Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Văn phân tích lớp 9: Phân tích bài thơ "Tiến sĩ giấy" của Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.42 KB, 17 trang )

Phân tích bài thơ "Tiến sĩ giấy" của Nguyễn Khuyến


Tiến sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ Nguyễn Khuyến mà còn

là một trong những hình tượng điển hình có giá trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam

ở giai đoạn đỉnh cao.

Nguyễn Khuyến chính là một trong những tác gia tiêu biểu nhất của văn học trào phúng ở

giai đoạn trưởng thành, ông cũng là một trong những đại diện cuối cùng và lớn nhất của

nền văn học Việt Nam trung đại ở vào giai đoạn chung cục. Tam nguyên Yên Đổ cũng là

người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân

tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng

nghệ thuật của một tác gia trào phúng bậc thầy và mang ý nghĩa thời đại rõ rệt.

Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện

lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại

mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã

chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà

thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã



hội đã tồn tại hàng mấy trăm năm - ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc của xã

hội phong kiến Việt Nam.

Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm vinh quang không chỉ của bản thân từng con người mà của

cả một dòng họ, một địa phương, được cả xã hội vinh danh, khốc lên mình những ánh

hào quang chói lọi. Đó vốn là những con người có tài năng, chứa đựng trong mình những

tri thức của thời đại và tất cả những tài năng và tri thức đó sẽ được đem ra để phục vụ đất

nước, phục vụ xã hội.

Đã có biết bao ơng tiến sĩ trở thành trụ cột của đất nước, của dân tộc, trở thành nguyên

khí quốc gia, được ghi tên tuổi, công trạng trên bia đá, sử xanh. Nhưng đến thời đại của

Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã thay đổi, những giá trị truyền thống đã dần mai một,

hoặc đang từng bước đổ vỡ. Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không cịn được coi trọng,

mọi thứ đã có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã hội nhiều kẻ chỉ có

hư danh mà khơng có thực học. Kẻ có thực tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ


còn là cái danh hão, cũng đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức sách


vở cũ rích khơng cịn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới. Tất cả những điều đó đã được

Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của ông.

Nhìn trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể thấy đối tượng mà Tam nguyên Yên Đổ

hướng tới để tạo nên tiếng cười là những đồ chơi dân gian - hình nộm ơng tiến sĩ làm

bằng giấy dành cho trẻ con trong những dịp tết trung thu. Làm loại đồ chơi này, các nghệ

nhân dân gian muốn khơi dậy ở trẻ em lòng hiếu học và ý chí phấn đấu để đạt tới vinh

quang của nền học vấn thời đại, cống hiến tài năng cho đời, đem lại niềm vui cho ông bà,

cha mẹ, vinh quang cho dịng họ, tổ tiên. Như vậy, hình ảnh ơng nghè tháng Tám là một

hình ảnh mang tính truyền thống rất đẹp. Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến chưa nói thẳng

cho người đọc biết rõ người được ông giới thiệu trong bài thơ là ai. Nhân vật này có đủ

cờ, biển, cân, đai, lọng xanh, ghế chéo đích thị là một vị tiến sĩ oai phong mới được ghi

danh đỗ đầu trên bảng rồng:


Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Biển là tấm gỗ sơn son thếp vàng có khắc bốn chữ ân tứ vinh quy. Cẩn là cái khăn. Đai là


cái vịng đeo ngang lưng ở ngồi áo chầu. Hết thảy đều là những thứ cao quý vua ban cho

người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Nhân vật có vẻ bề ngồi vừa uy nghi, vừa phô trương

tự đắc. Tuy nhiên, điệp từ cũng xuất hiện với mật độ dày đặc và ẩn chứa ý vị mỉa mai bắt

đầu bộc lộ thái độ của tác giả, khiến cho ta thấy có điều gì đó bất thường ở vị tiến sĩ này.

Từ cũng được nhấn mạnh, được đưa lên đầu câu, chỉ sự giống nhau, lặp lại của hiện

tượng, kết hợp với ba từ có kém ai khiến cho con người có học vị cao này có cái vẻ của

sự giả dối, học địi. Đến hai câu sau mọi việc đã trở nên rõ ràng hơn. Nhân vật cũng biển

cũng cân đai kia hóa ra chỉ là một ơng tiến sĩ giấy, bề ngồi giống hệt như tiến sĩ thật

nhưng thực chất bên trong lại rỗng tuếch chẳng có gì. Cái chất liệu làm nên con người

ông đơn giản chỉ là từ mấy mảnh giấy và một ít son diêm dúa:


Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Trong hai câu thực này, nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa.

