Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

HA HUY TAP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.23 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Hà Huy Tập</b>


<b>Tiểu sử</b>



Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Thân
phụ là một nhà nho nghèo. Hà Huy Tập là con thứ hai, người anh cả tên là Hà Huy Sum (ở quê cịn có tên
gọi là Sâm), sau ơng cịn 3 em gái, một người có tên là Hà Thị Chuốt mất từ hồi nhỏ. Còn lại Hà Thị Chước
người em gái kề ơng Tập lấy chồng ở q có tên là Nguyễn Đình Cương cũng hoạt động cùng thời với ông
Tập là đảng viên Cộng sản thời kỳ 1930-1931.


Năm 1923, tốt nghiệp hạng ưu trường Quốc học Huế. Từ năm 1923 đến 1926, ông làm giáo viên tiểu học ở
thành phố Nha Trang.


Giữa năm 1926, ông bị trục xuất khỏi Nha Trang và chuyển về dạy học ở trường tiểu học Cao Xuân Dục
(thành phố Vinh). Ông tham gia Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam, tiền thân của Tân Việt Cách
mạng Đảng) nên bị sa thải.


Tháng 3 năm 1927, ông chuyển vào Sài Gòn hoạt động, kiếm sống và dạy học ở An Nam học đường tức
trường Nguyễn Xích Hồng, đến tháng 1 năm 1928 ông lại bị sa thải khỏi An Nam học đường.


Tháng 12 năm 1928, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất với tổ chức Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí Hội rồi hoạt động trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Ngày 19 tháng 7 năm 1929, ông sang Liên Xô, học trường Đại học Lao động Cộng sản phương Đông của
Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Cinichkin (Xi-nhi-trơ-kin).


Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản tồn liên bang (bơn-sê-vích) (tên gọi lúc đó của
Đảng Cộng sản Liên Xơ).


Năm 1932, ơng tốt nghiệp đại học và trở về Việt Nam. Trên đường về ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang
Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc.


Năm 1934, ơng tham gia Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đơng Dương.



Ơng trực tiếp chủ trì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao từ 27 tháng 3 đến 31
tháng 3 năm 1935. Tại Đại hội này, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và có chân trong Ban
Thường vụ Trung ương.


Tháng 3 năm 1935, ơng được cử làm Bí thư Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 7 năm 1936, Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung
ương cử ông về nước để lập lại Trung ương cấp ủy và và giữ chức Tổng Bí thư từ ngày 26 tháng 7. (Chức
Tổng Bí thư của ông mới được công nhận trong thời gian gần đây, nhưng thời gian ông giữ chức vụ này
cũng khơng được ghi thống nhất. Có tài liệu ghi ơng "lãnh đạo Ban chấp hành Trung ương trên cương vị
Tổng Bí thư" từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng, tháng 3 năm 1935.)


Ông trực tiếp chỉ đạo các báo <i>L'Avant garde</i> (Tiền phong) (1937), <i>Dân chúng</i> (1938) của Đảng dưới danh
nghĩa "cơ quan lao động và dân chúng" ở Nam Kỳ.


Từ 3 tháng 9 đến 5 tháng 9 năm 1937, Hội nghị Trung ương họp ở Bà Điểm, Gia Định, ông báo cáo kiểm
điểm sự lãnh đạo của đảng từ sau Đại hội I đến năm 1937.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ngày 1 tháng 5 năm 1938, ông bị qn Pháp bắt tại Sài Gịn, sau đó bị quản thúc ở quê.


Ngày 30 tháng 3 năm 1940 ông bị bắt lại và ngày 25 tháng 10 năm đó, ông bị thực dân Pháp xử tuyên án 5
năm tù giam.


