Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Văn mẫu lớp 11: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.92 KB, 10 trang )

Văn mẫu lớp 11: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa
trẻ của Thạch Lam
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, giới thiệu tác phẩm Hai đứa trẻ. Đặc biệt nhấn mạnh

giá trị hiện thực.
- Chủ đề của truyện: Kiếp sống nghèo khổ, quẩn quanh trong đời sống tẻ nhạt, vô vị và
khát khao hướng tới cuộc sống tươi sáng của người lao động nghèo.
II. Thân bài: Trình bày những biểu hiện tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm:

– Tác phẩm trước hết là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn, những cuộc đời
tàn
- Hình ảnh ngày tàn: tiếng trống thu khơng; mặt trời lặn; bóng tối nhanh chóng ngập tràn.
- Hình ảnh phiên chợ tàn: người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi;
hình ảnh mấy đứa trẻ con đi lại tìm tịi. Tất cả gợi sự buồn tẻ, nghèo nàn.
- Hình ảnh những kiếp người tàn; Một nhóm nhân vật lặng lẽ trong bóng tối, ít nói năng,
ít hành động. Ngày lao động vất vả, đêm xuống buôn bán kiếm thêm nhưng rất ế ẩm.
Cuộc sống mòn mỏi, tẻ nhạt quẩn quanh trong kiếp nghèo.
– Tác phẩm còn là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn (chú ý
hình ảnh đồn tàu và sự chờ đợi háo hức của người dân phố huyện hướng về đoàn tàu, đặc
biệt chú ý tâm trạng của hai chị em Liên).
- Ý nghĩa của hình ảnh đồn tàu: Đồn tàu như đem một chút thế giới khác đi qua: tươi
sáng, rộn rã, sang trọng (khác hẳn đời sống mờ nhạt, tăm tối, buồn tẻ, nghèo khổ muôn
thuở của họ). Người ta nhìn đồn tàu đi qua, lặng lẽ mơ tưởng theo. Họ mong muốn, khát
khao cuộc sống tươi đẹp hơn.
III. Kết bài:

– Khẳng định lại tài năng của Thạch Lam
– Cùng với những truyện ngắn khác của ông, Hai đứa trẻ đã góp phần thể hiện sự tài hoa,
xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám 1945.



Bài tham khảo số 1
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn khơng có cốt truyện, nó chi ghi lại một góc đời thường của
những sơ phận cơ hàn, nhưng thê mà Hai đứa trẻ đã toát lên yếu tố hiện thực và tấm lòng
nhân đạo cao cả của Thạch Lam qua mẩu chuyện lãng mạn nhưng rất hiện thực.
Câu chuyện mở ra cho ta một buổi chiều tà ở một phố huyện nhỏ bé xa xôi, nơi chị em
Liên đang trải qua những ngày thơ ấu khó khăn…
“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Phương tây dỏ rực… dám mây ánh hồng…”
Giọng văn mở đầu riêng nó cũng đã đủ toát lên cái vẻ êm ả và hiu quạnh của một buôi
chiều như bao buổi chiều ở một phơ huyện đìu hiu, nghèo nàn. Chị em Liên đang dọn
hàng sau một ngày buôn bán ế ẩm. Nhưng không chỉ có chị epi Liên, mà cịn những chị
Tí, bác Siêu… cũng phải trải qua những chuỗi ngày đen tối nhất. Chị Tí ngày “mị cua bắt
ốc”, tối đi bán nước, cuộc sống nó cứ bắt đầu như thê và vẫn kết thúc như thế, cứ như cái
vòng lẩn quẩn mà họ khơng sao tìm ra lối thốt. những con người, những con đường… tất
cả đều hiện lên với cái vé xơ xác của nó, gợi lên cho ta một cuộc sống ngột ngạt tôi tăm.
Chỉ bằng giọng vàn êm ả, không thôi, cả cuộc đời chung của những số phận riêng đã hiện
lèn ngột ngạt, khó chịu: “Chiếc chõng long nan”, “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…” cùa phiên
chợ bốc lên, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã miêu tả được cuộc sống đó. những cuộc đời
nghèo khó của chị em Liên, của chị Tí, của những đứa trẻ con nhà nghèo hiện lên rất thực,
không lãng mạn chút nào. Giọng văn cứ trôi đều đều, gợi lên cái chết cứng của không
gian và thời gian để phố huyện nghèo nàn ấy hiện lên rõ nét. Và đặc biệt, giữa khơng khí
phố huyện tĩnh lặng đến ghêsợ đó, lại vang lên tiếng cười của một bà già điên, vượt qua
không gian nhỏ nhoi để lột trần cuộc sống mỏi mòn bế tắc của một con người và của bao
con người. Đây là một chi tiết khá đặc sắc của Thạch Lam, nhà văn đã dùng nó đê miêu tả
chính xác vẻ ảm đạm thê lương những cuộc đời vô vọng. Và đây là lúc Thạch Lam thầm
kín bày tỏ tấm lịng êm mát sâu kín của mình đơi với những cuộc đời râ"t thực đó… Ân


