Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mặc Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.02 KB, 18 trang )

VĂN MẪU LỚP 11
CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA
HÀN MẶC TỬ
BÀI MẪU SỐ 1:
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ơng được sáng
tác và đi vào lịng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho
độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thơn vĩ dạ”, bài thơ nhắc
tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con
gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Khơng những thế, bài thơ cịn nói lên niềm
khát khao, tình u q và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.
Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không
phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi
thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc,
viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra
những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình
Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà khơng
có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khng khó tả. Tuy khơng
ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn
Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn dỗi của một cơ gái
như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa
ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời
mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu khơng
về thăm thơn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc
mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực
rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc
đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc
Khơng trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có
thể tượng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi
câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả
khung cảnh, khơng chỉ đẹp mà cịn có tính gợi. Mọi thứ như đều hoà hợp và ánh lên một


vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút
và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực
rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở


đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khốc cho nó với ngơn từ “ nắng mới lên
thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua
Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện
pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một
người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình:” vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . dường
như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không
quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với
từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa
có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi
mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất:” Lá
trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu
vườn vng vắn tươi đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc đang bng mình trước cửa
của những ngơi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt
phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.
Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến
về tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
“Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng trữu nặng của Hàn Măc Tử, hai câu thơ đầu
gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ” gió” và “mây” cùng với nhịp điệu
của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một cặp,
thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hoa rơi
nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự bng bã đến não lịng, sự

chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trơi gió cuốn mà chúng ta lại nhìn ra cả
tâm trạng của thi nhân. Lịng buồn thiu, khơng có một nỗi niềm nào chất chứa. Hình ảnh
trăng hiện ra, khơng chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ
khác.Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối
với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm
tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sơng trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của
tác giả ở đây thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang
một dự báo, hay một nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như
một câu hỏi khơng có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng
thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.


Khổ thơ cuối thể hiện một khung cảnh khi có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với
thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra”
“ Khách đường xa ở đây chính là ai?” cùng với điệp ngữ “khách đường xa” vừa
thể hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải lại như vơ vọng của mối tình đơn phương xa
vời. Thực tại tác giả đang đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, cắt đứt mọi giao tiếp với
xung quanh nên ta có thể nhận thấy qua lời thơ ước mơ của tác giả vô cùng thiết tha
mãnh liệt. Tác giả không mơ được trở về thơn Vĩ nữa mà mơ có một người khách nào đó
đến thăm. Nhưng rồi giấc mơ ấy như nhịa đi như trong ảo mộng, sương khói làm nhịa
hình ảnh ảo mộng: “Áo em trắng q nhìn khơng ra”. Ở đây ta có thể thấy tác giả mơ về
một người con gái, nhưng chỉ có thể thấy “áo” chứ “nhìn khơng ra”,hình ảnh tà áo trắng
gợi ra hình ảnh dịu dàng mà cũng thanh khiết ,có lẽ là dáng dấp của một người con gái xứ
Huế . Chỉ biết đây là một hình ảnh rất đỗi gần gũi nhưng lại q xa xơi. Gần gũi vì nó đã
trở thành một hồi niệm thường trực, cịn xa xơi là vì khoảng cách thời gian, khơng gian.
Trong tâm trạng buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ
chợt khao khát cuộc sống đến tột cùng. Cái mà Hàn Mặc Tử tha thiết mong đợi như đọng
lại tới vơ cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm chỉ

“ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng. Vừa là nỗi mong ước
đến khát khao,câu hỏi bâng quơ nhưng gợi ra nhiều tâm trạng. Đó chính là sự bâng
khng khó tả và sự nhẹ nhàng như tự nhủ với bản thân.
Mặc Dù đã ra đời tư lâu nhưng bài thơ đã lấy nhiều cảm xúc của người đọc cả lúc
ấy và cả độc giả thời đại hiện nay. Nó khơng chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt đẹp mà
còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người. Bài thơ là một
trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc tử, một tâm hồn nhạy cảm với
đời,với tình yêu ,cuộc sống.