Ngày 25 tháng 3 năm 1941, Pháp đổi thành án tử hình vì "chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ" (cùng bị kết án tử hình với Hà Huy Tập cịn có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh
Khai). Trước tịa ơng tun bố: "<i>Tơi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu cịn sống tơi sẽ tiếp tục hoạt động</i>."
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, ông bị Pháp xử bắn cùng với một số nhà cách mạng khác tại Sở Rác (nay là


bệnh viện Hóc Mơn, Sài Gịn). (Có tài liệu nói là ơng và các đồng chí bị xử bắn ở Ngã Ba Giồng, Hóc Mơn,
Gia Định, hiện nay có khu di tích tại đây.)



Ngày 22 tháng 11 năm 2009, hài cốt của ông được phát hiện tại khu vực Bến Tắm Ngựa thuộc xã Xuân
Thới Thượng, huyện Hóc Mơn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 1 tháng 12 cùng năm, lễ viếng và truy điệu
linh cữu ông được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh, đã có nhiều quan chức lãnh
đạo của đảng và hàng trăm đoàn đại biểu từ các nơi đến chờ viếng. Sau đó, linh cữu ơng được đưa về an
táng tại huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.


<b>Tác phẩm và bút danh</b>



Toàn bộ trước tác gồm 14 bài viết và văn kiện, 20 tác phẩm sách báo trong đó có cuốn <i>Sơ thảo lịch sử </i>
<i>phong trào cộng sản Đông Dương</i> bằng tiếng Pháp, 291 trang, xuất bản đầu năm 1933 (lấy bút danh Hồng
Thế Công (H-T-C)) và <i>Trôtxkit và phản cách mạng</i> (lấy bút danh Thanh Hương). Ngồi 2 bút danh trên, Hà
Huy Tập cịn có các bút danh khác như Xinhikin, Xinhitrơkin, Sinitchkin, Giodep Marat, Hồng Quy Vít và
Nhỏ.


 Lịch sử của Tân Việt cách mệnh Đảng (1929);
 Hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (1931);


 Đảng Cộng sản Đông Dương đứng trước chủ nghĩa cải lương quốc gia (1932);
 Thư gửi Ban biên tập Tạp chí Bơn-sơ-vích (1932);


 Kỷ niệm ba năm ngày Đảng Cộng sản Đông Dương thống nhất (1933),


v.v..


Nổi bật nhất là tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương (1933).

<b>Đánh giá</b>



Cơng lao của ơng là đã góp phần tích cực trong việc khôi phục ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
bị phá vỡ sau cao trào 1930-1931, tham gia chuẩn bị và tổ chức Đại hội Đảng I, chấm dứt thời kỳ khủng


hoảng lãnh đạo suốt 4 năm liền.


Ông cũng là người phê phán Nguyễn Ái Quốc mạnh mẽ về chủ nghĩa dân tộc cải lương. Ơng đã viết trên
Tạp chí Bơnsơvích (số 8/12-1934):


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>vừa”, v.v… Vì những sai lầm đó, nên từ tháng Giêng đến tháng Mười năm 1930, Đảng Cộng sản </i>
<i>Đơng Dương đã đi theo một chiến lược có nhiều điểm trái với những chỉ thị của Quốc tế cộng sản, </i>
<i>tuy trong thực tế đã lãnh đạo quần chúng kiên quyết đấu tranh cách mạng.”</i>


<b>Gia đình</b>



Ơng Hà Huy Tập có vợ là bà Nguyễn Thị Giáo và con gái duy nhất là Hà Thị Thúy Hồng, sinh năm 1928.
Khoảng 4-5 năm sau khi sinh con, bà Nguyễn Thị Giáo cùng con gái từ quê ở Hà Tĩnh đi vào Sài Gòn sống
một thời gian rồi xuống Cần Thơ, sau đó lại lên Sài Gịn. Sau khi ông bị kết án tử hình, bà Giáo kết duyên
với người chồng thứ hai tên là Tạ Phước Lai ở Sài Gòn, sinh thêm 3 người em chung mẹ khác cha với bà
Hồng, hiện nay đều sống bên Mỹ. Bà Giáo mất năm 1997 tại thành phố Hồ Chí Minh.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×