Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bình giảng bài thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương của Phan Bội Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.49 KB, 10 trang )

VĂN MẪU LỚP 11
BÌNH GIẢNG BÀI THƠ LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG CỦA PHAN
BỘI CHÂU
BÀI MẪU SỐ 1:
“Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang
Phiệt), Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc
khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông bất tử với các tổ chức yêu nước như Hội
Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội… Tên tuổi Phan Bội Châu gắn
liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vớ tuồng
chứa chan tinh thần yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu Giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm
1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên pong
trào Đông du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện
với bao hồi bão tung hồnh, ơng đã để lại đồng chí bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
(Xuất dương lưu biệt) dược viết băng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là
khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ
Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Hai câu đề là một tun ngơn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:
Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khơn tự chuyển đi.
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống mong muốn làm nên điều
lạ (yếu hi kì). Suy rộng ra, là khơng thể sống tầm thưởng. Không thể sống một cách thụ
động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể
hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ và tài năng của mình,
muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ
khác:
Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới
cảm nhận được cái khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều


lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:
Mỗi phạn bât vong duy trúc bạch,


Lập thân tối hạ thị văn chương.
(Tùy viên thi thoại — Viên Mai)
(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xồng nhất ấy văn chương).
Đấng nam nhi mn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sơi sục:
“Tơi được trời phú cho bầu máu nóng cũng khơng đến nỗi ít, lúc cịn bé đọc sách của cha
tơi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm
đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy…” (Ngục trung thư).
Phần thực, ý thơ mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trị của mình trong xã hội và
trong lịch sử:
Ưbách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên
trung). Câu thơ khảng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà
tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại khơng có ai (đề
lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đôi nhau, lấy cái phủ định để làm nối bật điều khẳng định. Đó
ỉà một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách
nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kê thừa những tư tưởng vĩ đại của
các vĩ nhân trong lịch sử: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa,, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn), ..
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hàn thanh.
(Văn Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn – bách niên – của một đời người đối với cái vô hạn – thiên tài –
của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ
một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng

giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc
quan:
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!
(Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đơng)
Phần luận tác giả nói về sống và chết, nói về công danh.
Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm đen tối dưới
ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày


xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sơng cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong,
hồn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa.
Sách vở của thảnh hiền liệu cịn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà:
Non sơng đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu học cùng hoài.
Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ơng nói bằng tất
cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử,
không thể đắm chìm trong vịng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong
bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, dừng ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…
Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới
tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.
Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc lãng mạn:
Nguyệt trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch làng nhất tề phi.
Thơ văn Phan Bội Cháu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khêu gợi

lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở hành những bài ái quốc vì thấm
đượm cảm xúc, sơi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng u nước
và lí tương anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong – ngọn gió dài,
Thiên trùng bạch lăng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người
chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề
phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mơng mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đơng hải.
Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bơng trầm ấy cũng góp phần thế
hiện quyết tám mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu, ở đây nội lực, bản lĩnh
chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hịa hợp, gắn bó và thống nhất. Sư nghiệp
cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở
hai câu kết.
Xuất dương lưu biệt là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào
của nhà chí sĩ giàu lịng u nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một


cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội
Châu.


BÀI MẪU SỐ 2:
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thời kì nào cũng xuất hiện những đấng anh hùng
làm rạng danh sơng núi. Có người anh hùng lẫy lừng chiến cơng. Có người anh hùng
“thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Những anh hùng ấy được văn chương ghi tạc hay tự
mình bày tỏ chí khí. Bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là một cách bày tỏ thật
mạnh mẽ chí khí của đấng anh hùng trong hồn cảnh đầy bi kịch của đất nước ta ở những
thập niên đầu của thế kỉ hai mươi.
Phan Bội Châu xuất hiện trên vũ đài chính trị vào lúc ở nước ta những cuộc khởi
nghĩa chống thực dân Pháp đã lần lượt thất bại. Con đường cứu nước đứng trước viễn
cảnh đen tối. Ơng muốn tìm kiếm một hướng đi mới. Sau khi thành lập Hội Duy tân