BÀI MẪU SỐ 2:
Trong cuộc sống của chúng ta có những người u nhưng nhút nhát mà khơng
dám nói chính vì thế mà để lại sự hối tiếc về sau đồng thời cũng làm cho người kia phải
chờ đợi. Trong làng thơ Việt Nam ngồi Nguyễn Bính là một nhà thơ hay viết thơ tình
nhưng thực chất thì lại nhút nhát trong chuyện tình cảm thì cịn có cả Hàn Mạc Tử. Ơng
là một nhà thơ góp phần làm nên phong trào thơ Mới phong phú và đa dạng. Như nhà thơ
phê bình Hồi Thanh có viết rằng chúng ta điên cuồng Hàn Mặc Tử. Thế nhưng ngoài
những vần thơ điên cuồng thì Hàn Mạc Tử cịn có cả những vần thơ chứa chan tình
thương u. Bài thơ Đây Thơn Vĩ Dạ là một bài thơ trữ tình trong số những bài thơ yêu
thương của ông.
Bài thơ được viết khi ông đã mắc bệnh phong và cuộc sống của ông chỉ bó gọn
trong trại phong Tuy Hịa. Với một người yêu cuộc sống yêu thiên nhiên, yêu con người
như thế mà lại mắc phải căn bệnh kia cùng với cái chết cận kề Hàn Mạc Tử không khỏi
điên cuồng giãy giụa trong bệnh tật thế nhưng may sao trong những năm tháng ấy Hàn
mạc Tử được một người mà mình yêu mến năm xưa là Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho một
tấm thiệp với câu hỏi Sao anh không về chơi thơn Vĩ?. Thế là bấy nhiêu tình cảm, bấy
nhiêu cảm xúc thực tại đã khiến cho nhà thơ sáng tác bài thơ này. Lời nhắn nhủ hỏi thăm
của người tình ấy đã khiến cho nhà thơ khơng khỏi nuối tiếc vì một mối tình mà chính
ơng lại q nhút nhát để tiến đến.
Bài thơ mở đầu bằng chính câu hỏi của bà Hoàng Thị Kim Cúc trong tấm thiệp

gửi Hàn Mạc Tử:
“Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Câu hỏi nghi vấn được đặt làm câu thơ mở đầu bài thơ cho thấy được một sự trách
móc đầy yêu thương của người con gái năm xưa dành cho người trong trại phong Tuy
Hịa. Khơng những thế qua câu hỏi ấy ta cịn thấy được tình cảm mà Hồng Cúc danh cho
nhà thơ hay đó cũng là một sự quan tâm hỏi thăm đến người xưa cũ. Như vậy câu hỏi kia
không chỉ để hỏi mà nó cịn mang cả sự thương cảm, nhớ nhung, yêu thương, quan tâm
và cả trách móc nữa. Vĩ Dạ kia chính là Huế – là nơi mà hai người đã gặp nhau và tình
cảm bắt đầu bằng sự im lặng kết thúc cũng như thế. Thế rồi những câu thơ sau nhà thơ vẽ
lên cảnh đẹp của thơn Vĩ Dạ. Hình ảnh nắng được nhắc đến hai lần trong câu thơ thứ hai
cho ta thấy được một cảnh tượng của buổi sơm tinh khôi nơi thôn Vĩ. Câu thơ như vẽ ra
hình ảnh nắng mới chiếu sáng từng đọt cau, lá cau để làm nên hình tượng nắng hàng cau.
Buổi sáng ấy không phải là nắng trên biển không phải nắng trên những chiếc lá thu vàng