Mảnh giấy đối với thân giáp bảng, nét son đối với mặt văn khôi. Giáp bảng là bảng công


bố kết quả thi cử ngày xưa, còn được gọi một cách trang trọng là bảng rồng. Thân giáp

bảng là người đỗ đạt cao nhưng thực chất ở đây chỉ được chế tác từ một mảnh giấy vụn.

Còn chỉ bằng vài nét son là có thể tạo nên mặt văn khơi - chỉ người đứng đầu làng văn.

Nguyễn Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong một kết cấu song

hành, đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo ra một ông tiến sĩ giả bằng giấy thực

chẳng khó khăn gì, qua đó thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến sĩ thực

của cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này.

Ông nghè tháng Tám có diện mạo bên ngồi giống hệt như tất cả các ông tiến sĩ thật

nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh giấy và vết son mà thôi. Nhà thơ đã mượn hình


ảnh của ơng tiến giấy để nói về ơng tiến sĩ thật đương thời, vạch trần bản chất giả dối của

đối tượng bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bề ngồi lộng lẫy, hào nhống được

che giấu hết sức tinh vi và cái thực chất bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân

vật.

Đối với kẻ theo đòi chuyện học hành thì danh hiệu tiến sĩ là niềm vinh quang mà muốn

đạt được nó thì người qn tử phải khơng ngừng tự học hành rèn luyện, có tri thức thơng


kim bác cổ, có tài năng xuất chúng để ra giúp dân, giúp nước. Có biết bao người đã theo

địi học hành chăm chỉ suốt đời mà vẫn khơng đạt được vinh hạnh đó. Nhưng nay thì đã

khác, cái danh hiệu ấy đã bị người đời coi thường, khinh rẻ:

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Đến hai câu luận này, Nguyễn Khuyến dường như đã chuyển từ việc mô tả khách quan


sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm từ cảm thán: sao mà nhẹ, ấy mới hời

dường như giá trị của ơng nghè đã có thể mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao

tâm khổ tứ để đỗ đạt khoác trên thân tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm nặng nề,

thì nay kẻ mua danh bán tước khốc lên mình tấm áo ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng. Đơn

giản bởi nó là thứ giả. Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một ông tiến sĩ bằng giấy nhưng

nhà thơ vẫn phải luôn gắn vào đó từ thân (thân giáp bảng) hoặc tấm thân (tấm thân xiêm

áo), chính để tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan chế giễu,

mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm ngùi, chua chát, cảm thán thời thế và


nhà thơ dường như đang buồn cho chính mình vậy?

Sáu câu thơ trên như một chiếc đòn bẩy để hai câu thơ cuối bng ra một lời kết luận

khiến người đọc bàng hồng:

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.


Ở đây, thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu thêm sự đối lập, tương phản gay

gắt giữa cái bên ngồi và bản chất thật của ơng tiến sĩ. Cụm từ ghế chéo lọng xanh vẫn

gây cho người đọc ấn tượng về dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn cao nhất

đương thời. Nhưng lần nâng lên cuối cùng này cũng sẽ là lần Nguyễn Khuyến giáng cho

đối tượng trào phúng đòn hạ bệ chí mạng nhất. Giọng điệu mỉa mai, hài hước của hai chữ

bảnh chọe đã giết chết, đã vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái mẽ

giả dối bên ngoài :

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

Thật là một hình ảnh thảm hại! Cái kẻ mà ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe ấy hóa ra là

một thứ con rối chịu để kẻ khác giật dây mà thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, cái thứ triều


đình bù nhìn tồn những quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề ấy nhất định chỉ có thể sản

sinh ra cái thứ hàng mã này. Mà cái kẻ đứng đằng sau giật dây tất cả lũ rối người ấy từ


trên xuống dưới khơng ai khác chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến đã

nhìn thấy tất cả điều đó và ơng kín đáo đưa ra trào phúng đại diện ưu tú nhất nhưng đã trở

nên lỗi thời của cái thể chế đó.

Tam nguyên Yên Đổ đã táo bạo đưa vào trong thơ mình những hư từ, lời nói khẩu ngữ

kiểu như: cũng...cũng, kém ai, sao mà nhẹ, ấy mới hời, tưởng rằng..., đưa chất văn xuôi,

chất thế tục vào trong một thể thơ có tính ước lệ, tượng trưng cao như thơ Đường luật,

khiến cho thể thơ này trở nên gần gũi hơn, giàu giá trị hiện thực hơn. Nhà thơ phát hiện

mâu thuẫn đáng cười ở đối tượng qua những nét đối lập của sự đồng dạng, giống nhau,

(tiến sĩ thật - tiến sĩ giấy). Đó là những mâu thuẫn, những điều lố bịch gây cười có ngay

trong bản thân đối tượng mà chính nó khơng hề ý thức được.

