Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.76 KB, 13 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
<b>Thượng Hải (</b>上海<b>)</b>
Một góc Phố Đơng của Thượng Hải, nhìn từ sơng Hồng Phố.
<b>Vị trí trong Trung Quốc</b>
<b>Thông tin cơ bản</b>
<b>Nguồn gốc tên gọi</b>:
上<i>thượng</i> - trên
海<i>hải</i> - biển
市<i>thị</i> - thành phố
"Thành phố trên biển"
<b>Viết tắt</b>: 沪<i>Hỗ</i> và 申<i>Thân</i>
<b>Diện tích:</b> 6.340,5 km² (31)
<b>GDP (2009):</b>
- trên đầu người
CNY 1.490 tỷ (thứ 8)
CNY 77.564 (thứ 1)
<b>HDI (2005)</b> 0.909 (thứ 1) — cao
<b>Các dân tộc chính</b> (2000): Hán - 99%<sub>Hồi - 0.4%</sub>
<b>Hoa đặc trưng</b>: Ngọc lan<sub>(</sub><i><sub>Magnolia denudata</sub></i><sub>)</sub>
<b>Độ cao:</b> 0 - 103.4 m
<b>Toạ độ:</b> <sub>31°10′B, 121°28′Đ</sub>
<b>Mã bưu chính:</b> <b>2000</b>00 - <b>2021</b>00
<b>Mã vùng:</b> +86/21
<b>Đầu biển số xe :</b> 沪A, B, D, E
沪C (ngoại ô)
<b>ISO 3166-2:</b> cn-31
<b>Múi giờ :</b> UTC+8
<b>Website :</b> www.shanghai.gov.cn
<b>Chính quyền</b>
<b>Cấp hành chính:</b> Địa hạt thị
<b>Bí thư thành ủy:</b> Du Chính Thanh (习近平)
<b>Thị trưởng:</b> Hàn Chính (韩正)
<b>Các đơn vị cấp quận, huyện:</b> 18 quận và 1 huyện
<b>Các đơn vị cấp hương:</b> 220 trấn và hương
<b>Thượng Hải</b> (chữ Hán: 上海, bính âm: <i>Shànghǎi</i>) là thành phố hiện đại và lớn nhất
Trung Quốc. Thượng Hải là một trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của nước này.
Diện tích: 6.340,5 km2<sub>. </sub><sub>Dân số</sub><sub> thành phố là 17.110.000 người (trong đó nội ơ là 9,838 </sub>
triệu người). GDP: 745 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 93 tỷ USD), GDP đầu người 42.800 NDT
(khoảng 5400 USD). Thượng Hải được xem là <b>thủ đô kinh tế</b> của Trung Quốc.
Ngày nay, Thượng Hải có hải cảng sầm uất nhất thế giới, hơn cả cảng Singapore và
Rotterdam. Xuất phát là một làng chài hẻo lánh, Thượng Hải đã trở thành một thành phố
quan trọng bậc nhất cho đến Thế kỷ 20, và là trung tâm văn hóa phổ thơng, các mưu đồ
chính trị và nơi tụ họp của giới trí thức trong thời kỳ Trung Hoa dân quốc. Thượng Hải
đã từng một thời là trung tâm tài chính lớn thứ 3 thế giới, chỉ xếp sau Thành phố New
York và Luân Đôn, và là trung tâm thương mại lớn nhất Viễn Đông cuối thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20. Sau khi Mao Trạch Đông cầm quyền Trung Quốc kể từ năm 1949, Thượng Hải
đã đi vào thời kỳ sụt giảm tốc độ phát triển do chế độ thuế má cao và do sự triệt thoát
kinh tế tư bản của chính quyền mới. Nhờ sự cải cách, mở cửa theo mơ hình kinh tế thị
trường do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và lãnh đạo mà đặc biệt là từ năm 1992, Thượng
Hải đã có những bước bứt phá ngoạn mục về phát triển kinh tế và nhanh chóng vượt qua
1 Nguồn gốc tên gọi
2 Ngôn ngữ
3 Các đơn vị hành chính
4 Lịch sử
o 4.1 Thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20
5 Địa lý và khí hậu
6 Kinh tế
7 Tháp truyền hình Minh Châu
8 Thành phố kết nghĩa
9 Giáo dục
o 9.1 Quốc lập
o 9.2 Công lập
o 9.3 Tư thục
o 9.4 Trung học
10 Thông tin khác
11 Xem thêm
12 Tham khảo
13 Liên kết ngoài
"Thượng Hải" bằng chữ Hán
Dân Thượng Hải đọc tên thành phố là /zɑ̃.'he/, phiên âm pinyin theo tiếng Quan Thoại
pinyin<i>Shanghai</i> đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Tiếng Nhật viết tên thành
phố gần với cách đọc trong Quan Thoại là シャンハイ<i>shanhai</i>.