(1905), Phan Bội Châu ra nước ngồi, mở đầu phong trào Đơng du. Xuất dương lưu biệt
được sáng tác trong buổi nhà thơ chia tay với các đồng chí để lên đường, nhưng bài thơ
lại không phải là những lời bịn rịn, lưu luyến thường tình. Trái lại, bài thơ thể hiện ý chí,
lịng quyết tâm vì sự nghiệp lớn lao của một nhà cách mạng:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Lập nên sự nghiệp là khát vọng của những bậc tài danh trong lịch sử. Thời nào,
khát vọng ấy cũng được thể hiện. Chúng ta từng có hồi bão của Phạm Ngũ Lão:
Hồnh sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quẩn tì hổ khí thơn ngưu.
Nam nhi vị liễu cơng danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Và, cách Phan Bội Châu trước đó khơng xa, là chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ:
Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kì.
(Người con trai thơng minh phải làm việc kì lạ cho thiên hạ).
Khẩu khí có lẽ giống nhau, nhưng ý tứ mồi thời đã có khác. Phạm Ngũ Lão thời
Trần cảm thấy hỗ thẹn Gia Cát tiên sinh vì chưa trả xong nợ cơng danh. Nguyễn Cơng
Trứ quả quyết đà là người tài trai thì phải làm nên những việc kì lạ cho thiên hạ. Dĩ
nhiên, cái “cơng danh” hay việc “kì lạ” mà họ Phạm và họ Nguyễn từng nêu không phải
là chuyện cá nhân, tất thảy đều mang ý nghĩa cao cả. Song, dù sao đi nữa cả hai ơng đều
nói đến sự phấn đấu của đấng nam nhi nhưng khơng vượt ra ngồi “con Tạo”. Có lẽ, thời
Phạm Ngũ Lão, “thiên định” đang rất phù hợp với lịng người. Thời Nguyễn Cơng Trứ
tuy có suy vi, xáo trộn, song vẫn còn đang ở trong bối cảnh chung ấy. Nhưng đến Phan
Bội Châu, chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra: non sông đất nước lần lượt rơi vào tay


giặc, những người “thừa mệnh trời” vẫn cịn ở đó nhưng bất lực, yếu đuối. Vì thế, chuyện
“kì lạ” mà Phan Sào Nam muốn làm không phải là tôn vinh hay duy trì một trật tự đã có.
Ơng khao khát làm việc lớn hơn nhiều:

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Càn khơn là trời đất nước, cũng là Tạo hóa, thời thế. Nên nhớ, Phan Bội Châu xuất
thân từ cửa Khổng sân Trình, từng đỗ đầu xứ nên ơng hiểu rõ cái gọi là “thiên mệnh”, tức
là sự sắp đặt sẵn của con Tạo mà con người không thể thay đổi. Song, đến lúc xuất
dương, nhà thơ nói điều ngược lại: kẻ nam nhi phải làm những điều lạ chớ để Tạo hóa tự
thay đổi. Bởi vậy, chí nam nhi của Phan tiên sinh mang khẩu khí của bậc trượng phu thời
trước, những tư tưởng đã hoàn toàn khác trước. Con người khơng cam chịu bất kì một sự
sắp đặt có sẵn nào mà tự thân mình phải xoay chuyển, tạo ra sự sắp đặt mới!
Hai câu đề đã nói khá rõ chí nam nhi của Phan Bội Châu. Soi rọi vào hoàn cảnh cụ
thể của đất nước Việt Nam thời kì đó sẽ thấy sự mãnh liệt của nó. Câu thơ có thể biến
thành một khẩu hiệu, một lời tuyên ngôn mới của một thế hệ, một giai đoạn lịch sử.
Hai câu thực bày tỏ niềm tin tưởng của nhà thơ vào tiền đồ của đất nước:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vơ thùy.
Có người đã bình một ý của câu thơ này như sau: “Cụm từ “trăm năm này (hiện
nay) phải có ta” đối lập cụm từ “ngàn năm sau khơng có ai” – câu trên khẳng định, câu
dưới phủ định – thể hiện một ý thức cao cả và một nỗi lo, một dự cảm xa rộng của nhà
cách mạng trẻ tuổi đối với hiện trạng đất nước lúc bấy giờ”. Thực ra, ở đây chẳng có câu
phủ định nào cả. “Trong khoảng trăm năm cần có tớ / Sau này mn thuở há không ai” là
sự khẳng định một nhân cách, một tài năng, một bản ngã, dĩ nhiễn sắc thái có phần cường
điệu để bày tỏ thật triệt để khát vọng của mình chứ khơng phải đề cao cá nhân. Vì thế,
câu thơ kế tiếp cũng là một lời khẳng định dưới hình thức câu hỏi. Phan Bội Châu là bậc
trượng phu luôn hiểu rõ và đề cao lịch sử, truyền thống của dân tộc. Đồng thời, ông cũng
là người lại ln có niềm tin vào những thế hệ mới. Chỉ thấy Phan Bội Châu đề cao chí
khí của mình là hạ thấp một nhân cách kì vĩ và khơng hiểu vì sao chính ơng đã ln tìm
cách đưa những người trẻ tuổi ra nước ngoài để học tập đặng trở về cứu nước.
Để thực hiện được hoài bão của mình, Phan Bội Châu phải kiếm tìm con đường
cứu nước. Ở vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước thời đó, Phan Bội Châu đã nhìn thấy
trước sự thất bại nếu đứng lên khởi nghĩa khi lực lượng quá yếu so với kẻ thù. Khoa cử là
con đường lập thân của biết bao đấng nam nhi ngày trước bây giờ đã khơng cịn phù hợp,

vì cả triều đình đă trở thành bù nhìn cho ngoại bang. Vì thế, hai câu luận thực chất là sự
cắt nghĩa về tính tất yếu của cuộc “lưu biệt”:
Giang sơn tử hi sinh đồ nhuế


Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu, học cũng hồi).
Non sơng đất nước một khi đã rơi vào tay giặc coi như đã mất. Sống cam chịu,
nhục nhã trong kiếp nô lệ thực chất là đã chết. “Hiền thánh” là những người kì tài, xuất
chúng, nhưng cũng có nghĩa là các bậc khai sáng ra một hệ tư tưởng (Nho giáo) khơng
cịn (và bản thân hệ tư tưởng ấy khơng cịn cơ sở hiện thực) thì việc học và xa hơn là sự
lập thân bằng con đường cử nghiệp liệu có ích gì? Luận bàn về lý do mình phải ra đi như
vậy thật triệt để. Có thể nói, Phan Bội Châu đã thực sự phủ định hệ tư tưởng mà mình
vốn đã từng tiếp thu, Vì thế khơng thể xem chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn cịn nằm
trong phạm trù ý thức hệ Nho gia như cố người đã từng đánh giá.
Hai câu kết là sự thể hiện khát vọng được biến hoài bão của đấng nam nhi thành
hiện thực:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Con đường phía trước khơng bằng phẳng. Trái lại, đầy phong ba bão tố. Nhưng
đấy mới chính là chỗ để đấng nam nhi thể hiên ý chí, khát vọng của mình.
Cuộc đời Phan Bội Châu như ông từng nhận xét, trăm lần thất bại, không một lần
thành công, song ông đã sống đúng với lý tưởng, hồi bão của mình. Nhà chí sĩ khơng
thành cơng trong sự nghiệp mong được cứu nước, cứu dân, nhưng hình bóng, nhân cách,
tâm hồn ơng vẫn ln là một biểu tượng đẹp đẽ và hào hùng cho những thế hệ trẻ Việt
Nam. Và cũng chính nhân cách, tâm hồn ấy, khi được thể hiện bằng thơ, dù trong lớp áo
cũ kĩ của thể thơ thất ngôn luật Đường, đã vang lên mạnh mẽ, như khúc tráng ca, lời ly

biệt trở thành tiếng thúc giục lên đường vì non sơng đất nước.