mà là trên những cây cau. Đến với Thôn Vĩ người ta khơng thể nào khơng nhìn thấy hình
ảnh những cây cau cao vút đứng hiên ngang thành hàng thành lối. Và phải chăng nhà thơ
đã nói lên cái đặc trưng nhất của xứ Huế mà không phải nơi nào cũng có. Khơng những
thế buổi sáng nơi đây cịn hiện lên thật xanh mướt tinh khơi trong hình ảnh của khu vườn
nhà ai xanh như ngọc. Vườn ai là vườn của Hồng Cúc hay của bất kì người Huế nào?.
Cái màu xanh ngọc trong trẻo được nhà thơ sử dụng để nói lên cảnh thiên nhiên của con
người nơi đây. Khơng chỉ là hình ảnh của thiên nhiên mà con người Huế cũng được hiện
lên với vẻ đẹp duyên dáng qua hình ảnh “lá trúc tre ngang mặt chữ điền”. Đó là một vẻ
đẹp kín đáo dịu dàng và phúc hậu.
Đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ như thể hiện nỗi buồn của bản thân mình, nhà thơ
khơng nói trực tiếp mà mượn hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Theo quy luật đời thường thì là gió thổi mây bay thế nhưng ở đây nhà thơ lại nói là
gió theo lối gió mây bay đường mây. Liệu rằng câu thơ đó mang một sự vơ lý rất trầm
trọng. Thế nhưng xét trong hồn cảnh và tâm trạng của nhà thơ thì câu nói kia khơng hề
vơ lý,nó trở thành có lý hợp với tâm trạng của nhà thơ. Nói như thế nhà thơ muốn thể
hiện sự chia rẽ cách xa trong lịng mình. Phải chăng nhà thơ đang tiếc thương cho mối
tình của mình?. Trước hết chia rẽ do nhà thơ nhút nhát và thứ hai bây giờ có muốn nói thì
cũng đã q muộn vì người con gái ấy đã đi lấy chồng cịn nhà thơ thì đang mang trong
mình trọng bệnh vì thế mà ta nhận ra một bi kịch tình cảm ở đây. Dòng nước buồn thiu,
hoa bắp ở bãi nào đó khẽ lay, cái lay ấy chỉ là một chút rất nhẹ nhàng mà thơi. Hình ảnh
con thuyền ở đây đậu bến sông trăng thật yên ả làm sao. Bông nhà thơ cất lên câu hỏi vô
chứa đầy bi kịch “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Cái bi kịch nằm ở chữ “Kịp” ấy, rõ ràng
là một cảnh tượng nên thơ nên họa, đẹp hiền hịa n bình thế nhưng qua con mắt của
người cuộc sống chỉ được tính lại từng ngày ít ỏi mà hạnh phúc lứa đơi dang dở thì lại trở
thành buồn hiu hắt đầy bi kịch.
Và đến cuối cùng nhà thơ vẫn không thôi mơ về người con gái ấy, nhà thơ đang
nhớ hay là đang luyến tiếc:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”


Khách đường xa là ai có phải chăng là người con gái mang tên Kim Cúc ấy. Điệp
từ “khách đường xa”như thể hiện được nỗi nhớ của nhà thơ với người con gái ấy. Nhà
thơ cảm thấy mình như đang mơ màng chìm đắm trong nỗi nhớ ấy. Hình ảnh áo người
con gái ấy trắng nhìn khơng xa , chẳng biết được là do trắng qua hay do sương khói mờ
nhân ảnh hay chính là những giọt nước mắt của nhà thơ làm nhạt nhịa hình ảnh ấy. Cũng

có thể đó là màu của kí ức nó trở nên mờ nhạt trong tâm trí con người. khơng phải là sự
mờ nhạt của tình cảm mà nó là mờ nhạt do kí ức q ư là xa xơi. Kết thúc bài thơ nhà thơ
lại vang lên một câu hỏi đầy tâm trạng. Câu hỏi ấy là hỏi người con gái hay hỏi chính
mình?. Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi ấy cũng khơng có câu trả lời nó chỉ hỏi ra để
mang tâm trạng đau khổ của nhà thơ trước số phận của mình mà thơi.
Một bài thơ mà có đến ba câu hỏi chứng tỏ trong lòng nhà thơ đang một tâm trạng
vơ cùng lớn. Chỉ có thế thì nhà thơ mới hỏi ra rồi không ai trả lời cả, mọi thứ đều rơi vào
không gian kia chẳng ai hay biết chỉ có nhà thơ biết. Bài thơ là lời nói, dịng tâm sự của
nhà thơ dành cho người con gái mà mình đã lỡ để dành cơ hội yêu thương cho người
khác.