Tên viết tắt của thành phố là <i>Hỗ</i> /<i>Hộ</i> (滬/沪) và <i>Thân</i> (申). Tên đất Hỗ/Hộ do tên cổ
Hỗ/Hộ Độc (滬瀆/沪渎) của con sông Tô Châu. Tên Thân lấy tên theo Xuân <i>Thân</i> Quân
(春申君), một viên quan thời nhà Chu vào thế kỷ 3 Trước Công Nguyên - Xuân Thân là
một anh hùng thời đó của nhà Chu (trong lãnh thổ đó có đất Thượng Hải bây giờ). Do
vậy Thượng Hải còn được gọi là "<b>Thân Thành</b>" (申城). Trong tiếng Anh thành phố này
có nhiều biệt danh: <i>Paris phương Đơng</i>, <i>Nữ hồng phương Đơng</i>, <i>Hịn ngọc phương </i>
<i>Đơng</i> và thậm chí cả <i>Gái điếm châu Á</i> (gọi trong thời kỳ 1920-1930, lúc đó thành phố là
một trung tâm tội phạm, ma túy và mãi dâm).[<i>cần dẫn nguồn</i>]
Tiếng mẹ đẻ của dân Thượng Hải là tiếng Thượng Hải, một phương ngữ của Ngơ ngữ
trong khi ngơn ngữ chính thức là tiếng Quan Thoại. Tiếng Thượng Hải và tiếng Quan
Thoại khác nhau và thông thường dân Bắc Kinh không thể trị chuyện với dân Thượng
Hải thơng qua tiếng Thượng Hải. Tiếng Thượng Hải ngày nay là một phương ngữ của
Ngơ ngữ nói ở Tơ Châu với các phương ngữ của Ninh Bá và các vùng phụ cận có dân
nhập cư vào Thượng Hải với số lượng lớn vào thế kỷ 20. Gần như toàn bộ dân Thượng
Hải dưới 40 tuổi có thể nói tiếng Quan Thoại thơng thạo. Dân cư có thể nói ngoại ngữ
phân bố không đều. Những người tốt nghiệp đại học trước cách mạng và những người
làm cho các công ty nước ngồi có thể nói tiếng Anh. Những người dưới 26 tuổi đã có
tiếp xúc với tiếng Anh kể từ tiểu học do tiếng Anh được bắt đầu dạy ở lớp 1.
Phố Đông về đêm
Các quận và huyện của Thượng Hải
<i>Xem thêm "Danh sách các đơn vị hành chính Thượng Hải</i>
Thượng Hải là một trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương (<i>trực hạt thị</i>) và gồm 18
quận (<i>thị hạt khu</i>) và 1 huyện. Thượng Hải khơng có quận nào độc chiếm vị thế trung tâm
thành phố, mà khu vực trung tâm trải ra vài quận. Các khu vực kinh doanh có tiếng là
Lục Gia Chủy (陆家嘴; Lujiazui) bên bờ đơng sơng Hồng Phố, Bund tức Ngoại Than
(外灘; Wàitān) và Hồng Kiều (虹桥) ở bờ tây sơng Hồng Phố. Tịa thị chính và các cơ
quan hành chính chủ yếu nằm ở quận Hồng Phố. Đây cũng là khu vực thương mại, kể cả
đường Nam Kinh (<i>Nam Kinh lộ</i>) nổi tiếng.
