Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Chi si Phan Chau Trinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.91 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chí sĩ Phan Châu Trinh (1872–1926)</b>


<b>Phan Châu Trinh (còn được gọi là Phan Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là</b>
<b>Tây Hồ, Hy Mã , tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời</b>
<b>cận đại trong lịch sử Việt Nam.</b>


<b>I. Thân thế:</b>


Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1], người làng Tây Lộc,
huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh),
tỉnh Quảng Nam.


Cha ông là Phan Văn Bình, làm chức Quản cơ sơn phịng, sau tham gia
phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm Chuyển vận sứ đồn A Bá (Tiên
Phước) phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là Lê thị Trung (Chung ?), con
gái nhà vọng tộc, thông thạo chữ Hán, ở làng Phú Lâm, huyện Tiên Phước.
Năm Phan Châu Trinh lên 6 tuổi, thì mẹ mất. Quê nhà lại bị quân Pháp đốt
cháy, nên ông phải theo cha, được cha dạy chữ và dạy võ, Sau khi cha mất
(bị thủ lĩnh Nguyễn Duy Hiệu sai người chết ngày 15 tháng 6 năm 1886, vì
ngờ ơng mưu phản), ơng trở về quê sống với anh là Phan Văn Cừ và tiếp tục
đi học. Ông nổi tiếng học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và
học chung với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng.


<b>II. Sự nghiệp:</b>


Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường Thừa
Thiên. Năm sau (1901) triều đình mở ân khoa, ơng đỗ phó bảng (đồng khoa
với tiến sĩ Ngơ Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc). Khoảng thời gian
này, người anh cả mất nên Phan Chu Trinh về để tang, ở nhà dạy học đến
năm Qúy Mão (1903)thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.



<b>2.1 Vào Nam, ra Bắc, sang Nhật:</b>


Sau khi chán cảnh quan trường. tiếp xúc với nhiều người có tư tưởng canh
tân và đọc được các tân thư [2], năm 1905, ông từ quan, rồi cùng với hai bạn
học là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ năm
1904) làm một cuộc Nam du, với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm
bạn đồng chí hướng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

bài không theo đầu đề, mà chỉ kêu gọi sĩ tử đang đắm đuối trong khoa
trường và danh lợi, hãy tỉnh dậy lo giải phóng giống nịi khỏi cảnh lao lung
[3].


Các tỉnh quan Nam triều hoảng sợ, đem bài trình cho viên Cơng sứ Pháp,
đồng thời ra lệnh truy tìm tác giả, nhưng ba ơng đã rời khỏi Bình Định, tiếp
tục đi vào các tỉnh phía Nam Trung Kỳ. Trên đường đi, ba ông lần lượt kết
giao với Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và hai con trai của
danh sĩ Nguyễn Thông là Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh.


Sau cuộc Nam du, Phan Châu Trinh ra Nghệ - Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội để
gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu tiến bộ, rồi lên căn cứ Đề Thám quan sát tình
hình, nhưng thấy khó có thể tồn tại lâu dài.


Năm 1906, ơng bí mật sang Quảng Đơng (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu,
trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại
đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ
sở này.


<b>2.2 Phát động phong trào Duy Tân:</b>


Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một


bức chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Tồn quyền Jean
Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp
phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để
giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.


Sau đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan
Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng
Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong
trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Phương thức
hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai
hóa dân tộc, cải cách trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối học từ
chương, phát động phong trào học Quốc ngữ, mở mang công thương nghiệp,
chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, kêu goị cắt tóc ngắn, cắt ngắn
móng tay,... Thời gian này, ơng viết bài Tỉnh quốc hồn ca, kêu gọi mọi
người duy tân theo hướng dân chủ tư sản như vừa lược kể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tháng 7 năm 1907, Phan Châu Trinh nhận lời mời ra Hà Nội tham gia diễn
giảng mỗi tháng 2 kỳ ở Đông Kinh nghĩa thục.


<b>2.3 Bị giam lần thứ nhất:</b>


Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra, và bị nhà
cầm quyền Pháp sai quân đi đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều
thành viên trong phong trào Duy Tân bị đối phương buộc tội là đã khởi
xướng nên đều bị bắt [4].


Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Tòa Khâm sứ Huế và Nam
triều đều muốn khép ông vào tội chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của những
người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội,
họ buộc lịng phải kết ơng án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất


nguyên”(nghĩa là chém nhưng giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng
không cho về), rồi đày đi Côn Lôn ngày 4 tháng 4 năm 1908.


