Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một góc suy ngẫm về ảnh hưởng của Phật giáo đến âm nhạc Trịnh Công Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.73 KB, 16 trang )

Mục lục

Trang
1
1

Phần A: Lý do chọn đề tài
Phần B: Nội dung

I. Khái quát về Phật Giáo
II. Một góc suy ngẫm về ảnh hưởng của Phật giáo đến
âm nhạc Trịnh Công Sơn
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam
2.2. Một góc suy ngẫm về ảnh hưởng của Phật giáo đến
âm nhạc Trịnh Công Sơn

Phần A: mở đầu
1


Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, gắn với từng không gian
và thời gian khác nhau là các hệ thống triết học khác nhau. Các hệ thống triết
học này tồn tại cùng với các nền văn minh lớn của thế giới nhằm lý giải các
mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng,
ngoài việc nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử ... của Phật giáo ra còn đề
cập đến các lĩnh vực Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội
học, Dân tộc học, Văn học, Nghệ thuật ... Phật học đã trở thành một trong
những khoa học tương đối quan trọng trong khoa học xã hội, trước mắt có
quan hệ mật thiết với xã hội học.
Trong sự vận động và phát triển của hệ thống Triết học này, nó đã đi


vào tâm thức và có những tác động nhất định đến đời sống xã hội nước ta.
Một trong những cách tốt nhất để hiểu sâu hơn về hệ thống triết học này là
chúng ta đi phân tích một số ảnh hưởng của nó đối với một số trào lưu văn
hóa, thơng qua những giá trị văn hóa mà thế hệ trước để lại. ở đây tôi cũng
xin mạnh dạn đi tìm hiểu một góc nhỏ trong cái gia tài giá trị văn hóa đồ sộ
đó, đó là tìm hiểu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến âm nhạc Trịnh Công
Sơn - một trường phái âm nhạc thực thụ.

2


Phần B: Nội dung chính
I. Khái quát về Phật giáo
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay buddha). Đạo phật chính
là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Buddha vốn là một thái tử tên là Tất
Đạt Đa (Siddharta), con trai của Tịnh Phạn Vương (Suđhodana) vua nước
Tịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc ấn Độ (nay thuộc đất Nê Pan) ông sinh
ra vào khoảng năm 623 trước công nguyên và sống được 80 năm. Sau khi
ông mất, các học trị của ơng đã tiếp tục phát triển tư tưởng của ông, xây
dung thành các hệ thống tơn giáo – triết học lớn, có ảnh hưởng lớn ở ấn Độ,
và từ đó lan ra nhiều vùng của thế giới. .
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh
điển rất lớn, được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho
cả năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng
kỷ luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn
thêm các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều
tập dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật

giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về
giáo pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và
nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hố vơ thường của vạn vật,
đã xây dựng nền thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái
niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được
gọi là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
3


- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Dun
khơng phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện
để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không
gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên tồn bộ thế giới
khơng tính đến cái lớn nhỏ, khơng tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một
hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả
vũ trụ hồ hơp tạo nên nó. Cũng như nó hồ hợp tạo nên cả vũ trụ bao la.
Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay
diệt. Duyên hợp thì sinh, Dun tan thì diệt.
Vạn vât sinh hố vơ cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau
mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dịng biến hố vơ tận
vơ thường vơ thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vơ
thường của vạn vật, vạn sự theo nhân dun là thường cịn khơng thay đổi.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà
thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ khơng

nhìn thấy được nếu nó nằm trong q trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến
sắc” như vật chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi
sinh vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan
ngũ uẩn thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng
tận.
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời
và các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong
hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu
hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo
phật cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra
4


khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác
(có thể là con người, lồi vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả
báo hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn
nguyên nỗi khổ ở đời con người.
Trước khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ
yếu ở miền Trung lưu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các khu vực
thành phố lớn mới nổi lên. Sau khi ngài tạ thế, các thế kỷ trực tuyến của ngài
đã đem Đạo Phật mở rộng đến hạ lưu sông Hằng về phía Đơng, phía Nam
đến bờ sống Caođaveri, phía Tây đến bờ biển Arập, phía Bắc tới khu vực
Thaiysiro. ở thời kỳ thống trị của vua Asôca thuộc vương triều Maurya, Đạo
phật bắt đầu phát triển tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Miama,
Nam tới Xrilanca, Tây tới Xyri, Aicập .... Nhanh chóng trở thành tơn giáo
mang tính thế giới. Sau khi vương triều Casan (kushan) hưng khởi lại truyền
tới Iran, các nơi ở trung tâm Châu á, rồi qua con đường tơ lụa truyền vào