Chín quận thuộc Phố Tây, khu vực Thượng Hải lâu đời, nằm phía bờ tây sơng Hồng
Phố. Chín quận này được gọi chung là <i>Thượng Hải thị khu</i> (上海市区) hay trung tâm
thành phố (市中心):
1. Hoàng Phố (黄浦区Huángpǔ Qū)
4. Trường Ninh (长宁区Chángníng Qū)
5. Tĩnh An (静安区Jìng'ān Qū)
6. Phổ Đà (普陀区Pǔt Qū)
7. Áp Bắc hay Hạp Bắc (闸北区Zháběi Qū)
8. Hồng Khẩu (虹口区Hóngkǒu Qū)
9. Dương Phố (杨浦区Yángpǔ Qū)
Phố Đông (浦东) là khu vực mới khai phá của Thượng Hải thuộc bờ đông sông Hồng
Phố, có quận mới Phố Đơng (浦东新区Pǔdōng Xīn Qū, <i>Phố Đông tân khu</i>), từ năm
1992 trở về trước vẫn còn là huyện Xuyên Sa.
Tám quận của Thượng Hải bao quát các thị xã vệ tinh, các vùng ngoại ô và nông thôn
cách xa trung tâm thành phố:
Bảo Sơn (宝山区Bǎoshān Qū) — cho đến năm 1988 là huyện Bảo Sơn
Mẫn Hàng (闵行区Mǐnháng Qū) — cho đến năm 1992 là huyện Thượng Hải
Gia Định (嘉定区Jiādìng Qū) — cho đến năm 1992 là huyện Gia Định
Kim Sơn (金山区Jīnshān Qū) — cho đến năm 1997 là huyện Kim Sơn
Tùng Giang (松江区Sōngjiāng Qū) — cho đến năm 1998 là huyện Tùng Giang
Thanh Phố (青浦区Qīngpǔ Qū) — cho đến năm 1999 là huyện Thanh Phố
Nam Hối (南汇区Nánhuì Qū) — cho đến năm 2001 là huyện Nam Hối
Phụng Hiền (奉贤区Fèngxián Qū) — cho đến năm 2001 là huyện Phụng Hiền
Đảo Sùng Minh nằm ở cửa sông Trường Giang là địa bàn huyện Sùng Minh (崇明县
Chóngmíng Xiàn).
Tính đến năm 2003, Thượng Hải có 220 đơn vị hành chính cấp hương: 114 <i>trấn</i>, 3 <i>hương</i>
và 103 <i>nhai đạo</i>.
Quảng trường nhân dân ở Thượng Hải
Hải dần trở thành một hải cảng sầm uất, vượt lên trên vai trị chính trị là một địa phương
thuộc huyện. Ngày nay, Tùng Giang (淞江) là 1 quận thuộc thành phố Thượng Hải.
Một bức tường thành được xây dựng năm 1553 Công nguyên - thời điểm được xem như
bắt đầu hình thành thành phố Thượng Hải. Tuy nhiên, trước thế kỷ 19, Thượng Hải
không được xem là thành phố lớn của Trung Hoa. Do đó, so với phần lớn các thành phố
khác của Trung Quốc, có rất ít cơng trình cổ tiêu biểu ở thành phố này ngày nay. Một vài
địa điểm văn hóa ít ỏi có thể thấy ở Thượng Hải ngày nay rất cổ kính và tiêu biểu thời
Tam Quốc do địa điểm này nằm trong trung tâm văn hóa lịch sử của Đông Ngô
(222-280).
Trong thời kỳ Càn Longnhà Thanh, Thượng Hải đã trở thành một cảng khu vực quan
trọng của khu vực sơng Trường Giang và sơng Hồng Phố. Thành phố cũng trở thành hải
cảng chính của các tỉnh Giang Tô và Triết Giang gần đấy dù trao đổi mậu dịch với nước
ngoài thời kỳ này bị triều đình cấm. Một khu vực lịch sử quan trọng của thời kỳ này là
Ngũ Giác Trường (五角场) (ngày nay là quận Dương Phố) - là nền tảng của trung tâm
thành phố. Khoảng cuối thời Càn Long, Thập Lục Phố (ngày nay là quận Hoàng Phố) trở
thành cảng lớn nhất Đông Á.