Nhờ dư luận trong nước và nhờ có sự vận động của Hội Nhân quyền ngay
trên đất Pháp, đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của
Tồn quyền Đơng Dương ra Cơn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh.
Tháng 8 năm đó, ơng được đưa về đất liền. Tại Sài Gịn, một hội đồng xử lại
bản án cho ông được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc. Ở
đây, ông làm nhiều bài thơ về các nhân vật tên tuổi của Nam Bộ.


Bởi khơng hoạt động gì được, ơng viết thư cho Tồn quyền Đơng Dương địi
được sang Pháp hoặc trở lại Côn Lôn, nhất định không chịu cảnh bị giam
lỏng ở Mỹ Tho nữa. Vì vậy, nhân có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908
của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm
1911, chính quyền Đơng Dương cử một đồn giáo dục Đơng Dương sang
Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật (1897-1921).
<b>2.4 Sang Pháp, bị giam lần thứ hai:</b>


Sang Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền Pháp bản điều
trần về vụ trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ năm 1908
(thường gọi là Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nam nhưng khơng có kết quả, vì lúc này thế lực của thực dân hãy còn đang
mạnh. Trong khoản thời gian này, ông viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân
Việt Nam.


Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo – Hung tuyên chiến với Serbia, mở màn cho
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau đó, ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến
với Pháp. Nhân cơ hội này, nhà cầm quyền thủ đô Paris (Pháp) gọi Phan
Châu Trinh và Phan Văn Trường (là một luật sư, một nhà báo yêu nước


người Việt) đi lính, nhưng hai ông phản đối[8]. Mấy tháng sau, họ vu cho
hai ông là gián điệp của Đức để rồi bắt giam Phan Văn Tường bị giam ở lao
Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ngục Santé Prison de la Santé kể
từ tháng 9 năm 1914. Ông vào tù thì bị tước ngay trợ cấp, con ơng mất học
bổng, phải vừa học vừa làm. Cũng trong năm này, vợ ông [5] qua đời ở quê
nhà ngày 12 tháng 5 năm 1914.


Tháng 7 năm 1915, vì khơng đủ bằng chứng buộc tội, họ phải trả tự do cho
hai ông sau nhiều tháng giam giữ. Trong tù, ông soạn Santé thi tập (hơn 200
bài).


Ra tù, Phan Châu Trinh học nghề rửa ảnh rồi làm thuê cho các hiệu chụp ảnh
để kiếm sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, giá sinh hoạt đắt đỏ, cảnh ngộ
của hai cha con rất đỗi cơ cực. Chẳng lâu sau, Phan Châu Dật phải bỏ học về
nước vì bị lao ruột và qua đời tại Huế ngày 14 tháng 02 năm 1921. Sau đó,
thi hài ơng được đem về an táng cạnh mộ mẹ tại Tây Lộc (Tiên Phước,
Quảng Nam).


Ngày 19 tháng 6 năm 1919, Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn Trường,
Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản "Yêu sách của nhân dân
An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là "Nguyễn Ái Quốc",
và đã gây được tiếng vang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Thấy hoạt động ở Pháp khơng thu được kết quả gì, đã nhiều lần Phan Châu
Trinh xin nước, nhưng đến năm 1925, khi sức khỏe ông đã suy yếu, mới
được nhà cầm quyền chấp thuận. Khoảng thời gian này, ông viết cuốn Đông
Dương chính trị luận.


<b>2.5 Về nước rồi qua đời:</b>



Ngày 29 tháng 5 năm 1925, Phan Châu Trinh cùng nhà cách mạng trẻ


Nguyễn An Ninh (1900 - 1943) xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26 tháng
6 cùng năm thì về tới Sài Gịn. Sau đó, ông Ninh đưa Phan Chu Trinh về
thẳng khách sạn Chiêu Nam Lầu (tại nhà số 49, đường Nguyễn Huệ ngày
nay) của Nguyễn An Khương (cha ông Ninh và là một thành viên của phong
trào Duy Tân ở Nam Kỳ). Ở đây mấy ngày, thì Phan Châu Trinh được về
nhà riêng của ơng Khương ở Mỹ Hịa (nay thuộc [quận [Hốc Mơn]], Thành
phố Hồ Chí Minh) để tiện việc tiếp đón bạn bè đến thăm và trao đổi công
việc, đồng thời cũng để tiện cho Nguyễn An Cư (chú của ông Ninh, một
lương y nổi tiếng) chăm sóc sức khoẻ.


Tuy bị bệnh nhưng Phan Chu Trinh cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài là
Ðạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghiã và dân trị chủ nghĩa. Hai
bài này đã có tác động khơng nhỏ đến thế hệ trẻ tại Sài Gịn, trong đó có Tạ
Thu Thâu (1906-1945).