Trung Quốc.
Các nơi khác: Mấy năm gần đây ở một số nước như: Italya, Thuỵ sỹ,
thuỵ Điển, Tiệp .... Việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng
nên khơng ít cơ sở nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật học.
Ví dụ sở nghiên cứu Trung Đơng, Viễn Đơng Italia, dưới sự chủ trì của Đỗ
Kỳ đã biên tập và xuất bản “ Tư sách La mã với Đông Phương” ( Đến năm
1977 đã xuất bản được 51 loại ) trong đó bao gồm rất nhiều trước tác phẩm
Phật giáo.
Nhưng ở trong các quốc gia này số tín đồ khơng nhiều lắm chỉ chiếm
số ít phần trăm trong tổng số dân. Ngay cả trong số người nổi tiếng trên thế
giới ngày nay cũng chọn Phật giáo làm đạo tu hành cho mình như cầu thủ
bóng đá Rôbettô Bagiô, Erie Cantôna, siêu sao màn bạc Richard Gere.
Trước đây Phật giáo được coi là một trong ba tôn giáo lớn của thế
giới, nhưng trong những năm gần đây do sự suy yếu của một số quốc gia, số
tín đồ Phật giáo đã tụt xuống đứng sau Đạo Cơ Đốc, Đạo Ixlam và Đạo ấn
Độ, chiếm vị trí thứ tư. Căn cứ thống kê của “ Bách khoa toàn thư Cơ Đốc
5


giáo thế giới” xuất bản ở Oxford năm 1982, toàn thế giới hiện có
295.570.780 tín đồ Phật giáo. Con số này so với năm 1972 đã tăng lên
50.000 người ( năm 1972 có 244.800.300 người ). Tín đồ Phật giáo phát triển
so với tổng số dân trên toàn thế giới là rất nhỏ bé.
Trên thực tế hiện nay số lượng tín đồ Phật giáo trên thế giới đã tăng
lên rất nhiều, ước chừng khoảng trên 50 triệu người.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Phật giáo ở các nơi trên thế giới đã
trải qua những biến đổi khác nhau, đã xuất hiện một số đặc điểm mới.
II. Một góc suy ngẫm về ảnh hưởng của Phật giáo đến âm nhạc
Trịnh Công Sơn
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam:

Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã trở
thành một trong những hệ tư tưởng. Tơn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho
đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của
người Việt Nam
Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực thực dân phương
bắc, nhân dân Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật
đến với dân tộc ta bằng tinh thần hồ bình, hữu nghị
Sự tiếp nhận đạo phật trong hoàn cảnh như vậy, không thể bỏ qua vấn
đề nội dung của đạo phật. Điều đó có nghĩa là bản thân đạo phật phải có
những nội dung nào đó mà nhân dân Việt Nam có thể chấp nhận được.ở đây
chính là nội dung của hai nền tín ngưỡng có nét giống nhau, có lẽ do những
nét giống nhau mà có sự hợp nhất tạo nên các chùa pháp vân, pháp vũ, pháp
nôi, pháp điện. Tức là tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần của Việt Nam khi
đó có sự hợp nhất. Hình ảnh phật đã trở thành hình ảnh bụt
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là
phật giáo vốn dễ hồ hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được
truyền bá đến . ở bắc Việt Nam đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn
giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì phật
hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên ( trong tâm thức dân gian việt
6


cổ, phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc ‘người khác tộc ).
Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần ( thế lực siêu nhiên ) mà
con người cũng cầu để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì phật hay quan âm cũng trở
thành một loại thần, phật điện cũng trở thành một thứ thần điện, tính tâm linh
ấn độ nhường bước cho tính tính Việt Nam ( hơn đâu hết, tơn giáo Việt Nam
nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giỏi luật, đồn thể, tơn giáo )
Bụt người Việt Nam khơng phải thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ
Bonddha. Hình ảnh bụt của người Việt Nam là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu

tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần linh đương thời của người Việt Nam. Bụt
có những nét giống và khác phật.Bụt giốg phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối
với những người bị áp bức bóc lột.Nhưng bụt khác phật ở chỗ bất kỳ người
nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất
hiện ngay để cứu vớt các vị thần trong nhà nhưng lại có cái oai lực, uy quyền
hơn cả trời. Đối với những người bị áp bức trời ở quá xa, kêu trời khó thấu,
còn các thần linh gần nhưng lại yếu đuối, bất lực trước những việc quá sức
của mình quả là gần gũi ,cơng bằng vì phật khơng hề chia cấp bậc.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ
hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô tấm trong cổ
tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc.Phật giá
cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa
nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính
nỗ lực của bản thân mình. Người dân bình thường ở xứ ta ở phần bản chất
cũng có quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn khơng phải vì do họ
qn triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền. Mặc dù bát chánh đạo khơng
có gì là thần bí, nhưng dễ đã có mấy ơng sư nhớ đủ tám đường mà phật tổ đã
đề ra.Vấn đề là ở cái tinh thần quàn xuyến rút từ bát chánh đạo.Tinh thần ấy
là sự cố gắng tu dưỡng, vun thêm cho bản thân mình. Và họ cũng mong mỏi
một sự đền bù này, khi thấy phật tổ vạch ra cho họ và khẳng định điều tất
nhiên sẽ đến .
7


Điều quan trọng là văn hoá Việt Nam cổ tiếp thu một liều lượng quan
trọng văn hoá ấn độ qua ngả đường phật giáo, vào suốt thời bắc thuộc và
chống bắc thuộc, khi ảnh hưởng văn minh trung hoa tràn lan đất nước Việt
Nam và mang khuynh hướng đồng hoà rõ rệt.
Về khách quan, ảnh hưởng của văn hoá ấn độ là một đối trọng của văn
hoá trung hoa trên đất việt. Nó có tác dụng trung hồ ảnh hưởng q mạnh

mẽ của văn hố trung hoa; Nó góp sức cùng nền văn hoá Việt Nam cổ ngăn
chặn sự đồng hố của văn minh trung hoa, nó hội nhập và làm giàu làm nên
cái khác của văn hoá việt với văn hố trung hoa.
Tổ tiên chúng ta vốn có một nội lực tự sinh quật cường, bất khuất,
thích lối sống riêng tự do thuần phác từ thời Bắc thuộc, một lối sống không
quá ngăn cách giữa vua và dân, một lối sống khá bình đẳng giữa cha và con,
bình đẳng giữa vợ và chồng. Bởi vậy người Việt cổ khó lòng chấp nhận nổi
trật tự “ Cương thường “ của Nho gia. Nhưng người Việt bình dân cũng khó
lịng “ cãi lý” nổi với những nho sĩ, Nho gia “Bụng đầy chữ nghĩa”. Họ chỉ
còn biết dựa vào các sư sãi vừa có chữa nghĩa vừa bảo vệ họ, Sao chăng nữa,
đạo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành, chúng sinh là
Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng trước Phật.
Nếu như Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê với một “ tiểu triều
đình” trọng nam khinh nữ thì dân quê Việt Nam dựng và bảo vệ chùa, chùa
làng của dân gian và trước hết là giới đàn bà được loại khỏi sinh hoạt ở Đình
có thể sinh hoạt thậm chí trở thành lực lượng quan trọng trong sinh hoạt chùa
làng.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương
đối ổn định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước
nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí
thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nơng
thơn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tơn giáo xuất hiện ở Việt Nam như
Thiên chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hồ Hảo, Cơ đốc giáo, ... ngồi ba tơn giáo
8


chính từ xưa. Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam. Nhìn vào đời sống xã hội và
tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều biểu hiện

Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. ở nhiều vùng đất nước số người
theo Phật giáo ngày càng đơng, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng
nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời
sống tinh thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày
càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng, ta có thể tham khảo
bảng số liệu sau:
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam
rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa
trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ
siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng
tháng trở thành thói quen khơng thể thiếu của người theo Đạo phật. Mặt khác
nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... Tất
cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành
động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Chúng ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh
hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường
phổ thơng, các tổ chức đồn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo
như “ Lá lành đùm lá rách”., “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó” , “ quỹ viên
gạch hồng” ... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư
tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư
tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt
Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt
động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin
bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình.
Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô
đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp chúng ta, những học sinh,
sinh viên cịn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra
9



những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập
đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hố cho trẻ em nghèo,
chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo ... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên,
sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây
dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào.
Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ
năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng
những giá trị đạo đức tốt đẹp của ơng cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn
mà khơng chút nghĩ suy, tính tốn. Và ta khơng thể phủ nhận Phật giáo đã
góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó
trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu
cực. Trong khi có những sinh viên cịn khó khăn đã dồn hết sức mình để học
tập cống hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi,
đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt
gặp ở các quán Bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố
mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ
bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ơng bố bà mẹ cay
đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ
trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những
thứ ăn chơi sau đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc
giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những
phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà
Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là cơng việc cần thiết cần làm ngay.
2.2. Một góc suy ngẫm về ảnh hưởng của Phật giáo đến âm nhạc
Trịnh Công Sơn
Dân tộc Việt Nam là dân tộc của thi ca nhạc họa. Con người Việt Nam
rất đam mê nghệ thuật và gần như gắn bó suốt đời với nó - lúc vui cũng như
khi buồn đều tìm về với nghệ thuật. Đã là người Việt thì ai cũng thuộc và có
thể làm 1 vài bài thơ mà họ yêu thích.Ngay từ khi vừa lọt lịng họ đã được

10


nghe những lời hát ru âu yếm của Bà, của Mẹ; lớn lên 1 tí thì có những câu
hát đồng giao vui nhộn ; đến tuổi trưởng thành họ lại tìm đến những câu hát
giao duyên thật lãng mạn,tình tứ và cuối cùng khi về với thế giới bên kia họ
cũng được nghe những người thân yêu đưa tiễn bằng những điệu khúc bi ai.
Đó là lý do đưa đến sự bất tử cho nhiều ca khúc, nhiều nhạc sỹ đã sống mãi
trong trái tim của người dân Việt Nam.
Trịnh Công Sơn là người nhạc sỹ duy nhất không chỉ để lại phong
cách mà cịn tạo riêng cho mình một dấu ấn, một trường phái âm nhạc thực
thụ. Trịnh Công Sơn là một người con của xứ Huế mộng mơ - mảnh đất
được xem là trái tim của Phật giáo Việt Nam. Sinh ra và lớn lên trong những
năm tháng đau thương nhất của dân tộc, cùng với những trải nghiệm của
cuộc đời, Và cũng khơng sai khi nói rằng ông là một trong những thanh niên
ưu tú nhất của một thế hệ đầy tài năng mà xứ Huế sản sinh ra được. Cố nhạc
sỹ Trịnh Công Sơn đã để lại một khu vườn những ca khúc đẹp nhất tạo nên
một cơn gió mùa thu lạ lẫm xoay trịn mãi mãi trong khơng gian và thời gian.
Sự lạ lẫm đó khơi nguồn từ những giai điệu nhẹ nhàng được tô điểm bởi
những ca từ mang hơi thở của tư tưởng Phật giáo và những yếu tố tâm linh.
Đạo Phật đã đến với Trịnh Cơng Sơn qua nếp sống gia đình và rồi đi
vào âm nhạc của ông ngày càng sâu sắc hơn qua sự trải nghiệm thăng trầm
giữa cuộc đời. Bản thân Trịnh Cơng Sơn đã có lần viết:"Tơi vốn thích Triết
học và vì thế tơi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ
triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được". Trong quan niệm về
nhân sinh quan của nhà Phật, bên cạnh Ln hồi và Nghiệp cịn có Tứ diệu
đế. Với Tứ diêu đế thì đạo Phật quan niệm một trong những chân lý đầu tiên
là Khổ đế - chính là chân lý về sự Khổ (với 8 điều khổ mà con người phải
mang lấy ):
Sinh khổ