BÀI MẪU SỐ 3:
A. Hướng dẫn tìm hiểu đề
– Xác định vấn đề nghị luận: nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Xác định luận cứ, luận chứng.
– Phạm vi tư liệu: bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
– Thao tác lập luận : phân tích, bình luận, nêu cảm nhận.
B. Hướng dẫn lập dàn ý
I. Mở bài
– Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ ca lãng mạn 19301945.
– “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử nằm
trong tập “Thơ điên” (hay “Đau thương”) được chính nhà thơ tập hợp lại vào 1938.
– Bài thơ thể hiện nổi cô đơn, tuyệt vọng của một con người trong thế giới đau
thương đối với cuộc đời đầy niềm vui, ánh sáng bên ngoài.
II. Thân bài
a. Thiên nhiên con người xứ Huế trong buổi bình minh
“Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
– “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” : câu hỏi tu từ – là lời của Hàn Mặc Tử tự
phân thân ra để hỏi mình đồng thời vừa mời mọc, trách móc với cả một niềm tiếc nuối.
Từ sự phân thân đó, tiếp theo Hàn Mặc Tử đã làm một cuộc hành trình trở về thăm thơn
Vĩ trong tâm tưởng. Từ đó, thơn Vĩ đã hiện ra với vẻ đẹp thanh khiết.
– “Nắng hàng cau” đó là thứ nắng mai in trên hàng cau. Trong vườn, cau là loại
cây cao nhất vượt lên trên hết các loại cây khác vì thế cau thường bắt được những tia
nắng đầu tiên trong buổi bình minh. Trong đêm lá cau thường được sương đêm tắm gội
cho nên nó ln giữ được vẻ tươi mới. Khi hàng cau bắt được nắng thì sẽ tạo ra nắng
hàng cau – thứ nắng vàng hanh, mượt mà, long lanh, tinh khiết.
– Mặt trời càng lên cao thì nắng ngập dần khu vườn, đến lúc tràn đầy thì nắng sẽ
biến cả khu vườn trở nên xanh thẩm như một viên ngọc lớn. Đặc biệt cách dùng từ ngữ
độc đáo : “mướt quá”, “xanh như ngọc” – làm nỗi bật ánh xanh và sắc xanh. Cách diễn
đạt đó làm tôn lên vẻ đẹp đơn sơ mà hết sức lộng lẫy của vườn Vĩ Dạ.


– “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” : con người thôn Vĩ xuất hiện với vẻ đẹp phúc
hậu, hiền từ. Con người hòa quyện với thiên nhiên mang vẻ đẹp kín đáo mờ ảo.
b. Đêm trăng Vĩ Dạ
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
– Vẫn là cảnh sắc thiên nhiên nhưng trong khổ thơ này cảnh đã được “lạ hóa” in
đậm cái Tơi đau thương của nhà thơ. Cảnh có gió, mây, hoa, dịng nước, hoa bắp, con
thuyền, bến sơng…Nhưng tất cả không một chút ràng buộc, không một mối dây liên hệ
với nhau. Trong tự nhiên gió và mây khơng tách rời nhau. Gió có thổi thì mây mới bay và
mây bao giờ cũng bay theo gió. Nhưng ở đây, mây và gió đã chia lìa, đoạn tuyệt với
nhau.
– Trong cái xu thế tất cả dường như đều chia lìa, li tán. Trăng đã xuất hiện cùng