Đang lúc Phan Chu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin Nguyễn An
Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày
24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hơm đó, lúc 21 giờ 30, Phan Chu Trinh trút
hơi thở cuối cùng tại khách sạn Chiêu Nam Lầu, và được đem quàn tại nhà
số 54 đường Pellerin (nhà của Huỳnh Đình Điển, nay là đường Nguyễn Thị
Minh Khai - tức đường Pasteur trước 1975).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Khu mộ của ông hiện ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và được
xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, tên ông được dùng để đặt
tên cho nhiều đường phố và trường học trong khắp nước Việt Nam.


<b>III. Chủ trương cách mạng:</b>
Điểm lược một vài nét chính:



Sau khi cáo quan về quê, Phan Châu Trinh dốc lịng vào cơng việc cứu
nước. Mặc dù rất đau xót trước cảnh thực dân Pháp ngược đãi người Việt
Nam, quan điểm của Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ
khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (tức đánh đuổi Pháp), mà
nhiệm vụ cấp bách là phải:


Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ
cùng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.


Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi người giác ngộ được
quyền lợi của mình, giải thốt được nọc độc chun chế.


Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội bn,
sản xuất hàng nội hóa...


Cho nên sau khi ông vào Nam ra Bắc, sang Nhật, để trao đổi và tìm hiểu,
cuối cùng ơng nhất quyết làm cuộc cải cách duy tân cho quốc dân trong
nước. Ngồi ra, ơng gửi thư cho Tồn quyền Beau ngày 15 tháng 8 năm
1906, chỉ trích chính phủ Pháp khơng lo mở mang khai hóa cho dân mà chỉ
lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ơng đề nghị chính
phủ Đơng Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi
chính sách cai trị. Bức thư đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai
nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến
hiện trạng của đất nước.


Đối với đường lối hoạt động cứu nước của người bạn thân là Phan Bội Châu
(tháng 7 năm 1904, hai ơng gặp nhau và sau đó trở thành đơi bạn thân thiết),
Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc bạn và tổ chức của bạn (Duy Tân hội)
đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những


tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ
trương bạo động và tư tưởng bảo hoàng của người bạn này.


<b>IV. Tác phẩm Phan Châu Trinh:</b>
-Ðầu Pháp chính phủ thư (1906)


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

- Trưng Nữ Vương (tuồng, soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và Phan thúc
Duyên năm 1910)


-Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)


-Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp, 1915)
-Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)


-Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (hồm hơn 7.000 câu thơ lục bát, soạn 1912-1913)
-Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam (1907), phần II, làm khi
sang Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí
mạnh, đề cao dân quyền)


-Bức thư trả lời cho người học trị tên Ðơng (1925)
-Đơng Dương chính trị luận (1925)


Ngồi ra, ơng cịn có các bài diễn thuyết về Đạo đức và luân lý Đông Tây,
Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, một số thơ (không nằm trong Tây
Hồ thi tập) và câu đối chữ Hán ông làm từ 1902-1912...


*


Phan Châu Trinh qua đời, có rất nhiều liễn đối và thơ văn điếu ơng. Trong số
đó có bài điếu văn của Huỳnh Thúc Kháng, người bạn thân thiết của ông,


mang ý nghĩa lịch sử rõ nét nhất về quan điểm chính trị của Phan Chu Trinh.
Trích một đoạn:


<i>...Một đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời, nào bị tù đày, ở </i>
<i>nước này sang nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây phút </i>
<i>này không thể lược thuật lại cho được; chúng tơi xin tóm tắt lại mà nói sơ: </i>
<i>Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự </i>
<i>do, còn cái phương pháp tiến hành thì tiên sinh thường nói rằng:</i>


<i>-Tình hình trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu muốn cải cách </i>
<i>thì cần liên lạc đồn thể mới được. Tiếc cho người nước mình cịn đang mê </i>
<i>mộng, đồng chí với tiên sinh chẳng được mấy người . Vì vậy mà tấm lịng bị </i>
<i>phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống gì những điều mắt thấy </i>
<i>tai nghe dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!</i>
<i>-Thôi, đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày </i>
<i>nay hết cuộc. Chúng tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí tiên sinh, </i>
<i>làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Thì linh hồn tiên sinh sẽ được yên ổn </i>
<i>mà ngậm cười nơi suối vàng.</i>


<b>Trích một vài ý kiến (chỉ để tham khảo):</b>
-Nhà sử học Phạm Văn Sơn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thơng dân trí, loại bỏ quan trường mục nát và tôn trọng dân quyền"...Nhưng
nhờ vào ai để thi hành chủ trương trên đây? Ông nhờ Pháp (ỷ Pháp cầu tiến
bộ). Nhưng có bao giờ giai cấp bị trị lại nhờ được tầng lớp thống trị cải thiện
đời sống hay làm cách mạng cho mình?. Người Pháp từ vạn dặm đến đây, đổ
bao xương máu vì lợi ích riêng của họ. Sao ta lại có thể địi hỏi họ giúp ta
giàu mạnh, khôn ngoan? Họ cần dân ta ngu hèn, quan lại vong bổn mới có
thể khai thác dân ta đến tận xương tủy chứ?...Do đó, ta thấy chủ trương của
ông quả là không tưởng...Về sau này, nhờ sống 15 năm trên đất Pháp, ý thức


cách mạng của ông đã tiến bộ nhiều qua bài diễn thuyết về đề tài "Quân trị
và dân trị" vào đêm 19 tháng 11 năm 1925 tại Sài Gịn.