Thụ biệt ly khổ

Lão khổ

Oán tăng hội khổ

Bệnh khổ

Sở cầu bất đắc khổ

Tử khổ

Thụ ngũ uẩn khổ
11


Khổ đế là một đề tài rất là phổ biến trong nhạc của Trịnh Công Sơn.
Trong tuyệt phẩm Gọi tên bốn mùa ông đã hát: "tin buồn từ ngày mẹ cho
mang nặng kiếp người". Con người từ lúc mới lọt lịng mẹ đã mang vào
mình cái khổ của chúng sinh, phải chăng vì ý thức được điều đó mà đứa trẻ
nào khi mới sinh ra cũng bắt đầu bằng tiếng khóc để chào cuộc đời này hay
là trong vơ thức nó đã biết cái " khổ" của cuộc đời đang chờ đón nó ở phía
trước. Đã làm kiếp người thì phải ngụp lặn trong bể khổ thế nên Kinh Phật
cũng đã cho rằng ba phần tư diện tích của địa cầu là nước mắt của chúng
sinh. Có lẽ chiêm nghiệm được điều đó nên Trịnh Cơng Sơn đã khái qt lên
một câu hát gần như là chân lý.
Cuộc đời này đầy khổ và buồn vì khơng có gì là trường cửu cả. Theo
Kinh Kim cương tất cả các pháp hữu vi là "như sương mai - như ánh chớp".
Đây là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong

các tình khúc của mình: "Con chim ở đậu cành tre, con cá ở trọ trong khe
nước nguồn".
Không ai trong chúng ta là những người định cư vĩnh viễn, chỉ là
những người khách trọ lãng du trên trần gian này. Chỉ cần suy nghẫm từng
ấy thôi cũng đủ để mang đến cho con người ta nỗi khổ. Khi nghe những câu
hát này ai trong chúng ta cũng nghĩ đến quy luật nghiệt ngã của cuộc đời, mà
đã chọn lấy kiếp làm người thì dù sớm hay muộn cũng phải đi qua: sinh - lão
- bệnh - tử. Kinh Phật cũng từng giáo huấn: cuộc đời của mỗi con người
cũng chỉ là một Sátna - nhiều lúc chưa làm được gì thì đã vụt tắt-"Cuộc đời
đó có bao lâu mà hững hờ?". Nên có thể nói nhạc sỹ đã chọn một từ rất đắt
"ở trọ" để diễn tả,độc đáo ngay cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nó khơng chỉ
gợi mà cịn buộc con người ta phải cảm nhận thật sâu để chuẩn bị cho mình
một tâm lý đón nhận những cách ứng xử sao cho thanh thản với cuộc đời,
với mọi người.
Trần gian chỉ là nơi nương nhờ tạm bợ,ý thức được điều ấy nên ai
cũng khát khao, vội vàng tìm kiếm cho mình một chốn ẩn náu. Với Trịnh
Công Sơn chổ ẩn náu tuyệt vời nhất đó là Tình u. Nhưng nghiệt ngã thay
12


tình yêu rồi cũng mất đi.Nếu lắng nghe thì tình yêu trong các tình khúc của
Trịnh cũng chỉ là " vơ thường". Những tình khúc của ơng là những lời tuyên
bố siêu hình rằng: “ những đổ vỡ tình yêu không phải là những chông gai
nho nhỏ trên con đường đời đẹp đẽ vô song". Khi thưởng thức nhạc Trịnh
nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phải thốt lên: " đó là những bài kinh cầu
bên bờ vực thẳm". Những bài ca này là những lời nhắc nhở cho mỗi chúng ta
về lẽ vơ thường khơng gì là bất biến, là tĩnh tại mà nó ln ln vận động và
biến đổi. Có ai hiểu được những điều này thì mới hiểu được tình u, hiểu
được tình u thì mới có thể cảm nhận hết cái hay, cái đẹp của nhạc Trịnh.
Một đề tài Phật giáo khác trong nhạc Trịnh Công Sơn là thuyết luân

hồi - khi con người mất đi ở nơi này thì sẽ xuất hiện ở nơi khác trong sáu
cõi:
Địa ngục