Địa bàn hoạt động của các bang hội tại Thượng Hải những năm 1980
Tầm quan trọng của Thượng Hải tăng lên nhanh chóng vào thế kỷ 19 do vị trí chiến lược
của thành phố này ở cửa sơng Dương Tử khiến cho nó có vị trí lý tưởng để buôn bán với
phương Tây. Trong cuộc chiến tranh nha phiến thứ nhất vào đầu thế kỷ 19, các lực lượng
của Anh đã tạm thời chiếm giữ Thượng Hải. Cuộc chiến kết thúc năm 1842 với hòa ước
Nam Kinh với kết quả là các cảng nhượng quyền trong đó có Thượng Hải, mở cửa cho
các nước buôn bán. Hiệp ước Bogue được ký năm 1843 và Hiệp ước Wangsia Trung-Mỹ
ký năm 1844 khiến cho phương Tây giành được có đặc quyền ngoại giao trên đất Trung
Thái Bình Thiên Quốc nổ ra năm 1850 và năm 1853 Thượng Hải bị chiếm giữ bởi hội
Tam Hoàng gọi là Tiểu Đao hội (Small Swords Society). Các cuộc thanh trừng phá hủy
các miền quê nhưng không đụng chạm đến các khu định cư của phương Tây. Mặc dù
trước đó người Hoa bị cấm sống trong các khu định cư của người nước ngoài, năm 1854
các quy định mới đã cho phép người Hoa được đến ở. Giá đất tăng lên đáng kể.
Trong năm 1854, cuộc họp thường niên đầu tiên của Hội đồng thành phố Thượng Hải đã
họp, Hội đồng này được tạo ra để quản lý các khu định cư của dân ngoại quốc. Năm
1863, khu định cư của Anh, tọa lạc dọc theo bờ Tây sông Hồng Phố đến phía nam nhánh
sơng Tơ Châu (quận Hồng Phố) và khu định cư người Mỹ tọa lạc ở bờ Tây sơng Hồng
Phố đến phía Bắc của nhánh sông Tô Châu (quận Hán Khẩu) sát nhập với nhau thành
Khu định cư quốc tế. Người Pháp chọn lựa phương án ra khỏi Hội đồng thành phố
Thượng Hải và thay vào đấy là duy trì Khu nhượng địa Pháp, tọa lạc ở phía Tây của Khu
định cư quốc tế. Thời kỳ này có một lượng lớn dân di cư từ châu Âu và Bắc Mỹ, những
người tự gọi mình là "Shanghighlanders".
Chiến tranh Trung Nhật nổ ra năm 1894-1895 giành quyền kiểm soát Triều Tiên kết thúc
bằng hiệp ước Shimonoseki, cùng với việc Nhật Bản nổi lên như là một cường quốc bổ
sung ở Thượng Hải, và ngay sau đó các cường quốc khác cũng theo gương.
<b>Khí hậu bình qn của </b>上海<b>(1971-2000)</b>
<b>Tháng</b> <b>1</b> <b>2</b> <b>3</b> <b>4</b> <b>5</b> <b>6</b> <b>7</b> <b>8</b> <b>9</b> <b>10</b> <b>11</b> <b>12</b> <b>Năm</b>
<b>Trung bình</b>
<b>cao </b>°C (°F)
8.1
(47)
9.2
(49)
12.8
(55)
19.1
(66)
24.1
(75)
27.6
(82)
31.8
(89)
31.3
(88)
27.2
(81)
22.6
(73)
17.0
(63)
11.1
(52) 20,2 (68)
<b>Trung bình</b>
1.1
(34)
2.2
(36)
5.6
(42)
10.9
(52)
16.1
(61)
20.8
(69)
25.0
(77)
24.9
(77)
20.6
(69)
15.1
(59)
9.0
(48)
3.0
(37) 12,9 (55)
<b>Lượng mưa</b>
mm (inch)
<b>Nguồn</b>: China Meteorological Administration17 tháng 3 năm 2009.
Tháp truyền hình Minh Châu Đông Phương về đêm
Thượng Hải thường được xem như trung tâm tài chính và thương mại của Trung Hoa đại
lục. Thượng Hải bắt đầu thực sự phát triển nhanh từ 1992, sau các thành phố ở các tỉnh
phía nam Trung Quốc (Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải,Sán Đầu, Hạ Mơn...) khoảng
10 năm. Trước đó, ngân sách của thành phố phần lớn để lại cho chính quyền trung ương
ở Bắc Kinh, phần để lại cho thành phố này rất ít. Dù đã giảm gánh nặng thuế má kể từ
1992, nguồn thuế thu tại Thượng Hải vẫn đóng góp cho chính quyền trung ương chiếm
khoảng 20-25%, trước đấy là 70%. Thượng Hải ngày nay vẫn là thành phố phát triển và
đơng dân nhất Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa. Cảng Thượng Hải xếp hàng đầu thế giới
về lượng hàng hóa thơng qua, khoảng 443 triệu tấn hàng/năm. Nếu tính về lượng
với tốc độ xây dựng nhanh chóng, khoảng hơn 10 năm và đã trở thành trung tâm mới của
Thượng Hải với rừng cao ốc.