Dù có những nhận định khác nhau về lập trường chính trị Phan Châu Trinh,
nhưng khơng ai khơng cơng nhận ơng là một người có tư tưởng dân chủ sớm
hơn hết ở Việt Nam (sách đã dẫn, tr.433-435)..


-GS. Huỳnh Lý:


Phan Châu Trinh là một con người hoạt động, một chí sĩ yêu nước nồng
nhiệt, dũng cảm, bất khuất, có đầu óc tổ chức và đầy sáng kiến, có những
chủ trương dứt khốt và mạnh bạo, như chủ trương cần phải lật đổ bộ áy
phong kiến chứ khơng thể dựa vào nó, cần phải nâng trình độ nhân dân lên
về mọi mặt: dân quyền, dân sinh, dân chủ, và muốn thế phải làm một cuộc
vận động “tự lực khai hóa” rộng lớn...


Tuy nhiên, vào thời điểm lịch sử của ông, khi thế lực của chủ nghĩa thực dân
trên tồn cầu cịn rất mạnh, việc ơng u cầu hết chính phủ ở Đơng Dương
đến chính khách tư sản ở Pháp, thực hiện cải cách chính trị trước sau đều
vấp phải trở lực…nên cuối cùng dẫn ông đến thất bại.


Về sáng tác thơ văn, Phan Châu Trinh đã góp phần vào việc thức tỉnh nhân
tâm, làm dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi trong ba thập niên đầu thế kỷ
20 (sách đã dẫn, tr. 1383).


.


-Nhóm tác giả sách Đại cương cương lịch sử Việt Nam:


Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế


kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem
ơng là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước
tiến bộ đầu thế kỷ 20.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khổ và
thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ (sách đã dẫn, tr. 152).
<b>Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.</b>


<b>Chú thích:</b>


[1] Từ điển văn học (bộ mới) ghi chú: Ngày sinh này có thể khơng chính
xác, vì dựa theo một giấy khai sinh của ông làm lúc sang Pháp.


[2] Trong thời gian làm thừa biện ở Bộ Lễ (Huế), Phan Châu Trinh đã giao
du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên
Phổ..., được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, các Tân thư
giới thiệu tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu; tư tưởng
dân quyền của Rousseau, của Montesquieu; phong trào Duy tân ở Nhật Bản
và cách mạng ở Pháp, Mỹ...


[3] Bài thơ của Phan Châu Trinh có nhan đề là Chí thành thơng thánh (Lịng
chí thành thơng đến bậc thánh). Bài phú của hai bạn có tên là Lương ngọc
danh sơn, lấy vần "cầu lương ngọc tất danh sơn" (tìm ngọc q ở nơi núi đẹp
có tiếng). Cả hai tác phẩm này, sau đó đã gây tiếng vang không nhỏ.


[4] Thực tế, dưới sự ảnh hưởng trực tiếp của phong trào Duy Tân (nhất là tư
tưởng dân quyền và thực trạng của đất nước) mà những cuộc đời bần cùng
đã làm cuộc chống sưu thuế ở Trung Kỳ (1908), chứ không phải do Phan
Châu Trinh và các thành viên đứng đầu phong trào trực tiếp phát động. Tuy
nhiên, trong quá trình đấu tranh của nhân dân, có một số thành viên của


phong trào đã hăng hái tham gia, như Nguyễn Bá Loan, Lê Khiết,...


[5] Vợ Phan Châu Trinh là Lê Thị Tỵ (1877-1914), là người làng An Sơn,
Tiên Phước. Năm 1896, ông cưới bà làm vợ lúc 25 tuổi, lúc ấy bà 19 tuổi.
<b>Tham khảo:</b>


-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập trung). Tác giả tự xuất bản,
1963.


-Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà
xuất bản Thế giới, 2004.


-Đinh Xuân Lâm (chủ biên) - Nguyễn Văn Khánh - Nguyễn Đình Lễ, Đại
cương cương lịch sử Việt Nam (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.


-Nguyễn Q. Thắng - Ngyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.


-Huỳnh Lý (chủ biên), Thơ văn Phan Châu Trinh. Nhà xuất bản Văn học,
1983.


<b>Ảnh:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×