Atula

Ngạ quỷ

Cõi thần

Súc sinh

Niết bàn

Luân hồi với Trịnh đó là những ca từ: "Khơng có đâu em này, khơng
có cái chết đầu tiên; khơng có đâu em này, khơng có cái chết sau cùng", " hạt
bụi nào hố kiếp thân tôi để một mai tôi về làm cát bụi" hay " ta thấy em
trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khơ". Hình như Trịnh Cơng Sơn đồng ý với
Đạo Phật rằng hiện tại chỉ là hình bóng của q khứ và tương lai là hình
bóng của hiện tại. Ông cũng tỏ ra chấp nhận thuyết luân hồi của nhà Phật nên
nhiều câu hát đã làm nhạt nhòa đi biên giới giữa đi và về như trong ca khúc
Phôi pha "có những ai xa đời quay về lại / về lại nơi cuối trời". Nếu chết là
để đi đến nơi tái sinh thì khi ta ra đi nghĩa là ta đang trở lại. Nhìn sống và
chết cũng như nhìn nước chảy trên sông để rồi tự hỏi "nước đang ra đi hay
nước đang trở về". Đó là ý của nhạc sỹ ở Gần như niềm tuyệt vọng: "
những ngàn xưa trôi đến bây giờ/ sông ra đi hay mới bước về".
Cũng theo Đạo Phật khơng có cái Ta trường cửu nhưng mà có một
chút gì trong cái ta đã mất được tiếp nối trong cái ta tái sinh. Quá trình này
thường được so sánh như khi ta thắp một cây nến từ một cây nến khác - có
13



cái ra đi và cũng có cái ở lại như một cõi đi về mà nhạc sỹ Trịnh Công Sơn
đã thể hiện trong bài ca cùng nhan đề: "bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi
đâu lanh quanh cho đời mỏi mệt...lại thấy trong ta hiện bóng con người".
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo là sự siêu thực và siêu lý luận của
các câu thơ, câu văn trong các tình khúc của Nhạc sỹ Trịnh Cơng Sơn. “ Mưa
vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thưở mắt xanh xao. Nghe lá
thu mưa reo mòn gót nhỏ. Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu”. Không chỉ
dừng lại ở sự vật hiện tượng cụ thể mà âm nhạc ở đây cịn được khốc lên
mình chiếc áo siêu thực lung linh như giọt nắng đầu mùa.
Nếu như chúng ta nhìn một cách sâu hơn về âm nhạc Trịnh Công Sơn,
chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra được rằng những tư tưởng triết lý Phật giáo
nhẹ nhàng đã phả đều trên suốt hành trình ra đời của các ca khúc của ơng.
Điều này nói lên rằng triết học Phật giáo đã có ảnh hưởng rất lớn đối với tư
tưởng sáng tạo nghệ thuật của nhạc sỹ họ Trịnh. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã
dùng âm nhạc với sự ảnh hưởng đó để chuyển tải đến mọi người những
thơng điệp của cuộc sống, chính vì vậy những ca khúc của ông trở thành
những lời Kinh nhẹ nhàng bàng bạc trong đời sống tinh thần của con người
Việt Nam. Và cũng phải công nhận rằng tư tưởng, tâm hồn của biết bao thế
hệ đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ âm nhạc của ông.

14


Phần C: kết luận
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được
nguồn gốc ra đời của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của
nó đến xã hội và người dân ta, đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc
biệt đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đó là vấn

đề xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam trong
tương lai với sự hỗ trợ của những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo,
cũng như một số tư tưởng tơn giáo khác.
Dù cịn những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ
nhận những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng
hướng nội của Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc
các hành động của mình để khơng gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác.
Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Tuy
nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ.
Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có địi
hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng
chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn
tồn tại và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt
nhân tích cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt
Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp
15


giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản thân cá nhân, một
sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng
vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về
trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế thừa truyền
thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ
và xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.

Tài liệu tham khảo
1. GS. TS Nguyễn Hữu Vui - Lịch sử Triết học (NXB Chính trị Quốc
Gia).
2. Nhiều tác giả - Giáo trình Triết học (NXB Chính trị Hành chính Hà

Nội - 2008).
3. Viện triết học - Lịch sử Phật giáo Việt Nam ( NXB khoa học xã hội
Hà Nội - 1988 )
4. Nhiều tác giả - Mười tôn giáo lớn trên thế giới ( 1999)

16



×