Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích bi kịch của viên cai ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.76 KB, 4 trang )

Đề bài: Phân tích bi kịch của viên cai ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù
Bài làm
Được sinh ra làm người là một món quà quý giá, thiêng liêng của tự nhiên. Thế nhưng, nếu
sống mà không được làm chính bản thân mình lại là một bi kịch đớn đau vô cùng. Nguyễn
Tuân – một nhà văn lớn của dân tộc đã đóng góp khơng ít những tác phẩm để đời của mình
vào nền văn học nước nhà – đã dựng nên một cuộc đời cai ngục đầy bi kịch như thế. Buồn
tủi, dằn vặt và khổ đau. Cai ngục là một trong hai nhân vật chính trong tác phẩm Chữ người
tử tù với nhiều ý nghĩa thâm thúy, sâu xa về cái đẹp mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm đến
người đọc, người nghe. Trong đó, những bi kịch về cuộc đời của viên cai ngục cũng chính là
một điểm nhấn chiếm nhiều cảm xúc của nhà văn.
Ngục quan một chức vụ nhỏ trong hệ thống cai trị của chế độ phong kiến cũ, có nhiệm vụ cai
quản tù nhân. Đặc điểm nổi bật của người này là ác độc, nhẫn tâm và vơ tình. Có thể nói, hắn
là vua trong ngục. Có thể đánh đập bất kỳ ai khiến kẻ tù nhân nào cũng sợ và ghét hắn.
Nhưng ở đây, viên cai ngục của Nguyễn Tuân lại là một con người hoàn toàn khác. Mặc dù
“trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lọc lừa” nhưng “tính cách của
viên quan coi ngục này” vẫn “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà
nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Cũng chính vì vậy mà ơng phải lần lượt trải qua những bi
kịch đớn đau trong cuộc đời mình.
Bi kịch đầu tiên chính là việc phải dấu mình trong chiếc bình phong với vẻ ngoài lạnh lùng,
nhẫn tâm của một tên cai ngục đúng nghĩa. Ngay từ có lệnh truyền tử tù Huấn Cao sắp đến,
ngục quan dù trong lòng đã rất mừng rỡ nhưng vẻ ngồi vẫn thầm kín dị la qua thầy thơ lại:
“Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết
chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?” Việc đầu tiên mà cai ngục để ý đến không phải là về
xuất thân, tội trạng của tử tù mà lại là “cái tài” của họ. Ngay điều này đã cho thấy tâm hồn
yêu cái đẹp, trọng người tài của ngục quan. Nhưng đáng tiếc là ông lại phải dấu kín những
điều ấy trong một bức bình phong kín đáo. Ơng phủ nhận ngay “Khơng, tơi nghe tên quen
quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái danh đó ln, thì tơi cũng hỏi thế thơi”. Nhưng
mặt khác, ơng lại lộ diện ngay ý định của mình khi bảo thầy thơ lại quét dọn cái buồng trong
cùng để “có việc dùng đến”. Ông chống chế rằng “Thầy liệu cái buồng giam đó có cầm giữ
nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm khơng?”. Có lẽ lúc này tâm tư của ngục quan vừa hồi
hộp vừa bối rối nên lúc thì kín đáo, lúc lại tỏ tường. Hồi hộp vì “thần tượng” của mình sắp




