Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Bình giảng bài thơ "Mộ" (Chiều tối) trích "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.02 KB, 3 trang )

Đề bài: Bình giảng bài thơ "Mộ" (Chiều tối) trích "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh.
Bài làm
Có ai đó, khi nghĩ về thơ Bác, đã nói rằng, sự phân tích cho dù khéo léo dến đâu, cũng khơng
làm nổi bật được hồn thơ. Cũng như tựa là, có gượng nhẹ tay bóc từng lớp cánh hoa hồng
cũng chưa dễ gì tìm thấy bí quyết hương thơm.
Mộ (Chiều tối) có thể là một đóa hoa thơ như thế. Bài thơ rõ ràng đã để lại trong ta, man mác
không cùng, một rung động thật sâu sa, đẹp đẽ. Nhưng đó là nỗi rung động thật khó diễn tả,
chẳng khác nào ta vẫn khó nắm bắt bí ẩn của hương thơm khi ngón tay cố lật mở những cánh
hồng. Song có lẽ vẫn cứ nên thử sẽ sàng lật mở những dịng thơ, để gắng cảm thấu những ý
tình được chứa đựng trong từng hàng chữ.
Một người yêu đời say mê cuộc sống bao giờ cũng nhạy cảm trước thời gian. Đối với Hồ Chí
Minh, thời gian là nhịp điệu của vũ trụ, nhịp sống của con người, thời gian là sự vận động
phát triển của cuộc sống. Khi rơi vào hoàn cảnh tù đày, một hoàn cảnh mà thời gian tâm
trạng có độ dài gấp hàng ngàn lần thời gian tự nhiên thì ý thức thời gian của Bác cũng được
biểu hiện rõ nét. Đọc bài Chiều tối (Mộ) chúng ta không những thấy được cảm nhận thời
gian của Bác mà còn hiểu được dòng tâm trạng của thi nhân trong bước lưu chuyển của thời
gian, trong nhịp sống cuộc đời.
Có lẽ cảm hứng của bài thơ Chiều tối xuất phát từ một buổi chiều, trên con đường bị giải,
chặng cuối cùng của một ngày bị đày ải, người đi vừa trải qua một chặng đường dài với bao
vất vả gian lao. Thời gian và hoàn cảnh dễ gây nên trạng thái mệt mỏi, chán chường. Vậy mà
cảm hứng thơ lại đến với Bác thật tự nhiên:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng.
Hai câu thơ đã tái hiện thời gian và không gian của buổi chiều tối chốn núi rừng. Lúc ấy
người đi ngước mắt nhìn lên bầu trời và chợt thấy chim bay về tổ, mây chầm chậm trôi. Nhà
thơ không trực tiếp nói về thời gian nhưng thời gian vẫn hiện lên qua cảnh vật. Đây là cảm
nhận thời gian tính truyền thống đã từng in đậm qua nhiều bài thơ. Chim bay về tổ có ý
nghĩa báo hiệu thời gian của buổi chiều tối. Từ trong ca dao đã có hình ảnh:
Chim bay về núi tối rồi
Đến Truyện Kiều cánh chim mang theo cả thời gian và tâm trạng:
Chim hôm thoi thót về rừng,




