Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.54 KB, 36 trang )

VĂN MẪU LỚP 11
11 BÀI VĂN MẪU PHÂN TÍCH BÀI THƠ LƯU BIỆT KHI XUẤT
DƯƠNG CỦA PHAN BỘI CHÂU
BÀI MẪU SỐ 1:
Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, người
làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra và lớn
lên trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của phong trào cần
Vương chống Pháp. Chế độ phong kiến suy tàn kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống
tư tưởng phong kiến già cỗi, lỗi thời. Tình hình đó đặt ra cho các chí sĩ u nước một câu
hỏi lớn: Phải cứu nước bằng con đường nào? Trong khơng khí u ám bao trùm khắp đất
nước thời đó, những tia sáng hi vọng hé rạng qua nguồn sách Tân thư truyền bá tư tưởng
cách mạng dân chủ tư sản của phương Tây với nội dung khác hẳn với các sách thánh hiền
thuở trước. Người ta có thể tìm thấy ở đó những gợi ý hấp dẫn về một con đường cứu
nước mới, những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai. Vì thế, các nhà Nho tiên tiến của
thời đại như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã tiên phong dấn bước, bất chấp nguy
hiểm, gian lao.
Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên mở ra con đường cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Mặc dù sự
nghiệp không thành, nhưng ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lịng u nước thiết
tha và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất.
Sinh thời, Phan Bội Châu khơng coi văn chương là mục đích của cuộc đời mình
nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng, ông đã chủ động nắm lấy thứ vũ khí tinh
thần sắc bén ấy để tuyên truyền, cổ động, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào ta.
Năng khiếu văn chương, bầu nhiệt huyết sôi sục cùng sự từng trải trong bước đường cách
mạng là cơ sở để Phan Bội Châu trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn với những tác phẩm
xuất sắc như: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư
(1914), Trùng Quang tâm sử (1913 -1917), Phan Bội Châu niên biểu (1929)…
Năm 1904, ơng cùng các đồng, chí của mình lập ra Duy Tân hội. Năm 1905, hội
chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị
lực lượng nòng cốt cho cách mạng và tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài.
Trước lúc lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ giã bạn bè,


đồng chí:
Phiên âm chữ Hán:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,


Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch thơ:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này mn thuở, há khơng ai?
Non sơng đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu, học cũng hồi!
Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, Lưu biệt khi xuất dương đã
khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, với tư
tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi
tìm đường cứu nước
Bài thơ mở đầu bằng việc khẳng định chí làm trai:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Câu thơ chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì. Hai từ hi kì có nghĩa là hiếm, lạ, khác
thường cần được hiểu như những từ nói về tính chất lớn lao, trọng đại, kì vĩ của cơng việc

mà kẻ làm trai phải gánh vác. Đây cũng là lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thời phong
kiến. Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã đề cập đến chí làm trai trong thơ ca. Phạm
Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn: Cơng danh nam tử cịn vương nợ, Luống thẹn tai nghe
chuyện Vũ Hầu (Tỏ lòng). Trong bài Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ khẳng định: Đã
mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sơng… và nhấn mạnh: Chí làm trai
nam, bắc, tây, đơng, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí khí anh hùng).


Chí làm trai của Phan Bội Châu thuyết phục thế hệ trẻ thời bấy giờ ở sự táo bạo,
quyết liệt và cảm hứng lãng mạn nhiệt thành bay bổng. Với ông, làm trai là phải làm
được những điều lạ, tức những việc hiển hách phi thường. Câu thơ thứ nhất khẳng định
điều đó. Câu thơ thứ hai mang ngữ điệu cảm thán bổ sung cho ý của câu thứ nhất: Kẻ làm
trai phải can dự vào việc xoay chuyển càn khôn, biến đổi thời thế chứ không phải chỉ
giương mắt ngồi nhìn thời cuộc đổi thay, an phận thủ thường, chấp nhận mình là kẻ đứng
ngồi. Thực ra, đây là sự tiếp nối khát vọng của nhân vật trữ tình trong bài Chơi xn:
Giang sơn cịn tơ vẽ mặt nam nhi, Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. Chân dung nhân
vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương hiện lên khá rõ qua hai câu đề. Đó là một
con người mang tầm vóc vũ trụ, tự ý thức rằng mình phải có trách nhiệm gánh vác những
trọng trách lớn lao. Con người ấy dám đối mặt với cả càn khơn, vũ trụ để tự khẳng định
mình. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên trên cái mộng công danh xưa nay
thường gắn liền với tam cương, ngũ thường của Nho giáo để vươn tới lí tưởng xã hội
rộng lớn và cao cả hơn nhiều.
Cảm hứng và ý tưởng đó phần nào xuất phát từ lí tưởng trí quân, trạch dân của
các nhà Nho thuở trước nhưng tiến bộ hơn vì mang tính chất cách mạng. Theo quy luật,
con tạo xoay vần vốn là lẽ thường tình, nhưng Phan Bội Châu ơm ấp khát vọng chủ động
xoay chuyển càn khơn, chứ khơng để cho nó tự chuyển vần. Cũng có nghĩa là ơng khơng
chịu khuất phục trước số phận, trước hồn cảnh. Lí tưởng tiến bộ ấy đã tạo cho nhân vật
trữ tình trong bài thơ một tầm vóc lớn lao, một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ thách thức
với càn khôn.
Hai câu thực thể hiện ý thức về trách nhiệm cá nhân của nhà thơ, cũng là nhà cách

mạng tiên phong trước cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này mn thuở, há không ai ?
Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời
mà còn hàm chứa một tâm niệm: Sự hiện diện của ta không phải là một sự kiện ngẫu
nhiên, vơ ích; vì vậy, ta phải làm một việc gì đó lớn lao, hữu ích cho đời. Câu thứ tư có
nghĩa là ngàn năm sau, lẽ nào, chẳng có người nối tiếp công việc của người đi trước. “Cái
tôi công dân” của tác giả đã được đặt ra giữa giới hạn trăm năm của đời người và ngàn
năm của lịch sử. Sự khẳng định cần có tớ khơng phải với mục đích hưởng lạc mà là để
cống hiến cho đáng mặt nam nhi và lưu danh hậu thế. Câu hỏi tu từ cũng là một cách
khẳng định mãnh liệt hơn khát khao cống hiến và nhận thức đúng đắn của tác giả: Lịch sử
là một dòng chảy liên tục, cần có sự góp mặt và gánh vác của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
Trong bốn câu thơ đầu, những hình ảnh kì vĩ của thiên nhiên như càn khơn, trăm năm,


muôn thuở đã thể hiện cảm hứng lãng mạn bay bổng, chính là cội nguồn sức mạnh niềm
tin của nhân vật trữ tình.
Ở những năm đầu thế kỉ XX, sau thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống
thực dân Pháp, một nỗi bi quan, thất vọng đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam
yêu nước. Tâm lí an phận thủ thường lan rộng. Trước tình hình đó, bài thơ Lưu biệt khi
xuất dương có ý nghĩa như một hồi chng thức tỉnh lịng u nước, động viên mọi người
đứng lên chống giặc ngoại xâm.
Trong hai câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào hồn cảnh thực tế của lịch
sử đương thời:
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu học cũng hồi.
Lẽ nhục – vinh mà tác giả đặt ra gắn liền với sự tồn vong của đất nước và dân tộc:
Non sông đã chết, sống thêm nhục. Ý nghĩa của nó đồng nhất với quan điểm : Chết vinh
còn hơn sống nhục trong thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX.
Câu thơ thứ 5 bày tỏ một thái độ dứt khốt, được thể hiện bằng ngơn ngữ đậm