với con thuyền, bờ bến và dịng sơng.
– Sự liên tưởng đầy biến hóa táo bạo của nhà thơ qua hình ảnh “sơng trăng” con
thuyền “chở trăng”. Có thể hiểu hình ảnh “sơng trăng” theo hai cách: trăng tỏa sáng
xuống dịng sơng, nước sơng phản chiếu ánh trăng hay ánh trăng tan biến thành nước nên
dịng sơng hóa thành “sơng trăng”.
– Trên dịng sơng là con thuyền chở trăng về cập bến thời gian “tối nay”. Sự liên
tưởng đầy biến hóa đã làm cho hai câu thơ tràn ngập ánh trăng. Điều đó ít nhiều làm mờ
nhạt đi tâm trạng khắc khoải, thản thốt của nhà thơ ẩn đằng sau hình ảnh trăng, nước.
c. Tâm trạng băn khoăn, hoài nghi
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
– Câu thơ thứ nhất trong khổ thơ được ngắt nhịp 4/3. Trong đó có ba âm tiết được
lập lại tạo thành điệp ngữ “khách đường xa”. Cách ngắt nhịp đó cùng với phép điệp ngữ
tạo nên nhịp điệu gấp gáp, hối hả như một lời khẩn khoản, níu kéo trong tuyệt vọng.
– Hình ảnh người con gái xuất hiện trong mơ tưởng với sắc áo trắng, trắng đến nổi
nhà thơ thản thốt “nhìn khơng ra”.
– “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” : Hàn Mặc Tử dùng hình ảnh “mờ nhân ảnh”
để chỉ cái tơi đau thương của mình. Cái tơi nhạt nhịa khơng ra đường nét, tồn tại mà như


không tồn tại nữa. ( “Cái quay búng sẵn trên trời – Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” –
“Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều). Một sự nhìn nhận đầy mặc cảm. Cái tơi
ấy đối lập với con người mặt chữ điền, mặt áo trắng ở cõi đời ngoài kia.
– Trong câu thơ kết – nhà thơ dùng đại từ phiếm chỉ “ai” – “Ai” ở đây có thể là
người thơn Vĩ hay bất kì ai hiểu được, cảm thông được cho nỗi đau riêng tư của Hàn Mặc
Tử. Cách diễn đạt phiếm định này hé mở cho ta thấy sợi dây tình cảm, sợi dây níu kéo,
nối kết hai thế giới – thế giới thôn Vĩ và thế giới đau thương của nhà thơ để hi vọng.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên

tưởng, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh đẹp, thơ mộng về một miền quê đất nước là tiếng
lòng của con người tha thiết yêu đời, yêu người.
III. Kết bài
Bài thơ có cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, có mối tình đẹp nhưng ẩn khuất đằng
sau là tình cảm hết sức đáng trân trọng và cảm thông của Hàn Mặc Tử.


BÀI MẪU SỐ 4:
1. Giới thiệu nhà thơ Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ dạ
- Hàn Mặc Tử là một gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc
Tử là tiếng nói của tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha
thiết và một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn.
- Đây thôn Vĩ Dạ in trong tập Thơ điên (Đau thương), sáng tác năm 1938. Bài thơ
được khơi nguồn cảm hứng từ một bức ảnh phong cảnh Huế với lời thăm hỏi của cô gái
Vĩ Dạ, lúc thi sĩ đã mắc căn bệnh hiểm nghèo. Có thể xem bài thơ là lời tỏ tình với cuộc
đời của một hồn thơ thiết tha nhưng tuyệt vọng.
2. Phân tích bài thơ
a. Khổ 1.
- Câu thơ mở đầu “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”? là một câu hỏi nhiều sắc thái:
vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa mời mọc. Nhà thơ đang phân thân để hỏi
chính mình. Niềm khao khát được về thăm lại thôn Vĩ đã được cất lên thành lời tự vấn.
- Ba câu sau vẽ cảnh vườn thơn Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
+ Mỗi câu một chi tiết vườn. Tất cả hợp lại, ánh lên một vẻ đẹp tinh khôi thanh
khiết. Nắng trên hàng cau là những tia nắng mới của bình minh trên tàu lá cau con ướt
sương đêm và xanh rời rợi. Nắng mai cứ theo chân cau và rót dần vào khu vườn. Đến khi
tràn đầy thì nó biến cả khu vườn xanh thành một viên ngọc lớn. Hai chữ “mướt quá” tác
động trực tiếp đến xúc cảm của người đọc, bởi nó như một tiếng reo ngỡ ngàng đầy hạnh

phúc của thi sĩ. Chỉ là trong tưởng tượng, nhưng cứ tưởng như nhà thơ đang đứng trước
khu vườn thôn Vĩ, khu vườn rời rợi sắc xanh và tỏa vào không gian những ánh sáng
xanh, đơn sơ mà lộng lẫy, thanh tú.
+ Câu thơ thứ tư gây nhiều tranh luận: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Có thể
đó là khn mặt người thơn Vĩ dun dáng sau cành lá trúc – một nét vẽ tạo hình đậm
chất cổ điển, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người thơn Vĩ. Nhưng cũng có
thể hiểu đó là gương mặt người trở về thăm thơn Vĩ, đứng bên ngoài vịn cành lá trúc mà
say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Và cảnh vườn thôn Vĩ – cũng là hình ảnh cuộc
đời – như một thiên đường trần gian, một ao ước ngoài tầm với, một hạnh phúc ngoài tầm
tay.
b. Khổ 2.
Khổ thứ hai chuyển sang cảnh dịng sơng:


“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
- Mặc cảm chia lìa đã hiện ra trong câu chữ, hình ảnh và giọng điệu. Hai câu trên
diễn tả một thực tại chia lìa. Tất cả dường như đang bỏ đi. Nỗi buồn chia lìa của gió mây
đơi ngả đã thấm vào dịng nước buồn thiu và hoa bắt lay buồn hiu hắt.
- Trên cái xu thế tất cả đang bỏ đi ấy, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dịng
trên với mình: “trăng”! Trong thế giới tâm hồn của Hàn Mặc Tử, trăng như một tri âm,
một niềm tin cậy, mội nỗi khao khát, một vị cứu tinh. Sông trăng, thuyền trăng là những
hình ảnh đầy chất thơ, ảo huyền như cõi mộng. Từ cõi thực, cảm xúc thơ dần chuyển
sang mộng ảo, hư thuyền. Câu thơ cuối là một câu hỏi đầy tâm sự: “Có chở trăng về kịp
tối nay?”. Tại sao phải “kịp” và phải là “tối nay”? Có phải nếu khơng kịp thì tất cả sẽ trở
thành muộn màng? Phải chăng thi sĩ đã dự cảm về một cái kết thúc đau thương của mình?
Chữ “kịp” thật bình thường mà chất chứa bi kịch tâm hồn, nó hé mở một mặc cảm về
thực tại xa vời, hiện tại ngắn ngủi và sự tồn tại mong manh. Câu thơ là câu hỏi của một

niềm ước mong khắc khoải muốn được đón nhận vẻ đẹp của trăng, vẻ đẹp của cuộc đời.
c. Khổ 3.
Đến khổ thơ cuối, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q, nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
- Nhà thơ đang ở trong cõi đau thương của riêng minh mà mơ.
+ Giấc mơ ấy là niềm mong ước đên tận cùng một hình bóng đẹp của “em”, của
“khách đường xa”. “Em” là người của cõi đời, giờ đã thành xa xôi quá! Ba chữ “khách
đường xa” được lặp lại lần càng nhấn mạnh sự xa xôi ấy.
+ Câu thơ “Áo em trắng q nhìn khơng ra” có vẻ thật bâng khuâng, khó hiểu.
“Trắng quá”, đó là cách nói đầy cảm xúc để tả sắc trắng của áo em. Ba chữ “nhìn khơng
ra” là một cách nói đầy ấn tượng để cực tả sắc trắng ấy. Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta vẫn
thường gặp lối nói giàu ấn tượng như vậy:
- Chết rồi xiêm áo trắng như tinh
- Chị ấy năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang.


Màu trắng đã trở thành một ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Ở bài thơ này, vẻ đẹp
của sắc áo trắng thanh khiết, tinh khôi và rực rỡ như một vẻ đẹp đáng tơn thờ và ước mơ.
Hình ảnh người con gái càng đẹp, càng tinh khiết lại càng xa vời.
- Khổ thơ trên ý nghĩa bề mặt của nó đã vẻ đẹp bức tranh đẹp về người con gái
Huế và cảnh sơng hương khói thơ mộng của xứ Huế.
+ Nhưng đâu chỉ là sương khói thực, dường như cịn có sương khói của thời gian
và cả sương khói mịt mờ trong vùng đau thương của riêng Hàn Mặc Tử. “Ở đây” đâu
phải là thôn Vĩ Dạ, mà là thế giới riêng của một linh hồn bất hạnh, ở đây, con người nhà
thơ đang mờ dần, đang sắp tan biến vào cõi hư vô. Hàn Mặc Tử đã rời khỏi thôn Vĩ trong
tưởng tượng để trở về với thế giới bất hạnh của riêng mình, mịt mờ sương khói và đầy

