Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vai trò của nhà nước trong xã hội hoá y tế ở việt nam lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh nghệ an (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.11 KB, 8 trang )

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hố sự nghiệp chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, trong nhiều năm qua nước ta nói chung và tại
tỉnh Nghệ An nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện bằng việc
huy động các nguồn lực cho y tế; đa dạng hoá các loại hình dịch vụ CSSK; phát
huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương, các ngành, các đoàn thể xã hội và
toàn dân tham gia vào nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ. Mạng lưới y tế ngày càng được
củng cố và phát triển, nhiều dịch bệnh được khống chế và đẩy lùi, các dịch vụ y tế
ngày một đa dạng, nhiều công nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng, việc cung
ứng thuốc và trang thiết bị đã được tăng cường quản lý. Nhân dân ở hầu hết các
vùng, miền đã được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn trước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác chăm sóc và bảo
vệ sức khoẻ nhân dân vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và yếu kém: hệ thống y tế chậm
đổi mới chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật, chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao và đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng
sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số cịn nhiều khó khăn; năng lực sản xuất và cung
ứng thuốc cịn yếu; vệ sinh mơi trường, an tồn thực phẩm chưa được kiểm sốt
đúng mức,…
Ngun nhân chính của những yếu kém trên là do QLNN về lĩnh vực y tế
còn nhiều bất cập, việc quản lý KCB và hành nghề y dược tư nhân chưa chặt chẽ;
việc phân bổ và sử dụng nguồn lực trong y tế còn chưa hợp lý, kém hiệu quả. Cán
bộ lãnh đạo quản lý ngành y tế chưa năng động sáng tạo, chưa có giải pháp hữu
hiệu để huy động các nguồn lực từ cộng đồng và xã hội cho cơng tác bảo vệ và
chăm sóc sức khoẻ nhân dân,...


Với mong nuốn vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn và có những
đóng góp thiết thực cho địa phương, tơi chọn đề tài "Vai trị Nhà nước trong xã hội
hóa y tế ở Việt Nam (Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Nghệ An)".


Về mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn phân tích, làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước trong công tác XHHYT; khảo sát, đánh
giá thực trạng vai trị của nhà nước trong cơng tác xã hội hoá y tế trên địa bàn tỉnh
Nghệ An và đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy, tăng cường
vai trị QLNN trong cơng tác XHHYT.
Về cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng
phương pháp phổ biến của khoa học kinh tế là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp
trừu tượng hố, kết hợp sử dụng nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, đồng thời sử dụng phương pháp
kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, kết hợp với khảo sát thực tế, thu thập
thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu làm sáng tỏ cho chủ đề của luận
văn.
2. Những kết quả đạt được và phương pháp nghiên cứu:
Thứ nhất, luận văn đã nghiên cứu và trình bày cơ sở lý luận vai trò Nhà
nước trong XHHYT ở Việt Nam.
Vấn đề này bắt nguồn từ tình hình đặc điểm của hoạt động XHHYT là có
nhiều tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia nên rất cần
đến vai trò của nhà nước với tư cách là người nhạc trưởng để thực hiện sự điều tiết
và phối hợp chung. Có sự quản lý của Nhà nước để hạn chế khắc phục những tồn
tại, những mặt trái của cơ chế thị trường trong xã hội hóa việc cung cấp các dịch
vụ y tế và tạo được hành lang pháp lý cho các dịch vụ y tế phát triển thích ứng và
phù hợp với q trình hội nhập quốc tế.