khẩu khí anh hùng, bằng sự đối lập giữa sống và chết. Đó là khí tiết cương cường, bất
khuất của những con người không cam chịu cuộc đời nô lệ tủi nhục. Ý thơ mới mẻ mang
tính chất cách mạng. Ở câu thứ 6, Phan Bội Châu đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến trước một
thực tế chua xót là ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo đối với tình cảnh nước nhà lúc
bấy giờ. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho
nên nếu cứ khư khư theo đuổi thì chỉ hồi cơng vơ ích mà thơi. Tất nhiên, Phan Bội Châu
chưa hồn tồn phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng đưa ra một nhận định như thế
thì quả là táo bạo đối với một người từng là đệ tử của chốn cửa Khổng sân Trình. Dũng
khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết bắt nguồn từ lịng u nước thiết tha và khát vọng
cháy bỏng muốn tìm ra con đường đi mới để đưa nước nhà thốt khỏi cảnh nơ lệ lầm
than. Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy
tân, tức là học hỏi những tư tưởng cách mạng mới mẻ và tiến bộ. Bài thơ không đơn
thuần là chỉ để bày tỏ ý chí mà thực sự là một cuộc lên đường của nhân vật trữ tình:
Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Các hình ảnh kì vĩ trong hai câu kết mang tầm vũ trụ: bể Đơng, cánh gió, mn
trùng sóng bạc. Tất cả như hòa nhập làm một với con người trong tư thế bay lên.
Trong nguyên tác, hai câu 7 và 8 liên kết với nhau để hoàn chỉnh một tứ thơ đẹp:
Con người đuổi theo ngọn gió lớn qua biển Đơng, cả vũ trụ bao la Mn lớp sóng bạc
cùng bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi). Tất cả tạo thành một bức tranh hoành
tráng mà con người là trung tâm được chắp cánh bởi khát vọng lớn lao, bay bổng lên trên


thực tại tối tăm khắc nghiệt, lồng lộng giữa trời biển mênh mơng. Bên dưới đơi cánh đại
bàng đó là mn trùng sóng bạc dâng cao, bọt tung trắng xóa, dường như muốn tiếp sức
cho con người bay thẳng tới chân trời mơ ước. Hình ảnh đậm chất sử thi này đã thắp sáng
niềm tin và hi vọng cho một thế hệ mới trong thời đại mới.
Thực tế thì cuộc ra đi của Phan Bội Châu là một cuộc ra đi bí mật, tiễn đưa chỉ có
vài ba đồng chí thân thiết nhất. Dù phía trước chì mới le lói vài tia sáng của ước mơ,
nhưng người ra đi tìm đường cứu nước vẫn hăm hở và đầy tin tưởng.

Sức thuyết phục, lơi cuốn của bài thơ chính là ở ngọn lửa nhiệt tình đang bừng
cháy trong lịng nhân vật trữ tình. Bài thơ đã thể hiện hình tượng người anh hùng trong
buổi lên đường xuất dương lưu biệt với tư thế kì vĩ, sống ngang tầm vũ trụ. Người anh
hùng ấy ý thức rất rõ ràng về “cái tôi công dân” và luôn khắc khoải, day dứt trước sự tồn
vong của quốc gia, dân tộc.
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được viết theo bút pháp ước lệ và cường điệu, rất
phù hợp với mục đích cổ vũ, động viên. Giọng thơ vừa sâu lắng, da diết, vừa sôi sục, hào
hùng, mang âm hưởng tráng ca. Nỗi đau đớn, niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng
tư tưởng cách mạng đã thổi hồn vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh trong bài thơ. Âm
hưởng hào hùng của bài thơ có sức lay động, thức tỉnh rất lớn đối với mọi người. Đây là
bài thơ từ biệt mà cũng là lời kêu gọi, thúc giục lên đường. Tầm vóc bài thơ hồn tồn
tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng mộ và tin tưởng.
Trong tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925) tác giả Nguyễn Ái
Quốc đã suy tôn Phan Bội Châu là: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập
được hai mươi triệu đồng bào trong vịng nơ lệ tơn sùng.


BÀI MẪU SỐ 2:
Xuất dương lưu biệt là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào
của nhà chí sĩ giàu lịng u nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là hai câu kết. Bài thơ thế hiện một
cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội
Châu.
Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng
trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Cháu là linh hồn của
các phong trào vận động giải phóng Tổ qc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông
gắn liền với các tổ chức yêu Iiước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam
Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn
sách, một số bài vàn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. ‘‘Phan Bội Châu câu

thơ dậy sóng (Tố Hừu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguvên khoa thi Hương trường Nghệ Năm
1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong
trào Đông du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, để cầu ngoại viện với bao
hồi bão tung hồnh, ơng để lại đồng chí bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. Có thể nói bài
thơ này như một mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan
Bội Châu.
“Xt dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường
luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí
sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Hai câu để là một tun ngơn về chí hướng, về lẽ sơng cao cả:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khơn tự chuyển di”
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên
“điều lạ” (yêu hi ki). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thế sống một
cách thụ động cho trời đất (càn khôn) “tự chuyển đời” một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ
thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở mức độ, tài năng của mình
muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyến trời đất, như ơng đã nói rõ trong một bài thơ
khác:
“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.


Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới
cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên
“điều lạ” ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cồ:
“Mỗi phận bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”
(“Tùy viên thi thoại" - Viên Mai)
(Bữa bữa nhừng mong ghi sử sách,

Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).
Đấng nam nhi muốn là nên “điều lạ” ở trên đời ấy có một “bầu máu nóng" sơi sục:
“Tơi được trời phú cho bầu máu nóng cũng khơng đến nỗi ít, lúc cịn bé đọc sách của cha
tơi, mỗi khi đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành dạo nhân, nước mắt lại đầm
đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy...” (Ngục trung thư).
1. Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò cùa minh
trong xã hội và trong lịch sử:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
“Ngã” là ta: “tu hữu ngã” nghĩa là phải có ta trong cuộc dời “một trăm năm ”
(bách niên trung). Câu thơ khẳng định, biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh
nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” nghìn năm sau, là lịch sử của đát nước và dân tộc há
lại không cố ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định đế làm nổi bật
điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng
gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ỷ tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những
tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:
"... Dâu cho trăm thân, này phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta
củng cam lòng”.
("Hịch tướng sĩ' - Trấn Quốc Tuấn).
"... Nhân sinh tự cổ thày vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
(Văn Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người đối với cái vô hạn “thiên tải" cùa
lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một
quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải
phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
“Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,


Bao nhiêu nguy hiềm sợ gi đâu!”