Rồi buổi chiều nghiêng xuống theo cánh chim nhỏ bé trong Tràng giang của Huy Cận:
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Cịn hai câu thơ của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa biểu hiện thời gian vừa có ý biểu hiện tâm
trạng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ.
Ở đây khơng phải chim bay trong trạng thái bình thường mà bay mệt mỏi, bay mải miết cho
kịp tới chốn nghỉ ngơi nơi rừng xanh quen thuộc. Qua hình ảnh chim mệt mỏi, người đi cịn
tìm thấy sự tương đồng hịa hợp với cảnh ngộ và tâm trạng của mình. Cánh chim mệt mỏi
mải miết bay về rừng xanh tìm chốn ngủ, nhà thơ cũng mệt mỏi lê bước trên đường đi đày,
giờ đây không biết đâu là chặng nghỉ qua đêm. Sự tương đồng ấy dễ tạo nên sự cảm thông
sâu sắc giữa người và cảnh. Cội nguồn của sự cảm thơng chính là tình u thương rộng lớn
của Bác ln dành cho mọi sự sống chân chính ở trên đời.
Câu thơ thứ hai tiếp tục phác họa không gian, thời gian và tâm trạng:
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng không
Câu thơ dịch chưa chuyển hết được ý tứ trong nguyên bản. Trong nguyên bản Bác viết:
Cô văn mạn mạn độ thiên khơng
(Chịm mây lẻ loi trơi lững lờ giữa tầng khơng)
Chịm mây như có tâm hồn, như mang tâm trạng. Nó cơ đơn, lẻ loi và lặng lẽ lững lờ trôi
giữa không gian rộng lớn của trời chiều. Bầu trời có chim, có mây nhưng lẻ loi (cơ vân),
chim mệt mỏi (quyện điểu) đã thế lại đang ở trong cảnh ngộ chia lìa. Chim bay về rừng,
chịm mây ở lại giữa tầng không. Hai câu thơ tả cảnh mà mở ra một không gian tâm trạng.
Cảnh buồn, người buồn. Nhưng trong nỗi buồn trước cảnh chiều muộn cịn có một khát vọng
tự do ẩn kín trong đơi mắt dõi theo cánh chim lẫn mây giữa bầu trời rộng.
Hai câu thơ tiếp theo tái hiện quá trình vận động của thời gian và khơng gian:
Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết, lị than đã rực hồng.
(Sơn thơn thiếu hữ ma bao túc
Bao túc ma hồn, lơ dĩ hồng)

Cảm quan biện chứng về thời gian thấm vào từng hình ảnh, sự vật, sự chuyển đổi của các
hình ảnh đã dợi lên bước đi thời gian. Trong nghệ thuật thơ ca, nhà thơ có thể dùng xa để nói
gần, dùng động để nói tĩnh, dùng sáng để nói tối. Trong bài thơ Chiều tối, Bác khơng hề nói


đến tối mà người đọc vẫn hiểu được bóng tối đang bng xuống ở xóm núi là nhờ có chữ
hồng ở cuối bài thơ. Trời tối người đi mới nhìn thấy ánh lửa rực hồng lên đến thế.
Cũng như nhiều bài thơ khác của Bác, hình tượng thơ trong bài Chiều tối vận động thật khỏe
khoắn và bất ngờ. Trong cảnh chiều muộn ở vùng sơn cước tưởng chừng chỉ có bóng tối
hồng hơn bao phủ, chỉ có heo hút quạnh hiu, nào ngờ có ánh sáng ấm áp đã rực lên xua tan
giá lanh, bóng tối. Sự xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ trong khung cảnh lao động, bên lò
than rực hồng đã mang lại ánh sáng và niềm vui, mang lại sự sống mãnh liệt và ấm áp. Mặc
dù thời gian vận động từ chiều đến tối, từ ngày sang đêm nhưng hình tượng bài thơ vẫn vận
động theo xu thế phát triển. Đến hai câu thơ này, bức họa trữ tình về trời mây đã nhường chỗ
cho bức tranh sinh hoạt gần gũi: một thiếu nữ sơn thôn, với công việc lao động bên bếp lửa
gia đình. Một chất thơ khác, một hồn thơ trữ tình khác đã được đưa vào, để làm cho vẻ đẹp
của buổi chiều hơm thêm hài hịa phong phú.
Khi bóng tối của ngày tàn buông xuống nhưng không gian không hề tăm tối, con người đã
kịp thắp lên ngọn lửa, con người đã tạo nên ánh sáng, tạo nên hơi ấm để sưởi ấm cho người,
cho cảnh thiên nhiên. Ánh sáng, hơi ấm, con người đã đưa lại niềm vui bình dị cho người tù
xa xứ. Trong cảnh ngộ buồn của riêng mình, Bác vẫn tìm thấy niềm vui. Niềm vui ấy xuất
phát từ cuộc sống lao động của người dân Trung Hoa trên một xóm núi nào đó. Nếu khơng
có một tình người tha thiết thì làm sao Bác có được một niềm vui như thế giữa đất người xứ
lạ.
Bài thơ Chiều tối không chỉ miêu tả cảnh nơi sơn cước với làn mây, cánh chim và cuộc sống
lao động của con người. Tốt lên tồn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình, có tấm lịng
u thương rộng lớn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tâm hồn lạc quan,
mạch thơ có sự vận động đến sự sống, ánh sáng và tương lai. Chính cách nhìn biện chứng về
thời và cuộc sống, chính tình người tha thiết đã tạo nên giá trị to lớn cho thi phẩm đặc sắc
này.




×