Từ những cơ sở lý luận chung, luận văn trình bày vai trị Nhà nước trong xã
hội hóa y tế với một số nội dung cơ bản là:
Trước hết, Nhà nước phải xây dựng được chiến lược quốc gia về xã hội hóa
y tế, gắn với đó là xây dựng quy hoạch phát triển mạng lưới y tế quốc gia.
Với mục tiêu phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc

sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng;
mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh
thần; giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi.
Nhất thiết nhà nước phải xây dựng được chiến lược quốc gia về chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe, thực chất là chiến lược xã hội hóa y tế của đất nước. Trong bối cảnh
hội nhập, gia nhập WTO, phải thực hiện những cam kết với WTO trong lĩnh vực
dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ y tế) thì việc xây dựng chiến lược XHHYT càng trở
nên cấp bách. Đi đôi với việc xây dựng chiến lược, việc quy hoạch và xây dựng
mạng lưới y tế trên phạm vi cả nước cũng vô cùng quan trọng. Mạng lưới y tế cần
bố trí và phát triển một cách hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, kết
hợp phát triển y tế cộng đồng với phát triển y tế chuyên sâu, thực hiện đơng - tây y
kết hợp, gắn phịng bệnh với chữa bệnh, phục hồi chức năng và rèn luyện thể lực
nhằm phục vụ tốt nhất việc CSSK cho nhân dân, giảm tỉ lệ mắc bệnh, nâng cao thể
lực, tăng tuổi thọ người dân.
Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức và cá
nhân của cộng đồng tham gia cung ứng dịch vụ y tế; liên kết hoạt động của các tổ
chức và cá nhân nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng CS&BVSK cho nhân dân.
Nhà nước cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần
kinh tế: nhà nước, tư nhân và các tổ chức xã hội trong và ngoài nước gia cung ứng
DVYT. Cơ chế, chính sách ấy bao gồm: vạch rõ những mảng dịch vụ y tế cần
khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, chính sách
hỗ trợ tài chính, chính sách thuế, các điều kiện vật chất, các chính sách đào tạo,


kiểm tra và kiểm soát,... Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý chung cho tất
cả các đơn vị cung ứng dịch vụ y tế, đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các
nhà cung ứng dịch vụ y tế.
Đồng thời Nhà nước phải quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ
chức và cá nhân cung ứng DVYT vì Nhà nước là người chịu trách nhiệm cuối cùng
trước xã hội về số lượng cũng như chất lượng DVYT kể cả các dịch vụ y tế được

thực hiện bởi các công ty tư nhân hay các tổ chức KT-XH, nên Nhà nước phải cân
nhắc, tính tốn và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích của Nhà nước, của
xã hội với lợi ích của tổ chức và cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ y tế. Do vậy
Nhà nước phải thực hiện quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức và
cá nhân cung ứng DVYT.
Nhà nước vừa với tư cách là một cơ quan quản lý, lại vừa với tư cách là một
chủ thể giữ vai trò nòng cốt trong việc cung ứng DVYT. Nhà nước chịu trách
nhiệm trực tiếp cung ứng DVYT trong các trường hợp mà chỉ có cơ sở nhà nước
với sự tập trung đội ngũ chuyên môn và trang thiết bị hiện đại, đắt tiền mới có đủ
trình độ chun mơn để làm. Nhà nước với vai trị chủ đạo của mình, cũng trực
tiếp cung ứng các DVYT thuộc các lĩnh vực và địa bàn khơng thuận lợi cung ứng
(ví dụ vùng sâu, vùng xa) mà thị trường không thể hoặc không muốn tham gia do
chi phí q lớn hay khơng có lợi nhuận. Các đơn vị sự nghiệp do nhà nước thành
lập để cung ứng như các bệnh viện và trung tâm y tế…hoạt động theo cơ chế của
đơn vị sự nghiệp cơng tự chủ tài chính nhưng khơng vì mục tiêu lợi nhuận. Ban
đầu, nhà nước đầu tư cho các đơn vị đó, sau đó họ sẽ tự trang trải và khi cần thiết
có thể nhận được sự hỗ trợ bù đắp của nhà nước.
Thứ hai, luận văn khảo sát thực trạng về vai trò nhà nước trong XHHYT
trên địa bàn tỉnh Nghệ An, là một tỉnh đất rộng người đông (diện tích đứng thứ
nhất, chiếm 5% diện tích tự nhiên cả nước; dân số trên 3 triệu người, đứng thứ 4,
chiếm 3,5% dân số cả nước) và là trung tâm KT-XH của vùng Bắc Trung bộ.