(“Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đơng")
2. Phần luận, tác giả nói về sống và chết, nói về cơng danh.
Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối
dưới ách thống trị cùa thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại xâm chiếm, giày
xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sơng cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong
hồn cảnh ấy có nâu sử xơi kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa.
Sách vở của “thánh hiền” liệu cịn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đáu học cũng hồi”.
Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ơng nói bằng tất
cả nhiệt huyết và chân thành, ơng nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lốì học cử tử,
khơng thể đắm chìm trong vịng hư danh, mà phải hăm hở di tìm lí tưởng cao cả. Trong
bài “Bài ca chúc tết thanh niên” viết vào dịp Tết nám 1927, Cụ thiết tha kêu gọi thanh
niên:
“Ai hữu chỉ từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chai, đừng ham mặc, đừng ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...”
Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên “điều lạ' ở trên đời,
mới tự khẳng định được: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ”.
3. Phần kêt là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm màu sắc lãng mạn:
“Nguyện trục đường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhát tề phi”.
Thơ vân Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cố vũ lòng yêu nước, khêu gợi
lòng căm thù giặc. Thơ vãn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm
đượm cảm xúc, sơi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước
và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: "Trường phong” (ngọn gió dài),
“thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc), lã hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người
chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ “nguyện trục” (mong đuổi theo) và “nhất

tề phi” (cùng bay lên). Cái khơng gian mênh mơng mà nhà chí sĩ mong vượt qua là
“Đông hải”. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông hải khứ) làm cho ám điệu thắt lại, nỏn
lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm
hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thề hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của


Phan Bội Châu, ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đâu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự
hịa hợp, gắn bó và thơng nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế
biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đả nói ở hai câu kết.
“Xuất dương lưu biệt” là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự
hào của nhà chí sĩ giàu lịng u nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là hai câu kết. Bài thơ thế hiện
một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan
Bội Châu.


BÀI MẪU SỐ 3:
Phan Bội Châu (1867 -1940) là nhà yêu nước và cách mạng của dân tộc Việt Nam
-người từng được đánh giá là "bậc anh hùng, vị thiên sứ được hai mươi triệu đồng bào
trong vịng nơ lệ tơn sùng" (Nguyễn Ái Quốc -Những trị lố hay là Va-ren và Phan Bội
Châu). Ông là đại diện đầu tiên tiêu biểu nhất cho đội ngũ các nhà cách mạng biết dùng
thơ văn như một thứ vũ khí chiến đấu hiệu quả nhất. Cuộc đời của Phan Bội Châu là một
minh chứng cho lí tưởng "chí nam nhi" của các bậc quân tử phương Đông. Phan Bội
Châu là người khơi dịng chảy cho loại văn chương trữ tình -chính trị. Thơ ông thể hiện
một bầu nhiệt huyết luôn sục sôi của một người mà lí tưởng duy nhất là giành lại độc lập
tự do cho dân tộc. Suốt những năm trai trẻ đến những ngày làm "ông già Bến Ngự", Phan
Bội Châu ln nung nấu trong lịng khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng một đất
nước dân chủ tiến bộ.
"Lưu biệt khi xuất dương" thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của lớp nhà nho
tiên tiến đầu thế kỉ XX : ý tưởng mạnh mẽ, táo bạo, nhiệt huyết và khát vọng giải phóng

dân tộc ln sơi trào. Bằng một giọng thơ sơi nổi, đầy hào khí, tác giả đã thể hiện được
tinh thần chung của thời đại, đã thổi vào khơng khí cách mạng đầu thế kỉ XX một luồng
sinh khí mới. Điều này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt
Nam ở thời điểm cam go nhất.
Lưu biệt khi xuất dương được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngơn bát cú Đường
luật. Hình thức cổ điển nhưng tứ thơ, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm
tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời
là một bài học về đạo làm người.
Bài thơ là sự nối tiếp xuất sắc cảm hứng về chí làm trai của văn học truyền thống
từ thời Phạm Ngũ Lão đến Nguyễn Công Trứ :
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khơn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.)
Hai câu thơ đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ
bước đi của lịch sử, phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Mở rộng ra nghĩa
là con người phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh
niên nói chung, chứ thực ra, Phan Bội Châu khơng phải là người có tư tưởng bảo thủ
"trọng nam khinh nữ". Trong Trùng Quang tâm sử, ông đã thể hiện tư tưởng tiến bộ của
mình qua việc xây dựng một số hình tượng người phụ nữ anh hùng, có chí khí như cơ Chí
(Tỏ mặt anh thư). Mở đầu bằng việc khẳng định lí tưởng truyền thống, tác giả đã tạo nên
tâm thế để tiếp tục khẳng định :


Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vơ thuỳ.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?)
Một lời khẳng định dứt khốt, đầy khí phách về sức mạnh của con người trước càn
khôn. ý thức về cái Tôi đã được tác giả tận dụng triệt để bằng cách tạo nên thế đứng đặc

biệt : sự ngang hàng giữa "tớ" và “khoảng trăm năm". Đây không phải là sự đề cao cái
Tôi một cách bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới sau này mà là sự khẳng
định trách nhiệm của mỗi người, nhất là thanh niên, đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ
cũng là lời giục giã, đánh thức tinh thần đấu tranh của con người. Là lãnh tụ cách mạng
đầy tâm huyết, Phan Bội Châu là người ln có ý thức kêu gọi mọi người cùng góp sức
tranh đấu. Để đánh thức tầng lớp thanh niên những năm đầu thế kỉ XX đang bị ru ngủ bởi
những trò tiêu khiển được du nhập từ phương Tây, ông đã viết Bài ca chúc tết thanh niên
(1927). Chính từ ảnh hưởng của bài thơ này mà đã có rất nhiều thanh niên ra đi tìm
đường cứu nước.
Sau khi khẳng định chí nam nhi, nhà thơ lại nói đến trách nhiệm đối với dân tộc
của mỗi người. Tấm lòng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho, một con người chân
chính đã thể hiện ở đây :
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si !
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu, học cũng hồi !)
Hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu quen thuộc của thơ cổ
điển, nó vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người chiến sĩ. Vào thời buổi đó
của đất nước, ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Lúc này, khi dân tộc đã mất
tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất khơng phải ngồi đó
để học thứ văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học
đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì
nhà tan, thân nơ lệ làm sao mà thực hiện được đạo thánh hiền. Câu thơ cịn thể hiện nỗi
xót xa của nhà thơ. Đất nước tao loạn, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy
đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng. Trên
thực tế, khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta, văn hoá phương Tây vốn rất xa lạ
với người phương Đông đã ồ ạt tràn vào Việt Nam, mang theo nhiều điều mới mẻ nhưng
cũng khơng ít rác rưởi. Nó đã gây nên sự xáo trộn ghê gớm trong nền đạo đức, luân lí xã