băn khoăn nghi ngại. Ở đây, sự tồn tại của nhà thơ sao q đỗi mong manh, khơng biết
mình có được đón nhận tình người đậm đà của cuộc đời không?
+ Câu hỏi cuối bài thơ với hai chữ “ai” thật xa rời đã khép bài thơ lại trong một
nỗi ngậm ngùi, bởi tình người quá mong manh xa vời giữa sương khói của vùng đau
thương tuyệt vọng.
3. Kết bài
Bằng tình yêu tha thiết đối với cuộc đời, Hàn Mặt Tử để lại cho thơ ca một bức
tranh đẹp và tuyệt vời thơ mộng về xứ Huế qua những câu thơ tài hoa của “Đây thôn Vĩ
Dạ”. Bài thơ cịn như một thơng điệp của tâm hồn thi sĩ gửi đến người đời: hãy cảm
thông và chia sẽ nỗi đau thương với những linh hồn bất hạnh.


BÀI MẪU SỐ 5:
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn mặc Tử hiện nên một bức tranh thiên nhiên,
một bức tranh đồng quê vô cùng đẹp đẽ và gần gũi, nó cũng nói lên nỗi buồn, nỗi nhớ
quê hương da diết đến bâng khuâng.
Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng ln quằn
quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho "trường phái thơ
loạn" xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và
trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người như Đây thơn Vĩ Dạ, Mùa
xn chín…
Đây thơn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông
viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của
người bạn gái có tên là Hồng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế
được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ơng đã biết mình mắc bệnh hiểm
nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm
đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ có thể là câu tự vấn. Từ anh có thể là đại
từ nhân xưng được dùng ở ngơi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc.

Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại khơng về chơi thơn Vĩ. Giọng thơ đượm buồn
có pha chút ân hận.
Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như
ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Rồi con người xuất hiện:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Thiên nhiên như được thổi
thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hịa trong giá trị tạo hình. Ở đây, câu thơ
vừa miêu tả khuôn mặt chữ điền vuông vức đầy đặn ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành
đã bị trúc trong vườn che khuất (cảnh thực) vừa như nói đến một trở lực ngăn cách tình
người.
Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sơng, nước ở đây thật
đẹp, nhất là cảnh một dịng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp
ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo


mộng của tâm hồn nhà thơ. Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở
khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Câu thơ như xẻ ra làm hai diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại
gợi ra sự chia ly của lịng người. Nó như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị
chia lìa.
Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Nỗi buồn của thi nhân đã lan trải ra khắp không gian theo quy luật tâm lý người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Nguyễn Du).
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ nên khơng khí hư ảo. Tâm trạng mộng mơ của

thi nhân dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng.
Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm
sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy
vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.
Tiếp tục nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi
nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự
hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo,
vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Đối với thi nhân thì tất cả chỉ là sự cảm
nhận.
Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái
Huế thơ mộng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện, áo em trắng q nhìn
khơng ra.
Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà khơng được vì cảnh
đầy màu hư ảo lẫn khói mây:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Bóng hình của giai nhân mờ ảo trong sương, nhưng cũng có thể đó là ẩn ý của
người viết. Phải chăng đây là biểu tượng của cái "không đi đến đâu" trong tình u của
Hàn Mặc Tử:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Một câu hỏi không rõ ngôi thứ, không cần sự trả lời nhưng người đọc cũng hiểu
được ý nghĩa của nó, vì những khổ thơ đầu của bài thơ đã xuất hiện những cụm đại từ
vườn ai, thuyền ai và những câu hỏi như thế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ


Có chở trăng về kịp tối nay?
Tâm trạng mong mỏi, khát khao bao nhiêu thì sự day dứt, buồn đau cũng tăng lên
bấy nhiêu.
Tóm lại, cảnh trong Đây thơn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế.
Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết.