BÀI MẪU SỐ 3:
I/ Đặt vấn đề:
Bài thơ Xuất dương lưu biệt được sáng tác năm 1905, khi Phan Bội Châu từ biệt
các bạn đồng chí lên đường tìm đường cứu nước.Tác phẩm là tiếng nói hăm hở của một
trang nam nhi quyết tâm hoàn thành sự nghiệp phục quốc.
Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo truyền thống "thi dĩ ngơn chí" của thi ca
phương Đơng, đó cũng là dấu vết rõ nhất của con người từng theo đuổi sự nghiệp công
danh, thập niên đăng hoả học chữ Thánh hiền của Phan Bội Châu. Giọng điệu, khí phách
cho đến hình tượng thơ cịn mang đậm dấu ấn của thi pháp trung đại nhưng về mặt tư
tưởng đã đánh dấu một sự vượt thốt ra khỏi khn khổ suy nghĩ của một trí thức Hán
học, đoạn tuyệt với tư tưởng Nho giáo về căn bản.
II/ Giải quyết vấn đề
1. Tiền giải:
Dịch thơ: Làm trai phải lạ ở trên đời - Há để càn khôn tự chuyển dời - Trong
khoảng trăm năm cần có tớ - Sau này mn thuở há khơng ai (Tơn Quang Phiệt dịch).
Khi viết nên những dịng thơ này, Phan Bội Châu đã bước sang tuổi 38 - lứa tuổi
đã qua bao thăng trầm, chuẩn bị chớm bước vào tuổi "tứ thập nhi bất hoặc" - tự tin ở
chính mình. Làm trai "tam thập nhi lập", hẳn một người đã từng đậu Giải nguyên năm
Canh Tý (1900) như Phan Bội Châu không phải vướng bận băn khoăn về ý nghĩa làm trai
như Giải nguyên Nguyễn Công Trứ thuở xưa, mặc dù cách nói cũng cùng một kiểu:
"Thơng minh nhất nam tử - Yếu vi thiên hạ kỳ" (Chí nam nhi). Ơng Giải San lúc ấy thừa
điều kiện để đi theo con đường tiền nhân Uy Viễn tướng công, nhưng cuối cùng con
đường của Phan Bội Châu lại theo một ngã rẽ khác hẳn. Chữ "kỳ" của Nguyễn Cơng Trứ
bó hẹp trong "bút trận" - thi cử đỗ đạt làm quan, phụng sự vô điều kiện cho triều đình
phong kiến. Phan Bội Châu ít nhiều chịu ảnh hưởng của quan niệm làm trai thời phong
kiến nhưng trong cách nói vẫn khẳng định một cách đầy tự hào về ý thức cá nhân mạnh
mẽ của mình.

Một nguời đã từng ý thức với câu thơ tâm đắc "Lập thân tối hạ thị văn chương"
(Viên Mai) hẳn khơng chấp nhận bó mình theo quan niệm phong kiến! Bởi vậy, trong
phần tiền giải này, khi nhấn mạnh vào vai trò nam tử, Phan Sào Nam chẳng qua chỉ mượn
một quan niệm có sẵn nhằm khẳng định cho cái bản ngã đội trời đạp đất hào hùng của
chính mình thơi, khơng hề có một dấu ấn của con người bổn phận theo lý tưởng làm trai
phong kiến.
2. Phần hậu giải:
Dịch thơ: Non sông đã chết, sống thêm nhục - Hiền thánh còn đâu học cũng hồi Muốn vượt biển Đơng theo cánh gió - Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.