hội. Và trở thành nỗi đau đời của các nhà nho vốn coi trọng "tam cương ngũ thường".
Non sông bị chà đạp, dân tộc mất tự do, nền luân lí, đạo đức xã hội bị đảo lộn đã khiến
những người có trách nhiệm với dân tộc như Phan Bội Châu đau lòng. Những từ như tử
(chết), nhuế (nhơ nhuốc), si (ngu) đã thể hiện thái độ khinh thường của tác giả đối với
những kẻ tự ru ngủ mình bằng cách ngồi đọc sách thánh hiền trong lúc dân tộc đang lầm
than, đồng thời khẳng định khí tiết hiên ngang, bất khuất của một nhân cách cao đẹp.
Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hồn thiện hành động kiệt
xuất của một cuộc đời kiệt xuất:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh. Câu thơ cuối
cùng khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Hướng về phía đơng (cụ
thể là nước Nhật), người ra đi với một quyết tâm rất cao. Bản dịch chưa dịch hết được
tinh thần của nguyên tác ở ba chữ nhất tề phi. Cái mạnh mẽ và hùng dũng, đầy nhiệt
huyết và cũng tràn đầy hi vọng thể hiện ở câu thơ cuối cùng này. Hình ảnh kết thúc bài
thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời
đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.
mọi thời đại. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho
tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lịng
tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng. tầng lớp hùng hậu và mạnh mẽ nhất Vẫn
tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan Bội Châu đã mang
đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện đại hơn. Bài thơ khơng chỉ có ý
nghĩa động viên khích lệ thế hệ thanh niên lúc đó mà còn thể hiện một lẽ sống đẹp, là bài
học làm người cho thanh niên
Lời tạm biệt đầy nhiệt huyết, tâm thế ra đi đầy hào hứng và hiên ngang, bài thơ là
khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Và
là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình. Đó là những giá trị bất hủ
của Xuất dương lưu biệt.

Bài thơ là lời mời gọi lên đường, gửi gắm một khát vọng hoài bão mãnh liệt,
khẳng định tình u đất nước tha thiết và thơi thúc tin h thần chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc
của tác giả.Giọng điệu bài thơ tâm huyết sâu lắng mà sôi sục, hào hùng, cùng với bút
pháp khoa trương thể hiện niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng những tư tưởng cách
mạng của tác giả. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao kết hợp với những từ láy gây ấn tượng
mạnh đã làm nổi bật được chí vá trời, lấp biển của nhà thơ Phan Bội Châu


BÀI MẪU SỐ 4:
Trong nền văn học Việt Nam có những nhà thơ cịn là những nhà chính trị tài ba,
những anh hùng cứu nước. Nếu như chúng ta biết đến Hồ Chí Minh, một người khơng
bao giờ tự xưng là nhà thơ nhà văn nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng lại những
vần thơ hay, Tố Hữu cũng là một nhà thơ đồng thời là một chiến sĩ đấu tranh cách mạng
thì ta cũng khơng thể nào khơng nhắc đến Phan Bội Châu. Ông là một nhà cách mạng hết
lịng vì sự nghiệp đất nước. Cũng giống như Hồ Chí Minh thì Phan Bội Châu cũng có
những sáng tác văn học nhất định. Trong số những sáng tác của ông phải kể đến bài thơ
Xuất dương lưu biệt
Bài thơ này được sáng tác vào cuối thế kỉ XIX, phong trào Cần Vương thất bại,
thực dân Pháp chiếm toàn phần Đơng Dương. Tình hình chính trị của đất nước vô cùng
hỗn loạn. Năm 1905 sau khi thành lập hội Duy Tân, hội đã chủ trương cho Phan Bội
Châu ra nước ngoài hoạt động cách mạng. Trong bữa cơm chia tay anh em đồng chí để
lên đường Phan Bội châu đã làm bài thơ này để thay lời chia tay họ. Bài thơ thể hiện rất
rõ ý chí làm trai và ý chí của một người cách mạng.
Hai câu thơ đầu thể hiện rất rõ chí làm trai của Phan Bội Châu nói riêng và của
thời phong kiến nói chung:
“Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khơn tự chuyển dời)
Nói đến chí làm trai hẳn ai trong chúng ta cũng từng biết đến những quan niệm về

chí làm trai của Nguyễn Cơng Trứ và Phạm Ngũ Lão:
“Chí làm trai nam bắc tây đơng
Cho phỉ chí anh hùng trong bốn bể”
Hay
“cơng danh nam tử cịn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ hầu”
Và đến Phan Bội Châu lại tiếp tục nêu lên chí làm trai thời phong kiến. Thế nhưng
trước sự ảnh hưởng cái mới của thời đại mình nhà thơ đã kế thừa những quan niệm xưa
của cha ông và nêu lên những cái mới trong quan niệm chí làm trai của mình. Làm trai thì
phải làm những việc lạ nghĩa là làm những việc hiển hách phi thường. Dám làm những
việc kinh thiên động địa xoay chuyển đất trời chứ không thể ngồi im để mặc cho đất trời
xoay chuyển mình được. Phải chăng đó chính là khát vọng sống mãnh liệt của chàng trai
đầy nhiệt huyết với cuộc đời. Cảm hứng ấy gần gũi với những triết lý nhân sinh của nho


giáo nhưng cũng đồng thời mang nét táo bạo mới mẻ hơn. Con người chúng ta luôn phải
chiều theo sự xoay chuyển của trời đất những tác giả ở đây lại không thể để cho càn khôn
tự chuyển dời được. Chính vì thế mà nhà thơ thể hiện được lý tưởng sống của một con
người khỏe khoắn ngang tàng.
Hai câu thực nhà thơ tiếp tục đi vào làm rõ chí làm trai của mình. Càng nói ra càng
thấy Phan Bội Châu quả là một vị anh hùng tài năng và đầy khí phách:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai ?”
Thời gian khoảng trăm năm là một đời con người, tác giả khẳng định trong khoảng
trăm năm ấy cần có tác giả. Một đời người hay chính là hiện tại ấy phải cần có một anh
hùng với chí làm trai mạnh mẽ táo bạo của nhà thơ. Ở đây ta thấy xuất hiện cái tôi cá
nhân riêng biệt. Nhưng ở cái tôi ấy ta cảm nhận được cái tôi nhỏ bé, ý thức cá nhân với tư
cách là một công dân với tinh thần trách nhiệm với đất nước mình. Đó tuyệt nhiên khơng
phải cái tôi ngạo nghễ ngông nghênh. Cái tôi ấy được nhà thơ xưng là “tớ” thể hiện sự
gần gũi. Trong trăm năm ấy một bậc đại trượng phu sống không phải để hưởng hết những

