Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận: Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.87 KB, 16 trang )

Mục lục
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài.
1. Nguyên tắc phương pháp luận của qui luật lượng- chất.
2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- kết quả.
II-

Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền
kinh tế Việt Nam trước xu thế tồn cầu hố.

III-

Những giải pháp và kiến nghị.

- Phần kết luận


Lời mở đầu
Kinh tế là ngành không thể thiếu được của mọi quốc gia trên thế giới. Chính
vì thế, nó chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước của mỗi quốc
gia. Khơng chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống
xã hội như: chính trị, văn hố, mơi trường... Do có vai trị quan trọng như vậy
nên mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều ảnh hưởng đến sự
phát triển chung của một quốc gia.
Ngày nay, xu thế tồn cầu hố đang là một đề tài thu hút nhiều sự chú ý và
gần đây hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được thông qua tạo thêm nhiều cơ
hội cho sự phát triển kinh tế ở nước ta nhưng đồng thời đây cũng là một thách
thức lớn đối với nền kinh tế còn đang trong giai đoạn phát triển như nước ta ,vì
hiện nay có thể nói cơng nghệ và kỹ thuật của ta cịn đi chậm hơn so với thế giới
và chúng ta buộc phải có những đổi mới trong cung cách sản xuất, quản lý , đầu


tư đúng hướng ...


Phần nội dung
I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài
1 - Q uy luật lượng- chất
Muốn hiểu thấu đáo qui luật lượng- chất thì trước hết phải tìm hiểu xem thế
nào là lượng, thế nào là chất. Trong giáo trình triết học Mác- Lênin, khái niệm
về chất và lượng được dịnh nghiã như sau:” chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống
nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó chứ khơng phải cái khác”.
Còn”lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính qui định vốn có của sự vật biểu
thị số lượng, qui mơ,trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật
cũng như của các thuộc tính của nó”.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong q trình vận động
và phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và
của chất không diễn ra độc lập với nhau. Trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nhưng khơng phải bất kì sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm
thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một
giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Vượt qua
giới hạn đó sẽ làm cho vật khơng cịn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Khn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của
sự vật được gọi là độ. “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất
giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng
chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật .”
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của
sự vật được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự
thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì
vậy, có thể hình dung sự phát triển dưới dạng một đường nút của những quan hệ

về độ.


Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn
chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về chất trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút.
Sau khi ra đời, chất mới có thể tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới
có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật đó.
Bởi vì chất và lượng là hai mạt đối lập vốn có trong lịng sự vật hiện tượng.
Chất thì tương đối ổn định cịn lượng thì thường xun biến đổi. Sự thay đổi của
lượng đến một lúc nào đó thì đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm hãm, nó địi hỏi
phải phá bỏ độ cũ mở ra một độ mới để mở đường cho lượng thay đổi. Khi chất
cũ bị phá bỏ, chất mới được thiết lập lại tạo ra sự thống nhất giữa chất và lượng.
Quy luật lượng chất được phát biểu như sau: “Bất kì sự vật nào cũng là sự
thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn
của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất
mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng.
Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải quan tâm đến q trình tích luỹ về lượng bởi vì khơng có q
trình này thì khơng có sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không thể mất
đi, cái mới tiến bộ hơn không thể ra đời thay thế.
Khi chất mới ra đời thì phải biết xác định quy mô tốc độ phát triển mới về
lượng cho phù hợp, không được thoả mãn dừng lại.
Phải chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Tả khuynh là quan điểm
coi thường tích luỹ về lượng. Cịn hữu khuynh là khi lượng thay đổi đã chín
muồi cần phải có sự thay đổi về chất lại không dám thực hiện bước thay đơỉ về
chất. Cả hai quan điểm đó đều là quan điểm sai lầm.
2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- Kết quả.



Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Do đó, ngun nhân bao giờ cũng có trước
kết quả. Cịn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện
Song không phải mọi sự việc nối tiếp trong thời gian của các hiện tượng đều là
biều hiện của mối quan hệ nhân quả.
Trong hiện thực mối liên hệ nhân- quả biểu hiện rất phức tạp. Một kết quả
thông thường không phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sản
sinh ra nhiều kết quả. Khi các nguyên nhân tác động cùng chiều, cùng hướng,
cùng một lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây lên ảnh hưởng cùng chiều tới sự hình
thành kết quả và ngược lại.
Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động vật chất, khơng có hiện tượng
nào được coi là ngun nhân đầu tiên và cũng khơng có kết quả nào được xem là
kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này, sự vật nào đó được coi là ngun
nhân thì trong sự việc khác, nó lại được coi là kết quả và ngược lại.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả khơng giữ
vai trị thụ động đối với nguyên nhân. Trái lại, nó tác động lại nguyên nhân theo
hai chiều hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.
Mối liên hệ nhân – quả có tính khách quan. Khơng có sự vật hiện tượng nào
tồn tại mà khơng có ngun nhân. Do đó, nhiệm vụ của nhận thức khoa học là
phải khám phá ra nguyên nhân. Bởi vì có biết ngun nhân, chúng ta mới có thể
định hướng cho sự phát triển tiếp sau.
Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mỗi ngun nhân
có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, ta cần phải phân loại
các nguyên nhân đồng thời phải nắm được những nguyên nhân phát triển cùng
chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân ngược chiều.
Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi kết quả xuất hiện thì nó lại tác
động trở lại ngun nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận dụng các kết
quả đã đạt được để nâng cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát triển.



II- Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền
kinh tế Việt Nam trước xu thế tồn cầu hố.
Trên thế giới có rất nhiều tài liệu viết về khái niệm hội nhập kinh tế Quốc tế.
Giáo sư về kinh tế học quốc tế thuộc đại học Tổng hợp Giôn Hốp- kin, Oa- sinhtơn D.C, Giêm Ri- đen đã định nghĩa: “Hội nhập là tự do thương mại, không
phải chỉ đơn giản là bản thân thương mại”. Về mặt lý luận, các vấn đề kinh tế
không chỉ mang các đặc trưng của kinh tế đơn thuần, mà ln gắn với một hệ
thống của chính trị là nền tảng của tư tưởng của nó. Về mặt thực tiễn, rõ ràng ở
quốc gia nào cũng vậy , người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi
lợi ích của quốc gia đó được bảo đảm- Các lợi ích này khơng chỉ đơn thuần là
lợi ích kinh tế. Nó ln được xác định gồm cả lợi ích chính trị của mỗi quốc gia.
Cho nên, bất cứ hiệp định song phương giữa hai quốc gia nào cũng ln có điều
khoản loại trừ các yếu tố gây hại đến an ninh quốc gia mỗi nước. Với cách tiếp
cận trên, có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế, của nước ta hiện nay khơng chỉ là
q trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế mà cịn được thể hiện trong bản
thân hệ thống chính các thương mại, chính sách phát triển kinh tế đã và đang
được Đảng, Nhà nước định hướng.
Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, sự
phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế
đã phá vỡ tính biệt lập, khép kín trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian
hoạt động của các quốc gia. Đây chính là tiền đề cho quá trình tích luỹ về lượng
để chuẩn bị cho sự thay đổi về chất tới một giới hạn nào đó(độ) thì dẫn đến một
bước nhảy về kinh tế là xu thế tồn cầu hố ra đời.
Có nhiều ngun nhân tác động dẫn tới sự hình thành và phát triển xu thế tồn
cầu hố kinh tế, trong đó có một số ngun nhân chủ yếu là:


-Xu thế tồn cầu hố kinh tế trước hết bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hố của lực lượng sản xuất trên phạm vi