đến, và bối rối vì khơng biết phải làm thế nào để đối đãi với “thần tượng”. Nhưng biết rằng
chốn lao tù là chốn hiểm nguy nên ông vẫn cố giấu lịng mình bên trong cái vẻ bề ngồi vơ
tâm vơ ưu. Thực chất trong lịng ơng đang ngổn ngang biết bao nhiêu dịng suy nghĩ. Đếm
ấy, ơng trằn trọc băn khoăn khơng thể nào ngủ được. “Nơi góc chiếu án thư cũ đã nhợt màu
vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn
ngồi bóp thái dương”. “Một ngơi sao Hơm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân giới
khơng định”. “Bấy nhiêu thanh ấm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy
một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Những hình ảnh đậm chất lãng mạn mà nhà văn
đã dùng ở đây đều thể hiện những tâm tư, tình cảm mến mộ của ngục quan đối với “một ngơi
sao chính vị” – Huấn Cao sắp phải rời bỏ cuộc đời này. Xót xa, tiếc nuối nhưng ngục quan
cũng chẳng thể làm gì được để giải thốt cho người anh hùng kia vì kiếp mình quá bé nhỏ,
thấp hèn. Như vậy, cùng một lúc, ngục quan phải đóng cả hai vai. Và điều đáng nói là hai vai
ấy hồn tồn trái ngược nhau. Ban ngày ông là một tên cai ngục đáng ghét, nhưng khi đêm
về lại là một con người chân thành, chất phác, yêu cái đẹp, cái tài. Sẽ rất khó chịu và khổ đau
khi cứ phải che đi bản chất thiện lương của mình. Nhưng nếu khơng làm vậy, ơng cũng
chẳng thể nào tồn tại được ở chốn đầy hiểm nguy này.
Bi kịch thứ hai là có được thứ mình muốn trong tay rồi nhưng lại không thể nào chạm tay
vào được. Ơng khao khát có được chữ của ơng Huấn treo trong nhà. Thì giờ đây Huấn Cao
đã ở ngay trong ngục tù này, dưới sự quản lý của ơng, ơng muốn làm gì cũng được. Nhưng
tấm lịng lương thiện và trọng người tài, trọng cái đẹp của ông khơng cho phép bản thân ơng
làm như vậy. Ơng coi chữ ông Huấn là một “vật báu” chứ không đơn thuần chỉ là một của
quý giá. Với quan niệm nét chữ nét người, Huấn Cao hẳn là một người vừa tài giỏi, vừa đức
độ mới có cái tài “viết chữ nhanh và đẹp”. Như vậy, không chỉ ngục quan mà bất kỳ ai yêu
cái đẹp cũng đều mong muốn có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà. Điều may mắn của
viên cai ngục là ngay trong lúc này, Huấn Cao đang ở trong tay ơng với vị trí là một tử tù.
Ơng có thể tra tấn, ép buộc Huấn Cao viết chữ cho mình theo đúng cách mà các cai ngục
khác vẫn thường làm khi muốn chiếm đoạt thứ gì đó. Nhưng ngục quan của Nguyễn Tn
khơng phải là một người như vậy. Ông hiểu rằng cái đẹp chỉ có giá trị khi được xuất phát từ

cái tâm. Hơn nữa, chơi chữ là một thú vui tao nhã nhưng lại cao quý vô cùng. Không thể nào
chiếm đoạt thứ thiêng liêng ấy bằng lịng ích kỷ và nhẫn tâm. Làm vậy đâu cịn gì giá trị của
cái đẹp nữa. Điều này khiến cho ngục quan càng băn khoăn, trăn trở. Đến nỗi ông sẽ hối hận


