Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích hình ảnh sông Hương ở vùng thượng nguồn và đoạn chảy trong lòng thành phố. Từ đó nhận xét về văn phong của Hoàng phủ Ngọc Tường trong đoạn trích "Ai đặt tên cho dòng sông"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.7 KB, 8 trang )

Đề bài: Phân tích hình ảnh sơng Hương ở vùng thượng nguồn và đoạn chảy trong lịng
thành phố. Từ đó nhận xét về văn phong của Hoàng phủ Ngọc Tường trong đoạn trích
Ai đặt tên cho dịng sơng
Bài làm
Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dịng sơng Hương chưa? Sơng Hương chính
là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngịi bút của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương
lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với
phong cảnh hữu tình đó là dịng sơng quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
Hồng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ơng là một nhà văn
chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã
có cơng đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho
dịng sơng?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986. Tác phẩm đã làm nổi
bật phong cách nghệ thuật của Hồng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, giàu chất thơ và
giàu trí tưởng tượng.
Sơng Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái
tơi của nhà văn. Sơng Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế.
Chính vì vậy, sơng Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lý
đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.
Ở góc độ địa lý, Hồng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để
phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dịng sơng. Đây là dịng sơng có mối quan hệ mật thiết
với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu
hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua
ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”. Sông Hương mang dáng vẻ trữ
tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa để bạn đọc cảm nhận được
sơng Hương như một “cơ gái Di- gan phóng khống và man dại” với “một bản lĩnh gan dạ,
một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dịng sơng nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ. Nhà
văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn


xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dịng


sơng. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sơng là “bản trường ca
của rừng già”, là “cô gái Di- gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sơng trong liên
tưởng với một cơ gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương
được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.
Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu dàng
và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sơng đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình.
Sơng Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm
lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dịng chảy trơi đi thật chậm. Sơng Hương
mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp của
người con gái Di - gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức
bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dịng liên tục. Dịng
sơng có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về, sơng
Hương cịn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ n bình.
Khi chảy vào thành phố Huế, sơng Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân u,
sơng Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ơ Kim Long.
“Dịng sơng kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tự uốn một
cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dịng sơng mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” khơng
nói ra của tình u. Sơng Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ
Huế, của con người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với
các dịng sơng khác ở cảnh “lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh
hồn Mô - tê xưa cũ”.
Sơng Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tịi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng
lơ, kín đáo của tình u. Nhìn bằng con mắt hội họa, sơng Hương và những chi lưu của nó
tạo nên những nét cổ kính của cố đơ. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sơng Hương như một
điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái
tim đa tình, sơng Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều
phương diện dưới các góc độ khác nhau. Dưới cái nhìn của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng
Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác,



là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực.
Sơng Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.
Sơng Hương là dịng sơng lịch sử. Dịng sơng được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dịng sơng viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo
vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dịng sơng ấy cịn vẻ vang soi
bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng
Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng
kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.
Khơng chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sơng Hương cịn được nhìn dưới góc độ
văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông
Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya”. Từ đó, Hồng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương.
Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh
thành trên mặt nước của dịng sơng này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi
bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về
đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa
nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dịng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân
nga khi vào Huế để nhìn nhận. Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ
vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hị dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến
truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời
từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nơi của văn chương,
văn hóa. Từ góc độ thơ ca, sơng Hương khơng bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của
những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hồng Phủ Ngọc
Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dịng sơng trắng - Lá cây
xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc
Tường về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Đây là minh chứng thời gian của những
tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng
như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Qt. Sơng Hương quan hồi trong
nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ

Tố Hữu. Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sơng Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách


so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết
trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà
văn giàu chất thơ.
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng ?” là bài kí đặc sắc về con sơng Hương của xứ Huế qua đó đã
thể hiện cái “tơi” cá nhân của Hồng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tơi” tài hoa, un bác.
Sơng Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sơng Hương là dịng sơng của âm
nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về vẻ đẹp của con
người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng
kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dịng sơng. Sơng Hương
được tơ đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sơng Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa
xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa từ bao
đời nay. Sơng Hương cịn được cảm nhận qua lăng kính của tình u. Thủy trình của sơng
Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, khi chảy giữa thành phố Huế,
sơng Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u. Trước khi đổ
ra cửa biển, sơng Hương như “người con gái dùng dằng chia tay người yêu”, thể hiện một
nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tơi” của tác giả là một cái “tơi” nặng lịng
với q hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải u q hương lắm thì mới có thể lột tả dịng
sơng q hương một cách xuất sắc như vậy. Nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để
theo dõi tồn bộ thủy trình của dịng sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên
quan. Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể
dịng sơng đã có những thay đổi ra sao. Cái “tơi” của Hồng Phủ Ngọc Tường thật là một cái
“tôi” đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân
trọng vẻ đẹp của dịng sơng và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cơ gái Di - gan, người
mẹ phù sa, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ
khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du, Tố Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn
được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên sơng Hương. Tất cả những điều đó đã tạo
nên một cái “tơi” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hồng Phủ Ngọc

Tường.
Đoạn trích là đoạn văn xi súc tích và đầy chất thơ về sơng Hương. Dưới cái nhìn tài hoa,
uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử


đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp
tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vơ giác nay
bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ,
quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã
đặt tên cho dịng sơng?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con
người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà
văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác
giả trên con đường văn học ở thể bút ký đồng thời cũng thể hiện cái “tơi” cá nhân riêng biệt,
trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương
đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hơm nay. Phải chăng vì thế mà
trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cơ giáo dạy phải u
Q hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” là một tìm tịi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và
khẳng định được tài năng un bác của mình. Chính vì thế mà sơng Hương đã trở thành một
dịng sơng bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.
Bài làm 2
Hồng Phủ Ngọc Tường là một trí thức u nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình
vực. Ơng chun về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hồng Phủ Ngọc Tường
là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy
tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối

hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là bài bút ký
xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.


Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sơng với lịch sử
và văn hố của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng
dành cho dịng sơng Hương, cho xứ Huế thân u và cũng là cho đất nước.
Sơng Hương nhìn từ cội nguồn là dịng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn.
Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già với
nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua
ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Với cái nhìn được nhân hố, sơng Hương tựa cơ gái Di-gan phóng khống và man dại với
một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn
ngắm khn mặt kinh thành mà khơng chú ý tìm hiểu sơng Hương từ nguồn cội, người ta
khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dịng sơng mà chính nó đã
khơng muốn bộc lộ.
Như vậy, ở thượng nguồn, sơng Hương có thể chất mạnh, tốt lên vẻ đẹp của một sức sống
mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sơng Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ
đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hố, khơng gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành
người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đơ, sơng Hương đã trải qua một hành trình đầy
gian trn và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, tồn bộ thuỷ
trình của dịng sơng tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của
người con gái trong một câu chuyện tình u nhuốm màu cổ tích.
Đoạn tả sơng Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm và tài
hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt
động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Giữa
cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay
sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên
sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng

những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình cung thật trịn, ơm lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi
“vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…


Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sơng Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh.
Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi
qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng
thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên
Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật
một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kỳ thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài
hồ.
Sơng Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu,
sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ơ Kim Long”,
dịng sơng “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một
cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng”
khơng nói là của tình u”. Nằm ngay giữa lịng thành phố u q của mình, sơng Hương
cũng giống sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,… nhưng trong cách biểu đạt tài
hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội
hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp
cổ kính của cố đơ; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi,
sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sơng Hương là người tình
dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời
khỏi kinh thành, sơng Hương chếch về hướng chính bắc, ơm lấy đảo Cồn Hến quanh năm
mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc
của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì
chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng đơng tây để gặp lại thành phố lần
cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như
một “nỗi vương vấn”, và dường như cịn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…

Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi
dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dịng sơng biên thuỳ xa xơi của đất nước các
vua Hùng, thủa nó mang tên là Linh Giang (dịng sơng thiêng) trong sách Dư địa chí của


Nguyễn Trãi, là “dịng sơng viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của
Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân
của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế
kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ
quốc sau này…
Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những
thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dịng
sơng là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến cơng, để rồi nó trở
về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính
điều đó đã làm cho sơng Hương khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ
sĩ.
Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình u say đắm với
dịng sơng được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu
biết sâu rộng về văn hố, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng
nội, tinh tế và tài hoa.
Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dịng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người
Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dịng sơng Hương. Ơng xứng
đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu
nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình u, niềm tự hào đối với dịng
sơng và cũng là với quê hương đất nước.




×