quốc gia và quốc tế.
-Xu thế tồn cầu hố kinh tế chịu sự tác động trực tiếp rất mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Sự phát triển của các công nghệ
cao( công nghệ sinh học, công nghệ viễn thông...) đã làm thay đổi về chất lực
lượng sản xuất của loài người, đã đưa lồi người từ văn minh cơng nghiệp lên
văn minh tin học, đã tạo thành kinh tế tri thức, kĩ thuật số, hình thành mạng máy
tính tồn cầu( Internet), phá vỡ hàng rào ngăn cách về không gian và thời gian
giữa các quốc gia trên thế giới và thúc đẩy các nước quan hệ, hợp tác với nhau.
- Sự phát triển và bành trướng của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc
gia,lực lượng chi phối toàn cầu hố.
Chính những ngun nhân trên đã đặt các quốc gia, phát triển cũng như đang
phát triển, đứng trước thách thức về tụt hậu. Do đó các quốc gia đều đặt ưu tiên
cho phát triển kinh tế. Trong đó, yêu cầu về mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác
ngày nay đã trở thành một nhiệm vụ chủ yếu.
Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam được bắt đầu từ cuối những năm 80
khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới nền kinh tế. Đại
Hội VII của Đảng (1991) đã thông qua định hướng nền kinh tế đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ quốc tế “Nghị quyết đại hội VIII của Đảng (1996) đã quyết
định : “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” Nghị quyết hội
nghị Trung Ương lần thứ 4 khoá VIII (12-1997) chỉ rõ nguyên tắc hội nhập là : “
trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp
định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO”, có “ kế hoạch cụ thể để
chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”.


Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế các quy định đối với mỗi quốc gia, là
tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng theo 4 nguyên tắc
cơ bản sau:
- Công bằng

- Tự do hoá thương mại
- Làm ăn hay thương lượng với nhau phải trên có sở có đi có lại.
- Cơng khai mọi chính sách Thương Mại và đầu tư.
Với các nguyên tắc trên, nước “đi sau” như nước ta sẽ có nhiều thuận lợi,
nhất là trong việc học hỏi các kinh ngiệm của các nước “đi trước”, nhưng
cũng sẽ phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức mà quan trọng hàng đầu là
việc bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp Việt Nam nhất là
các doanh nghiệp quốc doanh mới “chân ướt, chân ráo” bước vào nền kinh tế
thị trường.
Với tầm nhìn chiến lược xác định rõ tình hình và xu thế phát triển của thế
giới, trên cơ sở yêu cấu bức xúc của phát triển kinh tế đất nước, Đại hội đã
khẳng định “Xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế và Thế giới”, nghị quyết 4 của Ban chấp hành TW khố III cũng đã
nêu rõ:”tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “gia
nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết
trong khuôn khổ AFTA”. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là quan điểm, là
định hướng phải được nhất quán tuân thủ.
Qua nghiên cứu thực tiễn các hoạt động hội nhập kinh tế của các nước, nhất
là các nước đang phát triển, có thể thấy rằng hội nhập kinh tế quốc tế luôn
không phải chỉ tồn được mà khơng có thua thiệt. Vấn đề tồn cầu hố như
một:”con dao hai lưỡi”. Một mặt nó tạo cơ hội phát triển kinh tế- kĩ thuật, tạo
khả năng giao lưu văn hố, trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ hiện đại, phát triển
văn minh vật chất. Mặt khác, nó làm trầm trọng thêm bất cơng xã hội, đào sâu
hố ngăn cách giàu nghèo, làm xói mịn bản sắc văn hố dân tộc, tấn cơng vào


chủ quyền quốc gia. Về phương diện nguyên tắc, phải xác định một chiến
lược hợp lý, sao cho có thể kiếm được lợi một cách tối đa và hạn chế đến mức
thấp nhất có thể được những thua thiệt. Và điều quan trọng là cái được phải
nhiều hơn cái mất.


Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh
thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng mọi cơ hội vừa phải đối phó với những thách
thức to lớn. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh còn yếu,
rất dễ bị thua thiệt trên thương trường; là sự thiếu hụt năng lực thu thập và phân
tích thông tin để dự báo chiều hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và các
đối tác cạnh tranh, từ đó kém khả năng mở rộng và phát triển thị trường của
mình. Ngay cả đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế của ta hiện
nay cũng vừa học, vừa làm.
Chúng ta tham gia cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ kinh tế và cơng nghệ của
ta cịn thấp. Bảo vệ nền kinh tế cũng như bảo vệ các doanh nghiệp của ta, nhất là
các doanh nghiệp quốc doanh là vấn đề phải được đặt lên hàng đầu. Một lộ trình
hội nhập nhanh quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế với mức độ cao quá
khả năng của các doanh nghiệp sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường đối với nền
kinh tế, đơi khi cả chính trị của đất nước. Song điều đó cũng khơng có nghĩa là
càng kéo dài lộ trình hội nhập kinh tế với mức độ càng thấp càng tốt. Bởi vì kéo
dài lộ trình sẽ làm cho sức ì càng nặng, kém đầu tư cải tiến quản lý cơng nghệ,
dẫn tới tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh và nền kinh tế ngày càng tụt
hậu so với nền kinh tế thế giới.
Tồn cầu hố kinh tế có tác dụng trực tiếp đến chính trị, có những hệ quả về
mặt chính trị. Song ở đây khơng nên hiểu luận điểm kinh tế quyết định chính trị
một cách đơn giản và máy móc. Thơng qua con đường hợp tác, đầu tư, tự do hoá
thương mại, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hố, tự do hoá


tư sản. Các thế lực tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ muốn tạo ra những cơ sở
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến hình thành những lực lượng chính trị
đối lập ngay trong lịng xã hội để thực hiện tự diễn biến hòng thay đổi chế độ xã
hội chủ nghĩa( đối với các nước xã hội chủ nghĩa) hoặc thay đổi chính phủ theo

hướng thân phương Tây( đối với các nước đang phát triển) gây sức ép về kinh tế
và chính trị đối với các nước. Tuy vậy, chủ nghĩa đế quốc vấp phải sự phản
kháng mạnh mẽ của các nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa nhằm
chống lại âm mưu áp đặt về chính trị. Vừa qua, Hiệp định thương mại Việt- Mĩ
đã được kí kết, một hiệp định rất có lợi đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam,
nhưng trước đó Mĩ định dùng áp lực này nhằm thông qua “đạo luật nhân
quyền”, một sự can thiệp thô bạo vào nền chính trị của nước ta.
Cũng như lĩnh vực chính trị, lĩnh vực văn hố cũng chịu tác động bởi q trình
tồn cầu hố kinh tế. Tồn cầu hoá tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu quốc
tế, tăng thêm mối liên hệ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, sự xích lại
gần nhau giữa các quốc gia. Do đó, nó cũng tạo điều kiện cho việc mở rộng giao
lưu về văn hoá, khoa học giữa các quốc gia, dân tộc tiếp thu có chọn lọc những
thành tựu của văn hoá nhân loại, bổ sung cho nhau tạo điều kiện hiện đại hoá
văn hoá. Tuy nhiên, mặt khác, tồn cầu hố kinh tế trong điều kiện do thế lực tư
bản chi phối lại tạo nguy cơ làm sói mịn bản sắc dân tộc, mâu thuẫn với việc
giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc. Trên thế giới, chủ nghiã đế quốc nhất là đế quốc
Mỹ dựa trên sức mạnh kinh tế của mình đang muốn tồn cầu hố văn hố, thậm
chí là Mỹ hố. Người ta tuyên truyền về lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ, cịn các kênh
truyền thơng Mỹ thì phủ khắp hành tinh, phim ảnh Hô-li-út của Mỹ được chiếu
khắp các nước, thậm chí đồ ăn thức uống Mỹ( Mac Donald, Coca Cola...) lan
tràn khắp nơi. Đến nỗi Pháp cũng lo bị Mỹ hố. Mỹ muốn áp đặt giá trị, lợi ích
văn hố, lối sống của mình cho tồn cầu. Chính vì thế, nước ta phải hết sức chú
trọng đến vấn đề bảo tồn văn hố trong xu thế tồn cầu hố, tránh bị “hoà tan”
trong khi “hoà nhập”.