Lối trào phúng của ông già Yên Đổ là lối trào phúng gián tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý

định trào phúng của người viết không bộc lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau những


hình ảnh và từ ngữ. Muốn hiểu được tiếng cười của ông, buộc phải qua những bước “giải


mã”, suy đốn, bóc tách từng lớp ngơn từ, ẩn ngữ với những ẩn dụ, phúng dụ... Để nhận

ra thực chất của loại tiến sĩ thật dưới chế độ nửa thực dân phong kiến thì phải có tri thức

về thứ đồ chơi trung thu của trẻ nhỏ - hình nộm ông nghè tháng Tám; hay muốn biết về

thân phận vua hề, quan nhọ dưới chế độ thực dân nô lệ thì phải hiểu nghệ thuật chèo, đặc

biệt là hề chèo (bài thơ Lời vợ người hát phường chèo) v.v...

Rõ ràng, để có được sự thành cơng khi sử dụng lối trào phúng này, tác giả phải là người

trong cuộc, phải am hiểu đối tượng, nếu không sẽ tạo nên những cú đánh trượt. Nguyễn

Khuyến hiểu đối tượng sâu sắc như vậy chính vì ơng là con đẻ của chế độ khoa cử triều

Nguyễn và là người đạt đến đỉnh cao vinh quang của học vấn đương thời. Nhưng con

người ấy đã dần đánh mất niềm tin vào chế độ, vào triều đình, vào vốn học vấn của mình

trước thực tế lịch sử, khi mà tất cả vũ khí vật chất và tinh thần, tất cả thế ứng xử truyền

thống tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc đã bị kẻ thù mới bẻ gãy một cách dễ dàng.

Ông cũng cảm thấy nghi ngờ cả tài năng, sức lực của lớp người đại diện cho tinh hoa của



chế độ ấy và nghi ngờ chính bản thân mình. Bởi trong số những ông nghè tháng Tám hết

thời ấy có cả bản thân Nguyễn Khuyến nhưng tất nhiên ơng Tam nguyên phủ Yên Đổ

hoàn toàn khác với những kẻ hữu danh vô thực đương thời. Điều ấn tượng và độc đáo ở

đây là cái hài hước ấy xuất phát từ trong lòng đối tượng bị phê phán. Sự phủ định rõ ràng

cịn có thêm màu sắc tự phủ định. Tính bi hài của hình tượng văn học nhờ vậy càng trở

nên sâu sắc gấp bội.

Tính tự trào của bài thơ cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến một cuộc

đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình - tiếng nói phản tỉnh của

một người trong cuộc. Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng

như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã

hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời.

Tiến sĩ giấy là biểu hiện rõ nhất của tiếng nói tự trào.Nguyễn Khuyến đã lấy việc khách

thể hóa bản thân để bộc lộ tâm trạng mình. Tiếng nói lưỡng phân đa chiều, vừa hướng


nội, vừa hướng ngoại này chỉ có được khi con người tự ý thức được tình trạng bi hài của

mình trước thực tế lịch sử, nó bộc lộ những day dứt, trăn trở, những mâu thuẫn trong


chính bản thân nhà thơ, bỏ xa kiểu con người đơn nhất trong văn chương trung đại. Trong

văn học trào phúng, phê phán và phủ định điều này cũng chính là để khẳng định, bảo vệ

một chân lí nào đó. Nguyễn Khuyến châm biếm, đả phá cái giả Nho, cái vơ dụng, chính

là để khẳng định cái chân Nho, khẳng định những giá trị truyền thống của dân tộc, khẳng

định những phẩm chất tốt đẹp của riêng mình để tự phản tỉnh trước thực tế của sự khủng

hoảng các giá trị đạo đức đương thời.

Mỹ học về cái hài dường như không bao quát hết những sắc thái đa diện của thi tài

Nguyễn Khuyến . Trong Tiến sĩ giấy nói riêng và trong thơ tự trào của ơng nói chung, cái

hài thường bị cái bi lấn át. Điều đó cũng khiến cho tính trữ tình, sự kết hợp giữa hai phẩm

chất trào phúng và trữ tình trong các bài thơ trào phúng của ơng trở nên nhuần nhuyễn, ý

thơ như còn đọng mãi trong lịng người đọc. Vì vậy, Nguyễn Khuyến tự trào, tự giễu cợt

mình, về mặt khách quan, cũng chính là đang trào phúng cả một tầng lớp đại diện cho


một xã hội thối nát, một nền học vấn đã hết thời, và một giai cấp đang từng bước chấm

dứt vai trò lịch sử. Danh vị tiến sĩ nay đã trở thành trò hề, trở thành thứ đồ chơi để dứ


thằng cu, mà mỗi lần nhìn thấy thứ hình nộm ấy, vị Tam nguyên lừng lẫy một thời, vị

quan đại thần của triều đại đương thời lại cứ tưởng như người ta đang đem mình ra để

bỡn cợt:

Rõ chú hoa man khéo vẽ trị

Bỡn ơng mà lại dứ thằng cu.