lạc thú của cuộc đời mà để cống hiến tài trí của mình cho đất nước. Hiện tại có nhà thơ
thì say này chẳng nhẽ lại khơng có ai là anh hùng thật sự. Nói như thế nhà thơ như khẳng
định những bậc anh hùng hào kiệt nước ta đời nào cũng có. Tác giả cũng thể hiện được
sự tự hào về bản thân mình. Câu thơ có hình thức là một câu nghi vấn song thực chất nó
có tác dụng làm tăng cấp độ ý chí muốn làm những việc lớn để cống hiến hết mình tổ
quốc thân u.
Khơng những thế chí làm trai cịn gắn liền với vận mệnh đất nước, sự vinh nhục
được thể hiện rất rõ:
“Non sông đã mất, sống thêm nhục
Hiền thánh cịn đâu, học cũng hồi”
Non sơng đã mất thể hiện cảnh tượng nước nhà rơi vào tay giặc, tất cả nhân dân
phải chịu ách thống trị nô lệ của giặc, hàng ngày họ phải sống trong cảnh áp bức bóc lột.
Đối với một bậc trượng phu khi phải sống trong cảnh nước mắt ấy thì coi như đã chết rồi.
Chính vì thế mà ơng đưa ra ý tưởng bỏ sách thánh hiền. Đó là một ý tưởng táo bạo nhưng
lại mang sự tiến bộ. Đối với nhà thơ thì tình cảnh đất nước như thế khơng cịn học đạo
vua tơi, đạo sơ chung. Bởi vì theo nhà thơ sách thánh hiền khi ấy chẳng giúp ích gì được
cho cảnh nước mất nhà tan, nếu cứ khư khư ơm giữ thì chỉ là ngu mà thôi. Tuy nhiên
không phải nhà thơ phủ nhân hết những lợi ích của sách thánh hiền, nếu nói như thế
chẳng khác nào ơng cha ta ngu khi đọc sách đó. Mà điều tác giả muốn khẳng định là khi
ấy đọc sách thánh hiền khơng có tác dung và khơng phù hợp với hồn cảnh đất nước.


Từ những ý niệm về chí làm trai khi sống là một bậc trượng phu trên cuộc đời,
cùng với những diễn biến phức tạp của lịch sử Phan Bội Châu thể hiện nguyện vọng và
mong muốn của mình:
“Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Hình ảnh ấy “bể đơng theo cánh gió” và “mn trùng sóng bạc” là hai hình ảnh
mang tính chất hào hoa lãng mạn thể hiện được khát khao cao đẹp mãnh liệt của nhà thơ.
Phan Bội châu muốn vượt lên thực tại đen tối của đất nước để quyết tâm lên đường làm

nghiệp lớn bảo vệ cho đất nước cũng chính là bảo vệ cho sự sống còn và vinh nhục của
chí làm trai. Nhà thơ muốn vượt bể Đơng để theo cánh gió, cái cánh gió ấy sẽ đưa ơng
đến những mảnh đất văn minh ở đó ơng sẽ học tập và đem những gì mình học được về
cứu đất nước. Mn trùng sóng bạc như đưa chân người anh hùng đi làm chí lớn.
Tóm lại cả bài thơ là một quan niệm chí làm trai của Phan Bội Châu. Đối với ơng
chí làm trai ấy phải làm được những điều hiển hách được ghi tên trong bảng vàng lưu
danh mn đời. Vận mệnh của chí làm trai gắn liền với vận mệnh của đất nước. Với
giọng điệu hào hung trang nghiêm, cách sử dụng từ ngữ hấp dẫn lôi cuốn bài thơ hiện lên
như một bài ca hào hùng về chí làm trai. Nó dường như tiếp sức cho Phan Bội Châu đi
trên con đường cứu nước.


BÀI MẪU SỐ 5:
Phan Bội Châu là một nhà thơ, nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc, ông đã có nhiều
sáng tác thể hiện lịng u nước của mình. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương thể hiện lí
tưởng và lòng yêu nước sâu sắc của tác giả.
Sau khi vận động lập hội Duy Tân (1905) Phan Bội Châu tranh thủ viện trợ của
nước ngoài đào tạo cán bộ cốt cán cho phong trào yêu nước. Bài thơ được làm trong buổi
chia tay với các đồng chí của mình trước khi tác giả lên đường. Ngay mở đầu của bài thơ
nhân vật trữ tình trong bài thơ đã đặt cho mình một lí tưởng cao cả:
"Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời"
Người thanh niên này đã đặt cho mình một ý chí rất rõ, thể hiện ý thức cá nhân của
bản than. "Làm trai" tức là ý thức về trách nhiệm của thân phận "Chí nam nhi nam bắc
đơng tây". "Làm trai phải lạ trên đời!". "Phải lạ" là sao? "Phải lạ" là phải có điều gì khác
hẳn, vượt lên hẳn mọi thứ tầm thường trên đời. Nói như Nguyễn Cơng Trứ thì đó là "Phải
có danh gì với núi sơng". Phan Bội Châu đã ghi dấu ấn với sông với núi bằng khát vọng
xoay trời chuyển đất: "Há để càn khôn tự chuyển dời". Không để đất trời tự vần xoaym
phải chế ngự sự biến đổi ấy bằng những hành động, việc làm xứng đáng với thân nam
nhi.

"Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này mn thuở há khơng ai".
Đấng nam nhi này có một tấm lịng u nước đến phi thường, có thể hi sinh hết
cuộc đời mình cho dân tộc. Lời nói hùng khí ấy chỉ có thể thốt lên từ một bậc anh hùng.
Trong khoảng trăm năm cuộc đời cần có ta gánh vác. Câu thơ khẳng định vai trò cá nhân
đối với vận mệnh đất nước và cũng là thể hiện một cái "tôi" đầy trách nhiệm sẵn sàng
gánh vác kế trăm năm nghiệp vng trịn của cơ đồ xã tắc. Trong thời cuộc rối ren đầu
thế kỷ XX, khi bao kẻ chỉ chăm chăm "nằm co" cho khuôn vừa thời thế, sự vùng vẫy của
cái tôi kia thật đáng trân trọng. Tác giả đã dùng từ “ tớ” để thể hiện ý chí quyết tâm của
mình, đó là một trong những cái ngông của nhà thơ.
Tác giả đặt ra câu hỏi nhưng cũng tự trả lời cho mình"sau này mn thuở há
khơng ai". Sau này nghìn năm lại khơng có ai lưu danh mn thuở vì dân vì nước hay
sao? Câu thơ có dáng dấp một câu hỏi nhưng cũng là một câu khẳng định ắt sau này có
người làm nên nghiệp lớn, lưu danh mn thuở cứu dân cứu nước. Đó khơng là ta thì sẽ
là một người hậu thế. Lời thơ bày tỏ niềm tin tưởng vào tương, đó giống như sự trao gửi
lịch sử vào tay hậu thế.
Bàn về chí làm trai, bàn về cái "tôi" ở đời, nhà thơ đặt nhân vật trữ tình vào hồn
cảnh cụ thể của đất nước:


"Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh làm chi học cũng hoài".
Tác giả đã đưa ra lời nhắc nhở đối với đấng nam nhi đang sống trong xã hội lúc
bấy giờ. Khi đất nước đã rơi vào tay giặc thì cịn đáng sống vì lẽ gì. Luận về lẽ sống chết
ở đời để khẳng định, để cao tư tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình. "Non sơng đã chết
sống thêm nhục". Nếu như chí làm trai gắn số phận kẻ làm trai với trách nhiệm xoay trời
chuyển đất thì nước nhà có sa cơ "đã chết" cái nhục thuộc về sự sống kẻ làm trai. Nhận
trách nhiệm chung về mình, đó là biểu hiện cao độ của lịng tự trọng của con người. Ở
đây lòng tự trọng được thể hiện ở nỗi đau mất nước, nỗi nhục quốc thể.
"Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió

Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi"
Câu thơ đã cho người đọc liên tưởng tới hình ảnh người anh hùng trong buổi lên
đường tìm cách cứu nước, hình ảnh đó thật đẹp, thật đáng tự hào. Lịng u nước khơng
cịn hiện lên trong khn khổ những tư tưởng ý chí mà vụt hóa thành con người của hành
động. Câu thơ khắc họa một cuộc tiễn đưa hào hùng của lịch sử. Hình ảnh tư thế người ra
đi vô cùng lớn lao kỳ vĩ "vượt bể Đơng theo cánh gió" để "Mn trùng sóng bạc tiễn ra
khơi". Phải là "bể Đơng" "cánh gió" mới xứng đáng với sự kì vĩ của ước mơ người anh
hùng. "Mn trùng sóng bạc" của q hương tiễn đưa người anh hùng ra đi vì chí lớn.
Bài thơ khép lại nhưng mở ra hy vọng cho tương lai đất nước dựa vào cuộc ra đi hào
hùng của bậc anh hùng hào kiệt.
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ hiện lên ở nhiều phương diện: tư tưởng,
khát vọng, hành động. Qua đó bộc lộ những quan điểm mới mẻ, tiến bộ về nhân sinh
quan. Bài thơ kết thúc ở hình ảnh người ra đi đẹp hào hùng gieo vào lịng người những
đợi chờ hy vọng.
Mượn hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ tác giả đã thể hiện được ý chí, khát
vọng lên đường cứu nước của tác giả. Bài thơ ra đời đúng vào thời kì đất nước đang chìm
trong vịng luẩn quẩn, chưa biết cứu nước bằng con đường nào, nó trở thành nguồn động
lực vơ cùng vĩ đại cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.


BÀI MẪU SỐ 6:
Sau khi tham gia thành lập Duy tân hội, đầu năm 1905, theo chủ trương cùa tổ
chức, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương tới Trung Quốc rồi Nhật Bản, mở đầu
phong trào Đồng du, đặt cơ sớ đào tạo cốt cán cho cách mạng trong nước và cầu Nhật
giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc này đất nước đã mất chủ quyền ; ngọn lửa của phong trào
Cần vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tướng phong kiến
do các sĩ phu lãnh đạo. Thời cuộc thay đổi đòi hỏi phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc phải có phương hướng, nội dung và hình thức hoạt động mới. Phan Bội Châu lúc này
còn tương đối trẻ (38 tuổi), là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết
tâm vượt mình, vượt qua giáo lí đã lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận luồng tư tưởng

tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra hướng đi mới cho sự nghiệp khôi phục giang
sơn. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao hi vọng...
Lưu biệt khi xuất dương được viết ra trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu
tổ chức tại nhà mình để chia tay các đồng chí trước lúc lên đường. Về sau, trên Bình sự
tạp chí (Hàng Châu, Trung Quốc) số 34 (2-1917), Phan Bội Châu cho đăng bài thơ này
dưới nhàn đề Đơng du kí chư đồng chí (Gửi các đồng chí khi Đơng du) với một vài sửa
đổi vể câu chữ (so với bản được lưu hành trước đó) . Phan Bội Châu tuy văn tài lỗi lạc
nhưng không bao giờ xem văn chương là cứu cánh của đời mình. Ơng chỉ muốn dùng nó
để xốc người đời (đặc biệt là tầng lớp thanh niên) đứng dậy làm cách mạng, cứu nước,
cứu dân. Với định hướng này, sáng tác của ơng có được một âm hưởng đầy kích thích,
khiến người đọc không thể ngồi yên một khi đã được tiếp xúc với nó. Bài Lưu biệt khi
xuất dương chính là một ví dụ điển hình.
Bài thơ được mở ra khơng phải với những tình cảm bịn rịn, nhớ nhung. Hiện lên lồ
lộ là lí tướng và hồi bão của một con người đang quyết xoay chuyển càn khôn, vũ trụ:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khơn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.)
Lưu biệt là để lại cho người đưa tiễn một cái gì đó như lời dặn dò hay bài thơ
trước lúc rong ruổi đường xa. Ở đây, bản thân bài thơ là lời dặn dò, là tiếng nói khích lệ.
Nhà thơ hiểu rằng hơn lúc nào hết, cả người ở lại lẫn người ra đi cần có một niềm tin, nếu
chưa phải vào kết quả hành động thì cũng vào cái đúng của hành động mà mình đã lựa
chọn. Quan niệm về chí làm trai cùa các nhà nho xưa đã được nhắc lại trên tinh thần này.
Khơng thể nói điều được nhà thơ phát biểu ở hai câu thơ là hoàn toàn mới mẻ. Trước
Phan Bội Châu, bao nhiêu con người ưu tú đã nói về chí làm trai với nhiệt tình cháy bỏng
và với một hình thức ngơn từ rất gây ấn tượng.


Ngay câu thơ thứ nhất của Phan Bội Châu, có thể nói, cũng thốt thai từ hai câu
chữ Hán mở đầu bài Chí nam nhi của Nguyễn Cơng Trứ :

"Thơng minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kì"
(Một người trai thông minh ắt phải làm được những việc khiến thiên hạ phải thấy
kì lạ).
Vậy vấn đề ở đây khơng phải là xét tính độc đáo của tư tưởng mà là xét mục đích
của việc phát biểu tư tưởng trong một hồn cảnh cụ thể. Nêu lên tín niệm của các trang
nam tử muôn đời, thực chất Phan Bội Châu đang muốn nhắc nhở, cật vấn chính bản thân
: lẽ nào để trời đất tự xoay vần tới đâu thì tới, cịn mình là kẻ đứng ngồi, vơ can ? Là câu
hỏi nhưng cũng là một lời đáp. Tính hai mặt này của lời thơ đã ngay từ đầu tạo được cho
thi phẩm một khơng khí dồn nén và thúc giục rất rõ rệt. Từng chữ, từng lời cứ bện chặt
lấy tâm trí người đọc, khiến họ khơng thể lảng tránh vấn đề đã được nhà thơ đặt ra một
cách tâm huyết. Hai câu tiếp theo của bài thơ vẫn đi theo mạch đó :
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
(Trong khoang trăm năm cần có tớ,
Sau này mn thuở, há khơng ai ?)
Câu trước khơng chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình giữa thế
gian mà cịn hàm chứa một tâm niệm : ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu
nhiên, vơ ích, và vì vậy, ta phải làm được một điều gì đó có ý nghĩa cho đời. Câu sau có
thể diễn ý : Ngàn năm sau lẽ nào chẳng có kẻ nối tiếp cơng việc của người trước ?
Như vậy, hai câu 3 - 4 đã thể hiện thật đậm nét cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ
: thấy việc không thể không làm, không ỷ lại cho ai. Hơn thế, cái tôi ấy thấy rõ lịch sử là
một dịng chảy liên tục, có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác bổn phận của nhiều thế hệ.
Đây có thể xem là một nét mới trong tư tưởng của Phan Bội Châu so với khơng ít bậc tiền
bối vốn nhìn lịch sử như một vịng chu chun khép kín, khi đại nghiệp khơng thành dễ
rơi vào tình trạng thở than tuyệt vọng. Tác giả hồn tồn dự cảm được tính chất khó khăn
của sự nghiệp cứu nước mà mình đứng ra đảm trách, nhưng dự cảm đó khơng làm ơng
nao núng. Ơng có sẵn lịng tin khơng chỉ vào mình mà cịn vào bao kẻ sau mình. Tư
tưởng của ơng và tính cách của ông là vậy. Ta hiểu vì sao sau này, lúc kiểm điểm cuộc
đời, dù cay đắng cho bản thân, Phan Bội Châu vẫn có được lời nói hết sức vơ tư, hồn hậu:

"Chúc phường hậu tử tiến mau !"
(Từ giã bạn bè lần cuối cùng - 1940).