Khơng chỉ có vậy, tồn cầu hố cịn ảnh hưởng đến vấn đề môi trường. Từ
năm 1973 đến nay, tuy số liệu điều tra chưa đầy đủ nhưng chắc chắn diện tích
rừng bị giảm khơng phải là con số ít. Chẳng hạn như ở Lâm Đồng, mỗi măn tính
trung bình có 10.000 ha rừng bị tàn phá. Trong vịng 20 năm trở lại đây có 25%

diện tích rừng bị biến mất. Từ năm 1990 đến 1995, tồn cuốc có 5 triệu ha rừng
bị huỷ diệt (bình quân mỗi năm mất 1 triệu ha rừng) . Vấn đề ơ nhiễm mơi
trưịng , khói bụi và rác thải ...
Tuy cịn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng sau hơn 2 thập niên tham gia vào
q trình tồn cầu hố nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể.
Hàng năm nền kinh tế đều có tăng trưởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng
bình quân hàng năm là 8,2% , giảm tỉ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống
12,7% năm 1995 và khoảng 5% năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm
(1991-1995) đạt 17 tỷ đô la và 1996 đạt trên 7 tỷ đô la. Mở rộng được quan hệ
hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật của nhiều nước để phát
triển kinh tế trong nước đến cuối năm 1996 có trên 700 công ty lớn, nhỏ đầu tư
vào nước ta với 22 tỷ đô la nằm trong 1800 dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều
thành phần khác nhau như: công nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài
chính. Chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn ngoại thương với 120 nước trên thế
giới, xố bỏ thế bị bao vây, cơ lập về kinh tế tạo ra thế và lực mới để cạnh tranh
trên thị trường thế giới. Môi trường kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định và cán cân
thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt làm cho nền kinh tế phát triển và
năng động hơn.

III-Những kiến nghị và giải pháp.
Để khắc phục những tồn tại của kinh tế Việt Nam nhằm mục tiêu đưa nền kinh
tế phát triển và bền vững trước xu thế tồn cầu hố em có những kiến nghị sau:
- Xây dựng thể chế pháp lí cho quan hệ giữa nước ta và các nước hình thành
một hệ thống đồng bộ các thoả thuận, cũng như các hiệp định làm nền tảng


cho quan hệ hợp tác quốc tế. Cụ thể là: tham gia và hỗ trợ việc chuẩn bị,
đàm phán kí kết các hiệp định, thoả thuận cấp chính phủ giữa nước ta với
các nước, cũng như thực hiện tốt việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các thoả
thuận, hiệp định đã được kí kết, cả phía ta và phía bạn. Góp phần xây dựng

hệ thống pháp luật kinh tế của ta cho phù hợp với luật pháp và tập quán
quốc tế, trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành và phát triển các luật
lệ, quy định quốc tế, nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của đất nước và công
dân ta trong quan hệ quốc tê. Pháp huy vai trị tích cực trong các uỷ ban
hỗn hợp và các quy chế song phương về hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và
các nước; kịp thời phát hiện, kiến nghị và phối hợp giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức
quốc tế; bảo vệ chủ quyền kinh tế và lợi ích kinh tế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
- Triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế, đặc biệt là về kinh
tế đối ngoại. Nhiệm vụ này là của ngành ngoại giao. Cụ thể là làm thật tốt
cơng tác tiếp thị, tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư, mở rộng thị trường, tìm
kiếm đối tác. Với lợi thế, đặc điểm của ngành cần nắm vững chính sách,
luật lệ của các nước sở tại, cung cấp nhanh và chính xác những thơng tin
quan trọng về thị trường, đối tác; nắm bắt kịp thời những nhân tố thuận lợi
hoặc không thuận lợi; tăng cường giới thiệu về tiềm năng kinh tế, chính
sách, luật lệ và nhu cầu của ta cho các đối tác nước ngoài. Ngành ngoại
giao thực hiện công việc này trong sự hợp tác và phối phợp chặt chẽ với
các bộ, ngành, các địa phương, cũng như các doanh nghiệp.
- Nghiên cứu kinh tế các nước, kinh tế thế giới, khu vực, các tổ chức kinh tế
quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế; nghiên cứu kinh tế Việt Nam để góp
phần hoạch định các chủ trương, chính sách kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối
cảnh hiện nay, công tác này cần được tăng cường với chất lượng cao hơn
để có những đề xuất tham mưu có gia trị cao với đảng và chính phủ.