Với một tỉnh nghèo, dân số đơng, địa hình phức tạp như tỉnh Nghệ An để
làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi hệ
thống khám chữa bệnh phần lớn bị xuống cấp về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội
ngũ cán bộ y tế nhiều nơi chưa đạt chuẩn (thiếu về số lượng và yếu về chất lượng),
một số dịch bệnh, bệnh xã hội vẫn tiềm ẩn... Nhưng công tác XHHYT trên địa bàn
Nghệ An được Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngành Y tế và các ngành chức năng đặc biệt
quan tâm chỉ đạo thực hiện nên có nhiều bước phát triển mạnh.

Vai trò Nhà nước trong XHHYT ở tỉnh Nghệ An được thể hiện cụ thể bằng
việc chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về XHHYT. Tỉnh ủy Nghệ An đã ban hành Nghị quyết về nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân tỉnh Nghệ An đến năm 2010 và
những năm tiếp theo; UBND tỉnh Nghệ An đã ra quyết định ban hành Chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết của Ban thường vụ Tỉnh ủy; đã phê duyệt và
triển khai nhiều đề án để củng cố ngành y tế và nâng cao một bước chất lượng
cơng tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân như các đề án: Tăng cường nguồn nhân lực
ngành y tế; Tăng cường đưa bác sỹ về xã; Nâng cao y đức tại các cơ sở khám chữa
bệnh; Phát triển y- dược học cổ truyền tỉnh Nghệ An giai đoạn 2009 - 2015; xây
dựng quy hoạch mạng lưới khám, chữa bệnh tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011 2020,... đưa ra các chương trình hành động với những mục tiêu cụ thể và phân
công trách nhiệm cho các ban ngành chức năng liên quan để phối hợp triển khai
thực hiện.
UBND tỉnh Nghệ An đã chủ trương bố trí, ưu tiên đầu tư ở mức cao nhất
cho lĩnh vực y tế trong khả năng ngân sách của tỉnh. Trên cơ sở chính sách viện phí
của Chính phủ, điều chỉnh một số khoản thu một phần viện phí, điều chỉnh khung
giá các dịch vụ kỹ thuật phù hợp với tỷ lệ trượt giá và tình hình KT-XH của địa
phương. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn thực hiện Luật BHYT và các
văn bản quy phạm pháp luật về BHYT.


Đồng thời thực hiện đa dạng hố các loại hình khám chữa bệnh, tạo điều
kiện cho hệ thống y tế ngồi cơng lập phát triển nhằm huy động được một lực
lượng cán bộ y tế đáng kể có trình độ, kinh nghiệm tâm huyết tham gia cung ứng
dịch vụ y tế; huy động hàng ngàn tỷ đồng kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị kỹ thuật cao phục vụ nhân dân.
Sự tham gia của y tế tư nhân vào lĩnh vực y tế tạo cơ chế cạnh tranh lành
mạnh, giúp cho nhân dân có thể lựa chọn cơ sở và dịch vụ khám chữa bệnh, qua đó
thúc đẩy để các bệnh viện cơng lập phải có chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa cả về
chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ, thiết bị kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu ngày