cả đời nếu không xin được chữ của Huấn Cao. Cơ hội ngay trước mắt rồi mà không thể nào
chạm tay vào được. Cái cảm giác ấy khiến con người ta khó chịu, bức bối vơ cùng. Nhưng
ngục quan lại không hề tỏ ra như vậy. Hàng ngày ông vẫn biệt đãi Huấn Cao và năm vị tù
nhân kia. Thậm chí, ơng cịn hạ mình kính cẩn, lễ phép với tù nhân, điều mà mọi khi ông vẫn
hay làm là tra tấn, hạch sách và quát tháo. Dù đã biệt đãi rất hậu hĩnh nhưng ngục quan vẫn
chẳng được Huấn Cao để tâm đến. Ngay bên trong khung sắt kia chính là người mà ngục
quan hằng ngưỡng mộ, kính trọng, nay ở trong tay mình rồi mà ơng khơng thể nào chạm vào
được. Một bi kịch thật trớ trêu và éo le.
Bi kịch thứ ba là bị người khác hiểu lầm về mình. Người ấy lại khơng phải ai khác mà chính
là Huấn Cao – một người tài giỏi, đức độ, chí khí. Nếu bị ơng coi khinh thì hẳn phải là một
kẻ khơng ra gì. Và trong con mắt của một người hùng như ông, ngục quan đúng là người như
vậy thật. Nhưng sự thật lại hoàn toàn ngược lại. Trong lịng cai ngục ln dành những điều
tốt đẹp nhất cho Huấn Cao. Ơng chấp nhận hạ mình, chấp nhận bị khinh bỉ, bị sỉ nhục chỉ để
mong sẽ cảm mến được người tài, được Huấn Cao chiếu cố ban cho ít chữ đem về treo trong
nhà. Nhưng tấm lịng biệt đãi của ơng, Huấn Cao khơng hề thấu hiểu. Mà ngược lại, ông
buông ra lời thẳng thắn với ngục quan: Từ nay người đừng bước chân vào đây nữa. Hẳn là
cai ngục tủi hổ lắm, nhưng ông hiểu vị trí của bản thân mình lúc này như thế nào nên ông
không hề lấy làm buồn phiền, tức giận. Hơn nữa, thái độ của Huấn Cao là điều rất dễ hiểu.
Một người ln tràn đầy nghĩa khí đối diện với kẻ thấp hèn, yếu đuối, hẳn là sẽ phát sinh
nhiều mâu thuẫn. Và ngục quan tự ý thức được bản thân mình, nên ơng cũng chí dám đáp lại
một lời rất từ tốn nhỏ nhẹ: “xin lĩnh ý”. Hơn ai hết, ơng hiểu rõ Huấn Cao đang nghĩ gì về
mình nhưng ơng lại khơng có cách nào giải thích được, chỉ bằng hành động biệt đãi hàng
ngày, mong rằng một lúc nào đó Huấn Cao sẽ thấu hiểu. Nhưng mỗi một ngày trôi qua là
mỗi một lần niềm mong mỏi khát khao của ngục quan lại trở nên xa dần, xa dần. Ông biết
phải làm sao đây?

Bi kịch thứ ba là chọn nhầm nghề. Cái nghề với cái tâm của ơng trái ngược nhau hồn tồn.
Câu tục ngữ “gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn” trong hồn cảnh này hoàn toàn đúng với
viên quan coi ngục này. Bởi tâm hồn trong sáng, ông yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, u bằng
tất cả tấm lịng của mình nhưng lại phải sống trong nơi tù túng, nhiều gian xảo, nhẫn tâm.
Ơng phải cuốn mình lại, dấu kín trong bức bình phong hoàn hảo của một tên quan coi ngục
thực sự với những mánh khóe hành hạ tù nhân. Nhưng khi cai quản Huấn Cao và năm người


bạn tù kia, dù âm thầm kín đáo, nhưng ít nhất ngục quan cũng đã dám sống đúng bản chất
của mình khi ngày ngày đem rượu thịt đến biệt đãi tử tù thay vì đánh đập, mạt sát. Nếu làm
một nghề khác, như thầy thuốc, hay thầy giáo, hẳn ngục quan này sẽ là một người rất thành
công, được nhiều người kính mến và quý trọng. Nhưng thật éo le khi ông lại chỉ là một tên
coi ngục trong chốn đề lao lắm lọc lừa, dối trá. Ngay cả bản thân ơng cịn phải tự lừa dối
chính mình để sống qua ngày đoạn tháng trong nơi tối tăm này.
Và rồi, sau tất cả những bi kịch ấy, ngục quan cũng đã nhận lại được điều mình hằng khát
khao. Đúng là trời khơng phụ lịng người. Cũng như người hùng Huấn Cao không bội bạc
với người hiền khi cảm thấu tấm lịng chân thật của ngục quan. Ơng đồng ý cho chữ. Dù
cảnh ấy diễn ra ngay trong nơi tối tăm, nhơ bẩn nhưng sau cùng, cái đẹp vẫn bừng sáng như
ngọn đuốc rực rỡ giữa đêm.
Bấy nhiêu lời lẽ, bấy nhiêu câu văn, và bấy nhiêu bi kịch mà ngục quan phải trải qua đều là
những thủ pháp nghệ thuật của nhà văn. Ông muốn hướng mọi người đến cái đẹp hoàn hảo.
Cái đẹp gắn liền với cái tâm. Tâm đẹp thì mọi thứ khác khi xuất phát từ tâm mới đẹp.



×