Cảm nhận ý nghĩa các câu thơ theo hướng đó, ta dễ nhận ra cái "non” của từ tớ
trong ban dịch (nguyên tác là ngã). Phan Bội Châu không phải là kẻ tự thị. Ơng phát ngơn
nhân danh những kẻ làm trai, những người yêu nước nói chung trong cuộc đời !
Bốn câu đầu bài thơ nghiêng về nói tới cái lẽ thường của đấng nam nhi, dù đọc
chúng, người đọc vẫn nhận ra nỗi bức xúc trong tâm trạng tác giả. Sang hai câu 5-6, nỗi
bức xúc ấy được biểu hiện trực tiếp hơn, qua việc nhà thơ nêu lên hiện trạng thê thảm của
đời sống lúc bấy giờ :
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si !
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu, học cũng hồi !)
Đúng là những câu thơ đau đớn. Đau đớn cho việc mất nước. Đau đớn cho sự tồn
tại trơ trơ nhục nhã của mình khi cơ đồ của dân tộc đã bị đắm chìm. Đau đớn cho cái học,
kiểu học mà bản thân từng một thời theo đuổi, giờ đã thành vơ ích, vơ vị... Là người chịu
ảnh hưởng của Tân thư (tức sách báo tuyên truyền cho tư tưởng dân chủ tư sản phương
Tây, tư tưởng cải cách xã hội theo mơ hình Âu-Mỹ,... được dịch qua hoặc được viết bằng
Hán văn, đưa tới từ Trung Quốc), Phan Bội Châu tuy không phủ nhận hồn tồn Nho
giáo nhưng khơng cịn giữ thái độ sùng kính đối với nó. Cái gì tỏ ra khơng cịn có ích cho
sự nghiệp cứu nguy giống nịi thì ơng dứt khốt giã từ. Có thể xem đây là hệ quy chiếu
mà ơng đã dùng để nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề của đời sống xã hội và mọi ứng xử
của kẻ sĩ lúc ấy. Trước đây, Nguyễn Khuyến từng than :
"Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già"
(Ngày xuân dặn các con).
Câu thơ đầy chiêm nghiệm, có niềm tủi thẹn và thống nghi ngờ về tính hữu dụng
của cái học từ chương "nhai văn nhá chữ" trong bối cảnh đất nước đã lọt vào tay giặc (mà

nhà thơ gọi bóng gió là ngày loạn). Với Phan Bội Châu, thái độ không dừng ở mức nghi
ngờ. Tình thế đất nước vào buổi ơng lên đường đã khác nhiều, hơn nữa, với cá tính mạnh
mẽ của một con người ưa hành động, tràn đầy nhiệt huyết, ơng đã đưa vào bài thơ của
mình những từ, cụm từ đầy cảm hứng phủ định, rất gây ấn tượng : tử hĩ (chết rồi), nhuế
(thừa), si (ngu). Phải nói rằng với cách dùng từ ngữ mạnh bạo như thế, thơ ơng có khả
năng táađộng tới độc giả rất sâu sắc. Đằng sau sự hấp dẫn của cách nói là sự hấp dẫn của
cốt cách một con người ! Các từ nhục, hoài trong bản dịch thơ sự thực chưa truyền lại đầy
đủ khí lực dồi dào của các từ nhuế, si trong nguyên tác. Phải hành động, phải hành động tự mạch thơ toát lên lời giục giã. Hai câu cuối đến như một cơn gió mạnh, bốc nhà thơ


thoát khỏi những tủi thẹn, day dứt, đau buồn. Việc lạ (kì) mà nhân vật trữ tình nung nấu
thực hiên được khởi đầu từ điểm này chăng :
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)
Người có hiểu biết về phong trào Đơng du hẳn sẽ nhận ra tính tự nhiên, hợp lơ
gích của việc nhà thơ liên tưởng tới Đơng hải cùng hình ảnh thiên trùng hạch lãng. Nhật
Bản - niềm hi vọng mới của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu - ở phía đơng, giữa
biển khơi, cách nước ta mn dặm hải trình. Chính vì vậy, sang Nhật cũng đồng nghĩa
với chuyện vượt bể. Tuy nhiên, trong hai câu thơ, các hình ảnh chủ yếu mang ý nghĩa
biểu tượng. Câu thơ dịch khơng hồn tồn bám sát ý ngun tác, đã chuyển một khát
vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất chợt thành sự tường thuật - miêu tả thực tế, do vậy,
chưa truyền đạt được phong độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng
bay bổng của nhà thơ. Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay
vào một trường hoạt động mới mẻ, sôi động ; bay lên làm quẫy sóng đại dương hay bay
lên cùng những đợt sóng trào sơi vừa thống hiện trong tâm tưởng. Trong bài thơ, có rất
nhiều từ, cụm từ chỉ các đại lượng không gian, thời gian lớn cùng một số hình ảnh kì vĩ
thể hiện bối cảnh mang tính chất vũ trụ đã được sử dụng : càn khôn, giang sơn, hách niên
trung, thiên tải hậu, Đông hải, trường phong, thiên trùng hạch lãng,... Nhớ lại các bài như

Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, Nổi lòng của Đặng Dung, Chim trong lồng của Nguyễn Hữu
Cầu,... ta thấy đây là bối cảnh khá đặc trưng của thơ tỏ chí thời trung đại. Như vậy, bối
cảnh vũ trụ hồn tồn khơng phải là hiện tượng cá biệt ở một vài bài thơ nào đó, bởi con
người trong thơ xưa về cơ bản chưa phải là con người cá nhân cá thể mà là con người vũ
trụ. Tuy nhiên, với trường hợp bài Lưu biệt khi xuất dương, vẫn có thể nói rằng bối cảnh
ấy có tác dụng tơ đậm các phẩm chất rất riêng và nổi bật của nhân vật trữ tình : tự tin,
dám đối thoại cùng trời đất, lịch sử ; ý thức rõ về cái vinh, cái nhục ở đời ; có khát vọng
khẳng định cái tơi trong hành động dấn thân vì đất nước, dân tộc,... Nói tóm lại, phải có
bối cảnh ấy thì chí "vá trời lấp biển" của nhà thơ mới được khắc tạc ấn tượng đến như
thế. Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên đường. Nó
hồn tồn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và
tin tưởng vào thời điểm lịch sử khi đó.