sau những nỗi buồn cuộc đời chị em Liên là tình thương của Thạch Lam đơi với những số
phận nghèo nàn. Đó là tình u thương đồng loại giữa những cuộc sống đói rách, đó là

tâm lịng thương xót của Liên khi thấy “những trẻ em nhà nghèo nhặt nhạnh” những gì có
thế được, nhưng “khơng có tiền để cho”… chi tiết vừa hiện thực, vừa lãng mạn, mn nói
lên lịng thương người thầm kín của tác giả, mộc mạc, đơn sơ nhưng rất thiêng liêng cao
cả.
Đó là thực tại, còn tương lai của họ cũng chẳng tươi sáng chút nào. Những con đường cát
“mấp mố củng chẳng khác gì cuộc đời họ, những con đường nhỏ bé, đầy rác rưởi sẽ đưa
chị em Liên, chị Tí, bác Siêu… về đâu. Chi tiết “con đường con” của Thạch Lam rất thực
đã nêú lên cái tương lai ảm đạm nhưng cũng rất thực của bao người khôn khô kia. An
đằng sau cái lãng mạn, chan chứa tình người của câu văn nhẹ nhàng là một hiện thực lớn
lao về cuộc sống tôi tăm cơ cực của bao người. Con đường kia họ đã đi bao lần trong phố
huyện nhỏ bé này, sáng đi kiếm sông, chiều tôi lại về, cũng trên con đường đó. Tương lai
mở ra trước mắt họ chỉ là con đường vịng nhỏ hẹp khơng lối thốt kia. Đó là hiện thực
khủng khiếp đang đe dọa cuộc đời những con người lầm than.
Giữa lúc tôi tăm ấy, quá khứ xa xăm ấy đã hiện về với chị em Liên như thứ ánh sáng mơ
hồ hắt ra từ những ngọn đèn leo lét. Thạch Lam đã sử dụng thứ ánh sáng kia rất đặc biệt,
đó là ánh sáng hiu hắt của quá khứ, đang hội tụ về thực tại. Ánh sáng leo lót soi rọi con
đường cát “mấp mố kia là chi tiết tả thực pha chút lãng mạn, nhưng đều tập trung vào việc
miêu tả những cuộc đời thật kia. Giữa lúc tôi tăm không ai câm chị em Liên mơ tưởng về
những ánh đèn rực rỡ năm nào, nó là niềm an ủi cho thực tại, hi vọng của tương lai. Thật
không quá lãng mạn chút nào! Ánh sáng leo ỉét của những ngọn đèn tỏa ra một vùng
không gian nhỏ bé, SOI rọi về quá khứ mơ hồ đem đến cho người đọc hôm nay niềm xúc
động lạ. Chỉ với lòng nhân đạo bao la, một quan niệm nhân bản thật sâu sắc tác giả mới
có thê cho ta chi tiết xúc động đến thế! Tìm thấy mình trong quá khứ đê rồi an ủi động
viên mình trước thực tại đau buồn, đó là cái cỞ rất chính đáng để chị em Liên thức đợi
chuyến tàu đêm nay. Tiêng còi tàu hụ từ xa như là âm thanh của quá khứ vọng về thực tại


để đưa chị em Liên cố gắng thu vào tất cả hình ảnh chuyến tàu như đi từ quá khứ, mang
đến cho chị em cô kỉ niệm sáng rực ở Hà Nội có đen sáng lấp lánh. Ta lại gặp những ánh
đèn, của năm xưa đang mơ hồ soi đến. Tác giả đã sử dụng ánh