Tháp truyền hình Minh Châu (Hán tự: 明珠, 明là sáng, 珠là ngọc, nghĩa là <i>viên ngọc </i>
<i>sáng</i>) là tháp truyền hình cao thứ ba thế giới - sau tháp truyền hình ở Toronto (Canada)
và Moscow (Nga) - nó cao tới 468 mét. Mặc dù vậy, bạn chỉ có thể tham quan tại 350
mét trở xuống. Tháp có hệ thống thang máy rất nhanh (10m/s).
Ở độ cao 263 mét là một khu sân hình trịn. Đây là nơi để du khách ngắm toàn cảnh
Thượng Hải.[1]
Từ năm 1973: Yokohama, Nhật Bản
Từ năm 1974: Osaka, Nhật Bản
Từ năm 1979: Milano, Ý
Từ năm 1979: Rotterdam, Hà Lan
Từ năm 1979: San Francisco, Hoa Kỳ
Từ năm 1980: Zagreb, Croatia
Từ năm 1982: Hamhung, CHDCND Triều Tiên
Từ năm 1984: Antwerp, Bỉ
Từ năm 1984: Karachi, Pakistan
Từ năm 1985: Chicago, Hoa Kỳ
Từ năm 1985: Montréal, Canada
Từ năm 1986: Hamburg, Đức
Từ năm 1986: Casablanca, Maroc
Từ năm 1987: Marseille, Pháp
Từ năm 1988: São Paulo, Brasil
Từ năm 1988: Sankt-Peterburg, Nga
Từ năm 1989: İstanbul, Thổ Nhĩ Kỳ
Từ năm 1990: Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Từ năm 1993: Busan, Hàn Quốc
Từ năm 1994: Dunedin, New Zealand
Từ năm 2000: Dubai, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất
Từ năm 2000: Liverpool, Anh
Từ năm 2002: Constanţa, Romania
Từ năm 2005: Cork, Ireland
Đại học Phục Đán (thành lập năm 1905)
Đại học Đồng Tể (thành lập năm 1907)
Đại học Sư phạm Hoa Đông (thành lập năm 1951)
Học viện Mĩ thuật Trung Quốc
Học viện Âm nhạc Thượng Hải
Học viện Hí kịch Thượng Hải
Đại học Thượng Hải
Đại học Quân y số 2
Đại học Khoa học và Công nghệ Hoa Đông
Học viện Chính trị và Pháp luật Hoa Đơng
Đại học Đông Hoa
Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải
Đại học Tài chính và Kinh tế Thượng Hải
Đại học Y khoa Thượng Hải
Đại học Kỹ thuật công trình Thượng Hải
Đại học Sư phạm Thượng Hải
Học viện Tài chính Thượng Hải
Đại học Hàng hải Thượng Hải
Đại học Trung y dược Thượng Hải
Đại học Khoa học và Công nghệ Thượng Hải
Đại học Thuỷ sản Thượng Hải
Học viện Ngoại thương Thượng Hải
Học viện Thể dục Thượng Hải
Học viện Kỹ thuật ứng dụng Thượng Hải
Học viện Thương mại Lập Tín Thượng Hải
Học viện Sam Đạt Thượng Hải
Học viện Đông Hải Thượng Hải
Học viện Công thương quốc tế Trung Âu
Đại học Công nghiệp Thượng Hải số 2
Trung học Thượng Hải
Trung học Tùng Giang Thượng Hải số 2
Trung học Thượng Hải số 2
Nhà chọc trời Tháp Trung tâm Tài chính Thế giới Thượng Hải là tòa nhà chọc trời cao
nhất ở thành phố này và cũng là tháp cao nhất Trung Quốc đại lục, cao thứ 5 thế giới.
Ngồi ra cịn có các cơng trình kiến trúc nổi bật khác như Tháp Minh Châu Phương Đông
và Tháp Kim Mậu.
Thuọng Hải sẽ là thành phố chủ nhà của Hội chợ Thế giớiExpo 2010 tổ chức vào giữa
tháng 5 đến tháng 10 2010.