Cảnh ấy như là sự thể hiện biện chứng tâm hồn của một nghệ sỹ tài hoa nhưng đa tình, đa
cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Vì vậy âm
hưởng chung của bài thơ là buồn nhưng không bi lụy.
Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế thiết
tha. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc
Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.


BÀI MẪU SỐ 6:
Trên bầu trời rực rỡ của phong trào Thơ mới. Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói
lọi diệu kì. Thơ của ơng vừa thổ hiện tình yêu khôn cùng đối với cuộc sống trần tục, vừa
hướng tới Chúa Trời, với những niềm thanh khí thần tiên.
Đã có khơng ít giai thoại về Hàn Mặc Tử, cũng có khơng ít sự giải thích về xuất
xứ và cách hiểu bài Dây thôn Vĩ Dạ. Song, nếu lấy văn bản làm chính, thì có lẽ đơng đảo
bạn đọc đều thừa nhận trước hết, đây là một bài thơ nói về tình yêu một tình yêu đơn
phương, thơ mộng, trong sáng, lung linh đến huyền ảo. Đồng thời, bài thơ không chỉ
thành công ở phương diện ấy, mà điều không kém phần quan trọng là Hàn Mặc Tử cịn
nói được rất đúng, rất hay về xứ Huê mộng và thơ.
“Đây thơn Vĩ Dạ” chí vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngơn.
Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng người
yêu của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhỞ mong:
Sao anh không về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nếu như mỗi tình u đều gắn với một khơng gian và thời gian cụ thể, thì mối tình
của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, với những
kỷ niệm thật khó qn. Có dịp, xin mời bạn hây về thăm thơn Vĩ vào một buổi sớm mai.
Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương ôm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế
khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi,

và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thống dưới màu xanh cùa cây lá. Thơn Vĩ
Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương núi Ngự, Chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi vậy, ta
không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tôn tuổi như Nguyễn Bính, Bích Kh,
Nguyễn Tn... đều có những sáng tác mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ nên
thơ.
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu con còn ướt sương đêm. Khách từ xa
tới thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới.
Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh
tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá
ngọc...
Câu thơ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.


Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhỞ tới hình ảnh
người đàn ơng có khn mặt vng vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng,
khi hình tượng này đặt trong chỉnh thể đoạn thơ và câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ
điền”, thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hịa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn
tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ, đáng yêu
của thôn Vĩ: cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đến hậu giàu sức sống.
Tiếp nôi mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ có phần dành
để đặc tả cảnh sông nước, mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ niềm hồi vọng bâng khng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành cơng: gió và mây
nhè nhẹ trơi đi; sơng Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chỉ khẽ khàng đung
đưa theo chiều gió. Khác với khổ một, đến khổ hai này, không gian được miêu tả như
trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ tả, khơng những chỉ nhìn

bằng mắt, mà điều quan trọng hơn là cịn “nhìn” bằng thế giới tâm linh của mình; do đó,
khơng có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế
giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất
mộng mơ: “Thuyền ai dậu bến sơng trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? ” Thuyền
trăng đã có nhiều thi nhân nhắc đến, nhưng “sơng trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người
sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hi vọng,
lần nỗi buồn man mác của nhà thơ. Ở đây rõ ràng, khơng chỉ có sự đặc sắc của một bút
nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình u thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng
mở đến khôn cùng.
An tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tơ đậm qua khổ
kết:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khơ thơ trên
có nét tả thực, cũng giơng như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bấp”... ờ những khổ thơ trước?
Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người
thơi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu.


Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là
thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lịng người đọc một thoáng bâng khuâng: người
thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo q; nào ai có biết tình yêu của họ bền
chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? ở đây, dường như tác giả cảm thấy
mình chơi vơi, hụt hẫng, trước một mơi tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận
ra rằng, Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn
bệnh phong hiểm nghèo đã làm ơng khơng có được một tình u trọn vẹn. Nhà thơ đã
từng phải sơng cơ độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc
thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương

Quy Hịa chờ cái chết. Ta càng thơng cảm cho một thống hờn dỗi, trách móc tưởng như
vơ cỞ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này.
Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huê gắn bó
với xứ Huê sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình u, về xứ Huế đúng và hay như
thế!



×