Điều cốt tủy trong suy nghĩ, tình cảm của nhà thơ gửi cả vào phần hậu giải này, là
bức thông điệp mà Phan Bội Châu gửi gắm lại bạn bè trước giờ lưu biệt. Đúng ra, với đề
tài "lưu biệt", trong thơ xưa vốn dĩ hay nói về cảm xúc bịn rịn lưu luyến hay nỗi hận sầu
của người trai "chí chưa thành, danh chưa đạt". Vậy mà Phan Bội Châu đã dành hai câu
luận để nói về thời thế một cách sâu sắc: ông đạt sự sống chết, vinh - nhục của một đời
trai trong mối liên hệ với vận nước, bằng tất cả nỗi đớn đau của người dân mất nước. Câu
thơ thật thấm thía! Nguyên văn câu thơ chữ Hán nói về hiền thánh khơng hề có một chút
e dè khi ông phê phán gay gắt cả một nền học cũ đã lỗi thời bằng thái độ đoạn tuyệt dứt
khốt. Nước mất - dân ngu, đó chính là lời kết tội của Phan Bội Châu với cả chế độ
phong kiến và giáo lý Khổng - Mạnh đã mục ruỗng. Chính sự bảo thủ ấy đã tiếp tay cho
kẻ thù đặt ách thống trị lên đất nước. Khác với một Nguyễn Công Trứ bi quan yếm thế
khi nếm trải "Vào trường danh lợi vinh liền nhục" để rồi ao ước "làm cây thông đứng
giữa trời mà reo"; khác với một Tú Xương từng nguyền rủa chế độ thi cử và kẻ sĩ cùng
thời "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi" mà vẫn lận đận lều
chõng mong được chen chân vào rồi cay cú "Tám khoa không khỏi phạm trường qui";
Phan Bội Châu đã xác định con đường khác hẳn. Hai câu kết hào hùng hiện rõ tư thế bậc
đại trượng phu dám phá bung cả khn khổ lề thói cũ, đem đến một quan niệm làm trai
mới mẻ:
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Con người nhà thơ hiện ra giữa không gian vũ trụ mới hào hùng, phóng khống
làm sao! Cái hào sảng của trường phong - trận gió dài, cơn gió mạnh, cái mênh mơng của
đơng hải - gắn với chí lớn con người muốn tát cạn biển đông đã dồn nén vào một chữ
"khứ" - gắn với hành trình ra đi ngùn ngụt hùng tâm tráng chí. Vang vọng trong câu thơ
hào khí của bậc nữ lưu Triệu Trinh Nương thuở nào: "Tơi muốn cưỡi cơn gió mạnh,
chém cá kình ở biển Đông, chứ không cúi đầu làm thê thiếp kẻ khác". Tâm nguyện cứu
nước dù gần hai ngàn năm trước hay thời Phan Bội Châu cũng giống nhau ở ý chí không
chịu cúi đầu làm nô lệ một cách nhục nhã. Phan Sào Nam đã bộc lộ ý chí cứu nước qua
hình tượng thật đẹp kết lại bài thơ: Ngàn con sóng bạc nhất tề cùng bay lên, cả đất trời
như đã hoà theo quyết tâm cứu nước của người anh hùng. Con đường của Phan Bội Châu
là con đường hành động, thái độ của Phan Bội Châu là thái độ không cam chịu chờ thời.
Không một chút do dự băn khoăn, bài thơ là dự báo về những việc kinh thiên động địa
trong tương lai của người anh hùng khiến cho thực dân Pháp và bọn bán nước phải run sợ
kinh hoàng.
III/ Kết thúc vấn đề:


Khép lại Xuất dương lưu biệt, người đọc nhận ra một khí phách, một nhân cách
của một nhân vật lỗi lạc đầu thế kỷ XX. Bài thơ thổi một luồng sinh khí vào văn chương
thời đại, mở ra những trang đầy hào khí của văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, tiếp nối tinh
thần bất khuất của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập của thế kỷ trước, có giá trị
động viên bao thế hệ yêu nước nối tiếp người chiến sĩ Phan Bội Châu.



×