- Tìm hiểu nhu cầu, khả năng về các mặt của các đối tượng, các nước và các
tổ chức quốc tế , khả năng và nhu cầu của các bộ ngành trong nước để đề
xuất kiến nghị với chính phủ có chủ trương, chính sách làm ăn với từng

nước. Hiện nay và trong thời gian tới cần tập trung vào các lĩnh vực như:
xúc tiến thương mại đặc biệt là tìm kiếm thị trường mới, mở rộng thị
trường để tăng cường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và xuất khẩu lao động
của Việt Nam; thu hút FDI và các hình thức đầu tư quốc tế khác; vận động
ODA, các hình thức viện trợ khác và hỗ trợ kĩ thuật của cộng đồng quốc
tế, và xử lý nợ nước ngoài; thúc đẩy du lịch và chuyển giao công nghệ...;
tranh thủ sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự
nghiệp phát triển đất nước, quảng bá văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt
Nam trên thế giới.
- Trực tiếp chuẩn bị và đàm phán hoặc tham gia đàm phán kí kết các loại
hiệp định, thoả thuận chính phủ (song phương, đa phương) giữa ta với các
nước làm nền tảng pháp lý cho quan hệ hợp tác quốc tế phát triển; theo
dõi, đôn đốc việc thực hiện các hiệp định, thoả thuận đã kí kết. Hiện nay
và tới

đây, cần quan tâm nghiên cứu đóng góp vào khả năng kí kết các

hiệp định song phương

và đa phương nhằm hình thành một hệ thống

đồng bộ các thoả thuận và hiệp định về tất cả các mặt biên giới lãnh thổ,
lãnh sự, hỗ trợ tư pháp, hợp tác kinh tế- thương mại và

khoa học- công

nghệ.
- Hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp trong việc móc nối,
thẩm tra các đối tác, tìm kiếm và mở rộng thị trường; giúp đỡ các doanh
nghiệp làm ăn ở nước ngoài. Trong thời gian tới cần: tích cực tìm kiếm và

mở rộng thị trường quốc tế cho xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, người lao
động và đầu tư của Việt Nam.


- Tham gia xây dựng khung pháp lý, các văn bản pháp quy về kinh tế vĩ mơ
nói chung và văn bản chuyên ngành, đặc biệt là việc thông tin về kinh
nghiệm của các nước.
- Công tác thông tin, tuyên truyền kinh tế nhằm cung cấp những thông tin
cần thiết, chính xác cho những hoạt động kinh tế cụ thể của các cơ quan
nhà nước và doanh nghiệp.
-

Tham gia quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.


Phần kết luận

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ các nguồn
nội lực, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài;
kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp là nội dung quan
trọng của đường lối kinh tế do Đại hội IX của Đảng đề ra. Chủ động hội nhập
kinh tế là để tạo ra điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Mặt khác, có độc tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế có hiệu quả, đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc.
Tất cả vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH
Việc Việt Nam tham gia tồn cầu hố kinh tế đã khơi dậy tiềm năng của
sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động
trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế
nước ta thực sự được đổi mới, bước đầu đạt được những thành tựu to lớn: từ

một nước đói kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở
thành một nước khơng chỉ đủ ăn mà cịn dư thừa, xuất khẩu ra nước
ngoài( đặc biệt là lúa, gạo). Tuy nhiên, ta khơng được tự bằng lịng với những
gì đã đạt được bởi vì đạt được đã khó, giữ được cịn khó hơn. Vì thế địi hỏi
ta phải cố gắng nỗ lực không ngừng để củng cố những thành quả và tạo cho
mình một chỗ đứng chắc chắn trên trường quốc tế.


Tài liệu tham khảo
- Giáo trình triết học Mác-Lênin
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tác giả PTS . Nguyễn Cúc - NXB Thống kê- Hà Nội- 1995
- ASEAN- Những vấn đề và xu hướng
Bài ASEAN- Một số vấn đề môi trường và phát triển
Tác giả PTS . Trần Quốc Trị – Viện nghiên cứu Đông Nam á
Tạp chí Cộng sản :
- Phạm Cơng Minh – Vụ trưởng Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ tài chính
- Lâm Đình Ngọc - Bộ Ngoại giao



×