(Vịnh tiến sĩ giấy, I)

Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ

Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

(Tự trào)

Có lẽ Nguyễn Khuyến là người trí thức đầu tiên trong thời đại ơng có được cái nhìn tỉnh


táo như vậy. Khơng phải người trí thức nào trong cơn phong ba của lịch sử cũng nhận ra

được những hạn chế tất yếu của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước thực tế

lịch sử. Nguyễn Khuyến lớn chính vì ơng đã sớm nhận ra tất cả những điều đó.

Rõ ràng, bên cạnh màu sắc bi, hài, tự trào thấm đẫm chất trữ tình, thơ trào phúng Nguyễn

Khuyến cịn mang tính triết lý sâu sắc về nhiều vấn đề xã hội, trong đó nổi bật là triết lý


về thân phận của người trí thức, của lớp nho sĩ cuối mùa tầng lớp mang trong số phận của

mình bi kịch có tính chất nhân loại ở buổi giao thời dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.

Nguyễn Khuyến đã tự phản tỉnh mình, tự ý thức được thân phận con người thừa của

mình, thấy mình là một hủ nho trong thời buổi mới. Mặc cảm con người thừa, con người

vơ tích sự phải đến Nguyễn Khuyến và đặc biệt Tú Xương sau này mới thật sự rõ nét.

Tuy nhiên về chủ đề này giữa hai nhà thơ có những khác biệt cơ bản. Tú Xương cũng có

bài thơ Tiến sĩ giấy nhưng hình tượng nhân vật của ông không có lớp nghĩa tự trào,

không có màu sắc bi kịch và ít chi tiết khắc họa mang tính điển hình. Con người khơng

có dun phận với khoa cử này đứng ở thế đối lập với những kẻ mang danh khoa bảng


mà không phải là người trong cuộc, người ở trên nhìn xuống như Nguyễn Khuyến. Vì

vậy ơng Tú có thể chửi thẳng mà không e dè và cũng không hề có chút chua xót cho đối

tượng bị trào phúng :

Ơng đỗ khoa nào, ở xứ nào ?

Thế mà hoa hốt với trâm bào ?


Mỗi năm ngày tết trung thu đến

Tôi vẫn quen ơng chẳng muốn chào.

Có thể thấy, hình tượng Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến mang tính đa nghĩa, giàu liên

tưởng và cũng là hình tượng có tính điển hình và tính khái qt cao độ hơn. Điểm chung

giữa hai tác giả chính là tấm lịng ưu ái suốt đời trăn trở vì dân, vì nước được thể hiện

phong phú qua những bài thơ giàu giá trị nghệ thuật.

Tiến sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ Nguyễn Khuyến mà còn


là một trong những hình tượng điển hình có giá trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam

ở giai đoạn đỉnh cao. Tiến sĩ giấy cũng khơng chỉ có ý nghĩa nhất thời, chỉ diễn ra trong

thời đại của Tam ngun n Đổ mà cịn là hình tượng nghệ thuật mang giá trị phổ biến,

chỉ những kẻ bề ngoài mang danh của người có học thức cao nhất nhưng thực chất bên

trong lại không tương xứng với cái nhãn mà mình đang mang. Những nhân vật đó thời

nào cũng có, đặc biệt trong những giai đoạn mà những giá trị thật giả lẫn lộn, đồng tiền

lên ngôi, thời kỳ mà con người được định giá bằng đủ thứ danh hiệu hình thức thì loại

người đó càng nhiều. Họ có thể là những kẻ mua danh bán tước, những tiến sĩ giả, nhưng


họ cũng có thể là những người đi học thật nhưng tài năng kém cỏi và Nguyễn Khuyến

chính là người đầu tiên đã tổng kết hiện tượng xã hội đó thành một hình tượng nghệ thuật

điển hình tượng trưng cho mọi thời đại. Điều đó đã khẳng định giá trị sáng tạo và sức

sống bền vững muôn đời của thơ ca Tam nguyên Yên Đổ.



×