con người trần gian mờ mờ nhân ảnh.
HMT đã đem đến một bút pháp mới lạ cho thơ VN. Từ bút pháp hiện thực, tượng
trưng quen thuộc, thơ ca đã đã bước hẳn sang thế giới siêu thực . Hơn thế, HMT còn dẫn
thơ ca vào cõi tâm linh nhưng lại rất dân dã và hiện thực. Bài thơ tiêu biểu cho Thơ mới,

có sự kết hợp giữa tinh hoa thơ trung đại và nét mới mẻ của thơ hiện đại phương Tây. Từ
đó thấy rằng thơ mới là một bước tiếp nối, phát triển của thơ ca dân tộc chứ không phải là
bước đọan tuyệt với thơ trung đại.



×