Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Kiến thức lớp 10 Bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.5 KB, 14 trang )

Kiến thức lớp 10

Bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ
Lão –phần 6
Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão

Tài liệu khác về bài Thuật hoài ( Phạm Ngũ Lão )

1.Văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ X đến thế kỷ XIV phát triển
trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: Dân tộc ta dành được quyền
độc lập tự chủ vào cuối thế kỷ X, lập nhiều kỳ tích trong các cuộc
kháng chiến chống xâm lược (chống quân Tống thế kỷ XI, chống
quân Nguyên – Mông thế kỷ XIII). Sau những cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc là công cuộc xây dựng đất nước trong hồ bình.
Chế độ phong kiến Việt Nam đang ở thời kỳ phát triển. Những


người cầm bút là vua quan, tăng lữ và nhà Nho. Sáng tác của họ
ít nhiều đều chịu ảnh hưởng tư tưởng của Nho, Phật, Đạo giáo
và đều in dấu ấn tâm lý của tầng lớp trên nhưng nói chung vẫn
tiếp thu được truyền thống tinh thần của dân tộc, gắn bó với đất
nước, vẫn thể hiện tâm hồn, khí phách cao đẹp Việt Nam.

2. Ra đời ở thời Trần và Hồ, văn học Việt Nam phản ánh rõ nét
“hào khí Đơng A”.Thuật hồi (Tỏ lịng) của Phạm Ngũ Lão là một
bài thơ như thế. Phạm Ngũ Lão (1252 - 1320) – người làng Phù
Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên, là con rể của Trần Hưng
Đạo, được giữ đội qn hữu vệ. Ơng có nhiều cơng lớn trong
cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, từng được gọi là người
văn võ tồn tài. Dựa vào văn bản thơ, có thể nhận ra bài thơ
được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong khơng khí quyết chiến, quyết


thắng của đời Trần khi giặc Ngun – Mơng xâm lược.

Thuật hồi


Phiên âm:

Hồnh sóc giang san kháp kỉ thu
Tam qn tì hổ khí thơn ngưu
Nan nhi vị liễu cơng danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Dịch nghĩa:

Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sơng đã mấy thu,
Ba qn như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trơi trâu.
Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ cơng danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.

Dịch thơ:

Bản dịch 1:


Múa giáo non sơng trải mấy thu,
Ba qn khí mạnh nuốt trơi trâu.
Cơng danh nam tử cịn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bùi Văn Nguyên dịch


Bản dịch 2:

Múa giáo non sơng trải mấy thâu,
Ba qn hùng khí át sao Ngưu.
Cơng danh nam tử cịn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Trần Trọng Kimdịch

3. Nổi lên trong bài thơ là chân dung con người Việt Nam thế kỷ
XIII. Đó vừa là con người vũ trụ, con người cộng đồng vừa là con
người hữu tâm. Nói cách khác Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là
bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ nét quan niệm về con người trong


văn học Phương Đơng. Và có lẽ bài thơ hấp dẫn chúng ta là ở
chỗ đó.

4. Thuật hồi là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chia thành hai phần
khá rõ: ở hai câu đầu là hình tượng con người và hình tượng
quân đội thời Trần, hai câu sau là “nỗi lịng” của tác gia.

5. Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng,
sảng khối:

Hồng sóc giang san kháp kỉ thu
Tam qn tì hổ khí thơn ngưu

Hai câu thơ có hai hình ảnh: hình ảnh tráng sĩ (con người thời
Trần) và hình ảnh ba quân (quân đội thời Trần, thời đại, dân tộc).
Tráng sĩ hiện lên trong hành động cắp ngang ngọn giáo với mục

đích giữ gìn non sơng đã mấy thu rồi. Các bản dịch thơ dịch
“hồnh sóc” bằng “múa giáo”. Theo tơi, cách dịch như vậy là hay


nhưng chưa có sức âm vang. “Múa giáo” thể hiện sự điêu luyện,
bền bỉ, dẻo dai nhưng thiếu đi độ cứng rắn, mạnh mẽ. “Cầm
ngang ngọn giáo” khắc hoạ được tư thế hiên ngang, lẫm liệt,
vững chãi của người trai thời Trần. Câu thơ nguyên tác dựng lên
hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước. Đó
chính là dáng đứng của con người Việt Nam đời Trần.

Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư
thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ thì câu thơ thứ hai tơ đậm hình ảnh
“ba qn” tượng trưng cho sức mạnh dân tộc.
Tam quân tì hổ khí khơn ngưu

“Tam qn” là chỉ qn đội, dân tộc; “Ngưu” có nghĩa: là sao
Ngưu, là trâu. Hình ảnh ba qn trong tư thế xơng lên giết giặc
với khí thế bừng bừng. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể
hoá sức mạnh vật chất vừa hướng tới sự khái qt hố sức
mạnh tinh thần của “hào khí Đơng A”. Câu thơ gây ấn tượng
mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ


quan, giữa hiện thực và lãng mạn. Tác giả Trần Trọng Kim dịch là
“Ba quân hùng khí át sao Ngưu”, cịn Bùi Văn Ngun dịch là “Ba
qn khí mạnh nuốt trơi trâu”. Tơi thích cách dịch của Trần Trọng
Kim, bởi lẽ dịch “Ba qn khí mạnh nuốt trơi trâu” nói được sức
mạnh, khí thế dũng mãnh “Sát Thát” của quân đội, sẵn sàng lăn
xả vào bọn giặc dữ một khi chúng tràn tới... nhưng chưa nói

được tầm vóc. Hơn nữa dịch “át sao Ngưu”... câu thơ có lẽ giàu
hình ảnh, gợi cảm hơn, kết hợp với câu thơ thứ nhất mở ra cả
một khơng gian rộng lớn, vì thế ý thơ cũng giàu sức khái quát
hơn. Hai câu thơ nhỏ mà mang hai hình ảnh lớn: Hình ảnh một
tráng sĩ cắp ngang ngọn giáo đi cứu nước ròng rã bao năm mà
chưa hề mảy may mệt mỏi. Hình ảnh “ba qn” xơng lên giết giặc
bừng bừng hùng khí át cả sao Ngưu, nghĩa là át cả trời cao. Bút
pháp miêu tả, so sánh, phóng đại, phép đối hài hồ, giọng thơ
hào hùng, sơi nổi tạo ra cách nói hấp dẫn và ấn tượng. Hình ảnh
tráng sĩ cịn có tính chất cụ thể ít nhiều, hình ảnh ba qn thì rõ
ràng chỉ từ ấn tượng, từ cảm hứng chủ quan, dĩ nhiên là rất mãnh
liệt và sảng khoái. “Ở đây chủ quan mà lại chân thực, chân thực


của ấn tượng chứ không phải chân thực của thị giác. Chân thực
ở cái hồn của sự việc chứ không phải ở sự việc cụ thể. Xét cho
cùng, chính đó là cái chân thực của thời đại, của đất nước”
(Nguyễn Đình Chú).

Nếu cái tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo
bằng chiều ngang của non sơng thì tư thế của ba qn lớn mạnh
đo bằng chiều dọc. Nghĩa là không gian mở ra theo chiều rộng
của núi sông và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm.
Con người kì vĩ như át cả không gian bao la trong một bối cảnh
không – thời gian kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh
dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hồnh tráng. Đó chính là sức
mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần. Đó
chính là sản phẩm của “hào khí Đơng A”. Nói cách khác, đó là
hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người
mang tầm vóc của vũ trụ này vì ai mà xơng pha, quyết chiến...?

Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình
đất nước... Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách


nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó
chính là những biểu hiện củacon người cộng đồng, con người xả
thân vì đất nước. Điều đặc biệt ở đây là, khác với văn học Trung
Quốc hay Ấn Độ, con người vũ tru, con người cộng đồng trong
văn học Việt Nam nói chung và Thuật hồi nói riêng gắn với lịng
tự hào, tự tơn dân tộc, gắn với thời đại và đất nước.

6. Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sơi nổi hùng tráng thì đến đây
âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại. Điều đó rất
phù hợp với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lịng của nhà thơ.
Nói cách khác âm hưởng thơ góp phần thể hiện nỗi lịng của
Phạm Ngũ Lão.

Nam nhi vị liễu cơng danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Cơng danh nam tử cịn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).


Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế,
khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà cịn thể hiện ở cái chí, cái tâm
của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí
làm trai. Theo Phạm Ngũ Lão chí làm trai phải gắn liền với hai
chữ cơng danh, Chí làm trai này mang tinh thần, tư tưởng tích
cực, gắn với ý thức trách nhiệm, lập công (để lại sự nghiệp), lập
danh (để lại tiếng thơm cho đời). Chí làm trai đó được coi là món

nợ đời phải trả. Trả xong nợ cơng danh có nghĩa là hồn thành
nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở
thành lý tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến. Sau này
Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:

Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sơng

Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ
con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu
hi sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.


Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà
cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm.
Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm
trạng một nỗi thẹn. Nói cách khác cái tâm thể hiện qua nỗi thẹn...
Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia
Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha
ơng mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của
Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi
tiếng là lịng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai
nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với
chủ tướng Trần Hưng Đạo, “thẹn” cịn được hiểu là cách nói thể
hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những
người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn.
Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn khi
nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Đó là nỗi thẹn
của người có nhân cách. Trong bài Thuật hồi,Phạm Ngũ Lão
thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân

cách. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà


trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con
người có lý tưởng, hồi bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi
thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho
cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề
cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần. Đó chính là con
người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam.

7.Kết luận:

Bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được quan
niệm về con người trong văn học phương Đơng. Hình ảnh tráng
sĩ – con người Việt Nam đời Trần vừa mang tầm vóc vũ trụ, vừa
có ý thức, trách nhiệm cộng đồng, vừa lắng sâu một nỗi lịng cao
cả. Nói cách khác 3 kiểu con người: con người vũ trụ, con người
cộng đồng và con người hữu tâm đồng hiện, hài hồ. Chính ý
thức trách nhiệm với đất nước (con người cộng đồng) nên sẵn
sàng xông pha cứu nước với tư thế và tầm vóc lớn lao (con
người vũ trụ) và ln biết nghĩ suy, khát vọng (con người hữu


tâm)... Dáng đứng Việt Nam, con người Việt Nam đời Trần cao
đẹp làm sao!

“Bài thơ nêu cao lý tưởng trai thời loạn. Lý tưởng trai thời loạn là
“cắp ngang ngọn giáo”, luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu dẹp
giặc cứu nước. “Nợ công danh” lúc này là trách nhiệm của người
thanh niên đối với đất nước khi có giặc ngoại xâm... Người thanh

niên thời đại ấy đã ý thức được trách nhiệm cao cả của mình đối
với Tổ quốc. Từ bài thơ cịn nổi lên hình ảnh qn đội cứu nước,
ngùn ngụt khí thế của hổ báo nuốt trâu. (Nguyễn Sĩ Cẩn)

“Cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Ngọn giáo ấy phải
đo bằng chiều ngang của non sơng. Thế thì con người cầm
ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc ấy tất phải được đo bằng kích
thước của trời đất. Con người có tầm vóc vũ trụ như vậy đã đồng
nhất với non sơng . Tầm vóc hồnh tráng, tư thế vững chắc ấy
của dân tộc ta có cơ sở từ tinh thần làm chủ đất nước sâu sắc, từ
ý chí bảo vệ đất nước rất kiên cường. Với tinh thần ấy, nhân dân


ta đã làm nên những chiến công oanh liệt ở Chương Dương,
Hàm Tử, Chi Lăng, v.v... và nhất là Bạch Đằng” (Đinh Gia Khánh)



×