BÀI MẪU SỐ 7:
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất
chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt,
báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh
đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ
cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng
để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc,
nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đơng du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy
vọng...
Bài thơ đã thể hiện rất sinh động tư thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất
dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai - một
nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khơn tự chuyển dời.
Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định.
Trước đó, trong thơ trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nhắc đến (ở

các bài Thuật hồi, Chí nam nhi). Nhưng điều đó khơng có nghĩa là ở bài thơ của Phan
Bội Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thơi thúc. Nó chính là điều nung
nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình
nâng cao tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất khơng để "tự
chuyển dời". Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa
Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế
của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?
Ý thức về cái "tôi" đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình
đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong
lịch sử và cũng do sự thơi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực
nhức nhối:
Non sơng đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu học cũng hồi.
Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo
một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, "hiền thánh" thần tượng
một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt


khốt. "Hiền thánh cịn đâu học cũng hồi" - đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục
sơi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.
Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách
sơi trào, đầy dũng khí:
Muốn vượt biển Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
"Vượt biển Đơng" là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn
ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vơ biên "mn trùng sóng bạc" tiễn chân như một
yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.
Xuất dương lưu biệt là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống,

nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm
xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một
vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân.


BÀI MẪU SỐ 8:
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhà yêu nước và cách mạng lớn của dân tộc
,trong ông ln sục sơi ý chí tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc .Tuy văn tài lỗi
lạc nhưng ông không xem văn chương là con đường sự nghiệp của mình ,ơng chỉ muốn
dùng nó để lên tiếng cho cách mạng ,cho dân tộc đang sống trong đói khổ lầm than ,để
những người thanh niên yêu nước đứng dậy làm cách mạng cứu nước ,cứu dân. Tinh thần
yêu nước ấy được thể hiện rõ trong tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” (1905)được ông
sáng tác trước lúc lên đường sang Nhật . Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể thất
ngơn bát cú Đường luật. Mang hình thức cổ điển , khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó
là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao
đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người ,một bài ca hùng tráng về chí nam nhi của
nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng .
Thật xứng đáng với vẻ đẹp ấy ,Phan Bội Châu mở đầu bài thơ không phải là
những lời chia tay ,nhớ thương bịn rịn của người đi kẻ ở lại ,mà đó là những câu thơ
mang lí tưởng hồi bão của con người đang sục sơi ý chí muốn làm chủ vũ trụ ,muốn
xoay chuyển càn khơn đất trời :
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
(Sinh vi Nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khơn tự chuyển đi )
Hai câu thơ là một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi
của lịch sử, phải chủ động trước hồn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh
niên ,sống là phải “lạ” ,làm nên sự nghiệp lớn để lại tiếng thơm muôn đời ,đem lại cho
đất nước cuộc sống ấm no ,không thể sống tầm thường ích kỉ ,chỉ cảm thụ cuộc sống
riêng mình.trước Phan Bội Châu đã có bao nhiêu con người ưu tú nói về chí làm trai với

lịng nhiệt thành cháy bỏng - “Nam nhi vị liễu công danh trái / Tu thỉnh nhân gian thuyết
Vũ hầu”(Phạm ngũ lão ) .Song,hai câu thơ của cụ Phan vừa như một câu hỏi tu từ khẳng
định chí làm trai giữa trời đất vừa là lời đối thoại rằng không lẽ đấng nam nhi lại để mạc
cho trời đất tự chuyển dời ,tới đâu thì tới ,cịn “chúng ta” là kẻ đứng ngồi khơng phận sự
hay sao ? Chỉ hai câu đề ta cũng thấy được một lối sống cao đẹp tiến bộ đầy bãn lĩnh ,sẵn
sàng thách thức càn khôn vũ trụ mang vẻ đẹp của khí phách hào hùng người chí sĩ Phan
Bội Châu . Khí phách ấy lại vang lên mạnh mẽ hơn trong hai câu thơ tiếp theo :
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này mn thuở há khơng ai ?”
Nhân vật trữ tình ý thức dược trách nhiệm của mình trước đồng loại,trước đất trời
bao la . “Trong khoảng trăm năm” này cần có một người sẵn lịng phục vụ cách mạng


,phục vụ những lí tưởng cao đẹp mang lại yên bình cho đồng loại . “Trăm năm” ẩn dụ
cho một đời người ,một cuộc sống mà “tớ” có trách nhiệm gánh vác .Cái tôi của tác giả
mang đầy trách nhiệm ,”tớ” đang hiện diện hôm nay phải làm được một điều j đó có ý
nghĩa cho đời , “tớ” thấy việc không thể không làm ,không thể ỷ lại cho ai .Cái tôi về
trách nhiệm ấy lại cho ta thấy được lịch sử là một dịng chảy liên tục ,có sự chung tay góp
sức của nhiều thế hệ .”Sau này muôn thuở há không ai?” -câu thơ vừa đặt ra cho ông
cũng như cho những người thanh niên yêu nước của dân tộc trước cảnh nước nhà .Song
,ông cũng đặt một niềm tin về thế hệ mai sau của dân tộc sẽ làm nên chuyện lạ ,sẽ làm
nên non sông này ngàn đời tươi đẹp .Giọng thơ đĩnh đạc hào hùng mang niềm tin của
nhân vật trữ tình ,đồng thời khẳng địnhvai trị của cá nhân ơng ,thúc giục những chí sĩ
yêu nước lên đường .
Cái chết vinh quang hay cuộc sống tủi nhục lại được nhân vật trữ tình thể hiện
trong hai câu tiếp theo :
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu học cũng hồi.
Câu thơ mang nỗi đau đớn ,xót xa của tác giả . Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do,
chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải học văn

chương cử tử nữa. Câu thơ khơng có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền
mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, dân
chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm
với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng .Với nghệ thuật đối lập được ơng sử dụng một
cách tài tình -gắn sự sống chết công danh của bản thân với sự mất cịn vinh nhục của đất
nước .Hình ảnh này vừa mang vẻ đẹp lãng mạn - sự nhận thức sâu sắc về thời cuộc -lại
mang khí phách hào hùng của đấng nam nhi khi lòng nhiệt huyết đưa dân tộc ra khổi kiếp
sống lầm than đang len lỏi khắp da thịt ơng .
“Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Việc “lạ” của nhân vật trữ tình đang nung nấu sắp khởi hành .Tư thế hăm hở
,mang long quyết tâm về cuộc xuất dương cứu nước ,nhà thơ thoát ra khỏi tủi thẹn ,day
dứt của hai câu thơ trước để sang hai câu thở cuối ,rồi lên chiếc thuyền sắp ra khơi
.Những “cánh gió” “sóng bạc”mang vẻ đẹp lãng mạn về những sóng gió ,thăng trâm phía
trước .Nhưng những hình ảnh này lại được ơng khắc họa bằng giọng thơ hào hùng ,bay
bỗng .Tâm thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một con đường hoạt
động mới ,;bay lên quẫy sóng đại dương ,bay lên cùng những đợt sóng trào sơi thống
hiện trong tâm trí ơng .ơng khơng xem đó là những cách trở ,những vật cản trên con
đường sự nghiệp cách mạng của mình ,mà trái lại ơng xem chúng như bạn đường ,là đối


×