càng cao của người bệnh và phát huy vai trò chủ đạo của y tế nhà nước.
Tuy nhiên luận văn cũng chỉ ra những tồn tại hạn chế về vai trị Nhà nước
trong xã hội hố y tế trong thời gian qua. Đó là NSNN đầu tư cho y tế vẫn còn thấp
và chưa được phân bổ hợp lý; Đội ngũ cán bộ chưa đồng bộ về cơ cấu và chất
lượng chưa cao; Nhân lực ở nhiều cơ sở y tế còn thiếu về số lượng và yếu về chất
lượng; Tinh thần và thái độ phục vụ của một bộ phận cán bộ y tế còn yếu; Diện bao
phủ của BHYT còn thấp, người tham gia BHYT TN chưa nhiều; Các cơ quan chức
năng của tỉnh chưa kiểm tra, kiểm soát được tốt hoạt động hành nghề y- dược tư
nhân; Sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong việc triển khai thực hiện XHH
y tế chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao; Công tác quản lý XHHYT còn nhiều bất cập
cả trong định hướng, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện; Các cơ sở y tế công lập chưa
mạnh dạn thực hiện cơ chế tự chủ, vẫn cịn nặng về cơ chế bao cấp, trơng chờ vào
NSNN; Các cơ sở y tế tư nhân còn nhỏ bé, hoạt động cịn mang nặng tính thương
mại....
Thứ ba, căn cứ Chiến lược quốc gia về y tế và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ và
quan điểm của Nhà nước về xã hội hóa y tế ở Việt Nam, Chiến lược phát triển KTXH tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và dự báo nhu cầu về các DVYT ở tỉnh Nghệ An
đến năm 2020, qua nghiên cứu thực trạng về XHHYT của tỉnh Nghệ An và kinh


nghiệm của một số tỉnh bạn, luận văn xác định phương phát huy vai trò Nhà nước
trong XHHYT và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò Nhà
nước trong XHHYT trên địa bàn Nghệ An như sau:
Một là, hồn thiện và đồng bộ hố hệ thống văn bản pháp quy và chính sách
đối với hoạt động y tế cho phù hợp, tạo điều kiện cho các dịch vụ y tế phát triển và
không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ;
Hai là, hồn thiện cơng tác quy hoạch, kế hoạch tăng cường XHHYT; Ba là,
Duy trì bộ máy triển khai xã hội hoá y tế từ tỉnh đến huyện, xã;
Bốn là, tăng cường sự kết hợp y tế công lập và y tế tư nhân trên địa bàn, tạo
điều kiện để y tế công lập và y tế tư nhân vừa cạnh tranh đồng thời vừa hỗ trợ nhau
để cùng phát triển.

Năm là, xã hội hóa dịch vụ bảo hiểm y tế, đẩy mạnh tăng cường diện bao
phủ BHYT, tiến tới thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2014 theo đúng lộ trình đã
định.
Sáu là, giải quyết các quan hệ về tài chính trong việc cung ứng các dịch vụ y
tế;
Bảy là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động dịch vụ y
tế trên địa bàn và một số giải pháp trong lĩnh vực truyền thông.
3. Những điểm mới và hạn chế của luận văn:
Điểm mới của Luận văn là lần đầu tiên đề cập trực diện đến vai trò Nhà
nước trong xã hội hoá y tế, đã rút ra những thành tựu và tồn tại, đã khái quát hoá
một số vấn đề lý luận và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trị Nhà nước
trong xã hội hố y tế, nhất là trên địa bàn Nghệ An.
Tuy nhiên, do điều kiện cơng tác, tác giả khơng thể tìm hiểu hết được tình
hình thực tế ở tất cả các tỉnh, các vùng miền khác nhau trên phạm vi cả nước. Nên
việc khảo sát, phân tích, đánh giá, tổng hợp mới chỉ nêu lên được những nét chung


nhất mà chưa thật sâu sắc và đầy đủ, do vậy luận văn vẫn cịn nhiều thiếu sót,
phiến diện.
Xã hội hoá y tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, bước đầu đã
đi vào cuộc sống, người dân đã có được những cơ hội để lựa chọn cơ sở khám
chữa bệnh phù hợp với từng loại bệnh và khả năng kinh tế của mình. Tuy nhiên
cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động XHHYT chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn đặt ra. Nhà nước cần phải tăng cường sự quản lý, giám sát, thường xuyên
thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, uốn nắn những sai phạm trong quá trình
triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá y tế một cách đồng bộ từ trung ương đến
tỉnh, huyện, xã. Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xã hội hoá y tế phát triển
đúng hướng và có những đóng góp thiết thực trong đời sống nhân dân./.




×