Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Văn phân tích lớp 12: Cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm ‘Chí Phèo’ của Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.91 KB, 10 trang )

Cảm nhận về tình u trong tác phẩm
‘Chí Phèo’ của Nam Cao


Tình yêu là một hiện tượng đặc biệt và khá phức tạp của cuộc sống con người, là đề tài
nổi bật, hấp dẫn, không hề vơi cạn của văn học nhân loại. Chính vì vậy trong văn chương,
tình u là đề tài liên tục thu hút sự chú ý của giới sáng tác, nghiên cứu, phê bình. Khn
mặt của tình yêu tuỳ vào quan điểm thẩm mỹ, văn hoá, xã hội của từng thời kỳ, của từng
tác giả mà có những dạng tồn tại khác nhau.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu,
xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được
chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống
trị, số phận con người bị tha hoá… nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình u.

Tồn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo,
có một chi tiết đáng lưu ý là: các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước
ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng
những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối những cũng
có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.


Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá
Kiến, một người “đàn bà phốp pháp, má hây hây”, để từ một anh nông dân hiền lành chất
phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất ln cả ý thức về
mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả
ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ khơng phải một biến cố
xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí
Phèo lẫn Bá Kiến.

Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối


một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải
ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp
Thị Nở, cái buổi tối mà hắn “vừa đi vừa chửi”, để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má
với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm
được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề
dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phơng nền để làm nổi bật tác động của tình yêu,
tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.


Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy,
ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái
khốy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già… Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật
Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp,
vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một
cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch
nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có
tên là Thiên Lơi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng
nhân quả…v.v.

Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo –
Thị Nở như vậy. Khơng lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn
Đồn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo “vừa đi
vừa chửi… chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo”, cuộc đời hắn chìm trong những cơn say.

Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để “nhớ rằng hắn có ở đời”. Tức trong hắn chỉ tồn tại không
phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự


hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt
nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ

nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất
toàn của con người trong xã hội cũ. Con người khơng được sống thực là chính mình mà
chỉ là những cái bóng, nhưng cũng khơng được là cái bóng của chính mình mà là bóng
của giai cấp thống trị nên thành “cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường
trăng nhễ nhại”. Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí
Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và
bất toàn của hai con người.

Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể khơng có đường nét cá tính gì đặc
biệt mà cịn khùng khùng dại dại, cịn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc
đến mức dị hợm: trên một khn mặt ngắn ngủn, có cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ,
vừa sần sùi như vỏ cam sành” và một đôi môi “cũng cố to cho khơng thua cái mũi” hơn
nữa, lại dày và có “màu thịt trâu xám ngốch”. Tồn bộ “nhan sắc” của Thị Nở được
Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là “xấu đến ma chê quỷ hờn”. Từ hai cuộc đời, hai
thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mơng muội tăm tối của Chí Phèo – Thị Nở, Nam Cao


đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống
nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị
Nở.

Với Nam Cao, tình u khơng đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng
bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo
đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ “xanh rời rợi như là ướt nước”. Cây dâu
tây gần bờ sơng thì “thân mềm oặt”, những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì “nằm ngửa,
ưỡn cong cong lên” thỉnh thoảng lại “giẫy lên đành đạch như là hứng tình”. Cái bóng –
dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này.
Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng
chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn
thấy bản thể tốt đẹp của con người.


Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những
tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái
Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên(Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng


sông Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình u trong sự hồ hợp tinh thần và
thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình u chứ khơng thuần
t là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa,
được Thị Nở dìu về lều… Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình u, sống
dậy phần nhân tính tưởng khơng có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị
Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác.
Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình u cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình.

Trước đây, họ chỉ là hai khối mơng muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô
thức và những cơn say vô tận:“Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say,
đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa,
say vơ tận”. Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình,
khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người
cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.

Tại sao Chí Phèo “càng uống lại càng tỉnh ra?”. Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm
thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức


những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống
đang tồn tại dù có hay khơng có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ
những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh,
hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy “bâng khng” rồi “lịng mơ hồ buồn”rồi
“nghĩ vẩn vơ”… Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình

để “trằn trọc” “nghĩ ngợi” “tưởng tượng bâng quơ” .v.v..

Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thơng với
cuộc đời bên ngồi. Chính tình u đã mở thơng lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn
cảm nhận được cuộc sống xung quanh:“Tiếng chim hót ngồi kia vui vẻ q, có tiếng
cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng
quen thuộc ấy hơm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn !”.

Tình u cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vơ cảm,
vơ tâm, khơng có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại
và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát
cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn


từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải… hắn còn
sợ già, sợ cơ độc và muốn làm hịa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự
chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình u đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể
bất tồn và cơ độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được u. Chính tình u đã
bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội
tâm của nhân vật này rất nhiều.

Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình u nên khi bị Thị Nở từ chối
“và ngoay ngốy cái mơng đít ra về”, Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức
mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống,
trong khi thực tại lại khơng như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ
buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm
vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau
khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.

Lời chì chiết của bà cơ Thị Nở như là một chi tiết “giải thiêng” tình yêu của Chí Phèo.

Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến


với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy khơng dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết
liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc
sống trước kia.

Sau những tác phẩm về tình u của Tự Lực Văn Đồn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí
Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình u nhưng khơng
phải về bản thân tình u Chí Phèo – Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng
người đọc đến những vấn đề ngồi tình u. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã
hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi
những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người.

Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao khơng mang dáng dấp của truyện tình
theo nghĩa thơng thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình u theo cách
thơng thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam
Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống khơng cịn bị gị ép trong cái khn khổ thơng
thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ
tạo sự ngạc nhiên trong cảm nhận.



×