sáng thật khéo léo, để làm nổi bật sự tương phản của bóng đêm thực tại và quá khứ lấp
lánh. Chị em Liên lại được nhìn những người “từ Hà Nội” về, con tàu “đồng kền sáng lấp
lánh” soi rọi cả một vùng trời mơ ước trong tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ. Giá trị nhân
văn sâu sắc của truyện ngắn là ở đây, bằng tất cả tấm lòng yêu thương, nhà văn đã đem
đến cho họ một chút gì đó để hi vọng mà đáng sống.
Nhưng rồi kí niệm đẹp nào rồi cũng trôi qua, con tàu lao vùn vụt từ quá khứ về đến thực
tại, rồi lại lao nhanh vào đêm tối xa xăm, để lại cho chị em Liên ánh sáng của ngọn đèn
tàu với bao luyến tiếc. Chuyến tàu đã đem lại cho Liên những kỉ niệm về “Hà Nội nhiều
đèn” rực rờ ánh sáng của năm nào, đưa hai đứa trẻ ngây thơ đến sống với một “thế giới
khác hẳn” nào đó. Liên cảm thấy mình sơng giữa “sự xa xôi không biết”, ánh sáng leo lét
cuối cùng của quá khứ, hơi ấm của quê hương đã khép lại tâm hồn nhỏ bé của Liên, đưa
cô đến một giấc mơ tuyệt vời.
Câu chuyện đã khép lại nhưng vẫn để lại trong ta bao suy nghĩ. Câu chuyện được xây
dựng theo phương pháp lãng mạn nhưng đã chất chứa bao hiện thực của cuộc sống lam lũ,
đói rách. Chính với những cảu văn nhẹ nhàng, Thạch Lam đã đi vào cuộc sống nghèo nàn,
cùng quẫn khơng lối thốt của chị em Liên, của chị Tí… Đằng sau những câu văn nhẹ
nhàng đó là tấm lịng sâu kín của tác giả với bao số phận nghèo khó. Với lịng nhân đạo
bao la, Thạch Lam đã xây dựng một câu chuyện mang tính nhân văn rất cao. Ơng đã đem
đến cho họ ánh đèn rực rỡ của quá khứ năm nào, nhà văn đã đem đến cho chị em Liên
một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” mà giờ đây là quá khứ tuyệt
vời bao người đang khát vọng…
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam mang giá trị nhân bản rất sâu sắc, được xây
dựng theo thủ pháp lãng mạn pha lẫn yêu tố hiện thực, và bao trùm lên tất cả là tấm lòng


nhân đạo của nhà văn. Đó là câu chuyện của một thời đã qua, nhưng hôm nay vẫn để lại
trong ta bao điều tốt đẹp đáng trân trọng và ta hi vọng rằng sẽ chẳng bao giờ còn những
em thơ mòn mỏi chờ chuyến tàu đêm nữa. cuộc sống mới đang đến và sè đến với mọi
người.


Bài tham khảo số 2
“Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người
luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với
nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc
sắc. Tác phẩm đã gieo vào lịng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống
con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn
từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hồng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã
lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy kkóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn
nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi
chiều êm như ru, như bao chiều khác.
Là một mơ típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của
buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu
lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu
mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong
Hai đứa trẻ.
Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con
người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới
từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những


người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người
đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay
cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa qn mà đợi
chờ. Hiện thực khơng làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần
cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất
văn lãng mạn.
Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm

tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu
không" đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá
nhem tối đến khơng gian đã khuya khơng cịn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm
trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật
khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm
hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân
vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của
nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên
mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.
Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu
văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng
cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi
phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng
người về muộn từ từ trong đêm”.


Nếu như đầu tối phố huyện cịn được “trang hồng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những
quán bên đường thì bây giờ chỉ cịn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa
nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm
đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy”
nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ
đom đóm lập lịe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên
nhiên được nhà vãn '‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có
cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn.
Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh
khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ
chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm,

manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn
như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là
một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những
hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương
vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm
đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói,
miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một
đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển
chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon
chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một khơng khí chan hịa thực sự, ấm áp tình
người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.


Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng
thanh thốt, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.
Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh
bao quát mà đắm lại ở những trang viết vể chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn
đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc "bởi nội tâm sâu sắc của một con
người đa cảm.
Khi màn đêm đã bắt đầu bng xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác
trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác
trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm
chị khơng khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ
đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu
tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một
sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc

sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của
cảnh ngồi kia, Liên đã thốt lên rồi.
Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm
giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi
con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt cua Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sơng cùa cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở
một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi
trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của mơi trường
xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng
đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.


Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như qi gở và vơ nghĩa, đó là
“đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh
Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận,
săn tìm một tín hiệu vui.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi
cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó
làm lịng Liên dấy lên nỗi buồn vơ hình. Con tàu vơ cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy
nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm
dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của
Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng
vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người,
cịn con người thì chỉ biết bằng lịng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm
mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi ", nhưng rồi
Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh
mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác
gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã
hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước
khơng le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu

cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.
Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống
bon chen đã khơng làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một
tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để
mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ
khá hồn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm
vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng
màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một
cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.


Thành cơng của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu
hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ơng một sức
sống trường tồn trong lịng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa
truyện lên một tầng cao mới.
Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị
em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơa nữa”.
Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch
Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài thơ trữ tình
đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.



×