Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Các biện pháp nâng cao chất lượng dạy nghề phổ thông tại trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp Thường Tín Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.1 KB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

CẨN THỊ THUẬN

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẬY NGHỀ PHỔ
THÔNG TẠI TRUNG TÂM KỸ THUẬT TỔNG HỢP- HƯỚNG
NGHIỆP THƯỜNG TÍN- HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÀNH SƯ PHẠM KỸ THUẬT ĐIỆN

Hà Nội, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

CẨN THỊ THUẬN

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẬY NGHỀ PHỔ
THÔNG TẠI TRUNG TÂM KỸ THUẬT TỔNG HỢP- HƯỚNG NGHIỆP
THƯỜNG TÍN- HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÀNH SƯ PHẠM KỸ THUẬT ĐIỆN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS NGUYỄN TIẾN ĐẠT

Hà Nội, 2010




DANH MỤC VIẾT TẮT


: Cao đẳng

CNH-HĐH

: Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa

DNPT

: Dạy nghề phổ thơng

ĐH

: Đại học

GD-ĐT

: Giáo dục đào tạo

GDHN

: Giáo dục hướng nghiệp

GVDN

: Giáo viên dạy nghề


HN

: Hướng nghiệp

HSPT

: Học sinh phổ thông

HS

: Học sinh

KTTH-HN

: Kỹ thuật, tổng hợp-Hướng nghiệp

LĐTB&XH

: Lao động thương binh và xã hội

NPT

: Nghề phổ thông

PPDH

: Phương pháp dạy học

SPKT


: Sư phạm kỹ thuật

TCCN

: Trung cấp chuyên nghiệp

THPT

: Trung học phổ thông

THCS

: Trung học cơ sở

TCCN

: Trung cấp chuyên nghiệp

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đào tạo nguồn nhân lực là một trong những nhân tố đóng vai trị quyết định
cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó dạy nghề phải
đảm nhận đào tạo tới 60% - 65% tổng số lực lượng lao động. Tuy nhiên dạy nghề
hiện nay còn rất nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội cả về số lượng
và chất lượng. Vì vậy mà tại lễ kỉ niệm 40 năm ngày thành lập (9/10/1969 –
9/10/2009) và đón nhận huân chương lao động hạng nhì, Tổng cục trưởng Tổng cục

dạy nghề Nguyễn Tiến Dũng nhấn mạnh trong thời gian tới, dạy nghề cần phải có
những thay đổi đột phá về cơ cấu và chất lượng đào tạo, xây dựng hệ thống dạy
nghề phù hợp và hiện đại.
Ông cũng nhấn mạnh trong báo cáo của mình về tình hình và sự phát triển sự
nghiệp dạy nghề là: “Bước vào giai đoạn mới ngành dạy nghề đang đứng trước
những nhiệm vụ đầy thách thức để góp phần đưa nước ta từ một nước nơng nghiệp
sang nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
Lại có những ý kiến cho rằng: Hầu hết học sinh trường nghề, đặc biệt là học
sinh học nghề phổ thông, ra trường không làm việc được ngay, và doanh nghiệp một
lần nữa lại phải bỏ tiền ra đào tạo lại. Đó quả là một sự lãng phí to lớn về cả thời
gian và tiền bạc. Nói như ơng Nguyễn Văn Minh - tổng giám đốc Vina dày “Sự
lãng phí này cịn lớn hơn rất nhiều sự tham ơ tham nhũng !”.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Các biện pháp nâng cao
chất lượng dạy nghề phổ thơng tại trung tâm KTTH-HN Thường Tín” làm luận văn
tốt nghiệp SPKT với mong muốn sẽ tìm ra những biện pháp cải tiến hoạt động dạy
học, tổ chức quản lý nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy nghề.
2. Mục đích nghiên cứu

2


Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng dạy nghề phổ thơng tại trung tâm
KTTH-HN Thường Tín, nhằm tạo điều kiện cho học sinh phổ thông tiếp thu được
kiến thức nghề và ứng dụng vào thực tiễn một cách dễ dàng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy nghề ở Trung tâm KTTH-HN Thường
Tín.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp nâng cao chất lượng dạy nghề phổ
thông tại trung tâm KTTH-HN Thường Tín.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác định một số vấn đề lý luận của việc nâng cao chất lượng dạy nghề phổ
thông.
- Đánh giá thực trạng dạy nghề ở Trung tâm KTTH-HN Thường Tín.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy nghề ở trung tâm KTTHHN Thường Tín.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đánh giá thực trạng và những biện pháp nâng cao chất
lượng dạy nghề phổ thông ở Trung tâm KTTH-HN Thường Tín trong 3 năm vừa
qua.
6. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, so sánh, tham khảo
tài liệu có liên quan.
- Phương pháp khảo sát điều tra.
- Phương pháp quan sát dự giờ.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp xử lý số liệu thống kê.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

3


7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, danh mục viết tắt, mục lục, kết luận
và khuyến nghị, luận văn được trình bày gồm những nội dung chính sau:
CHƯƠNG 1: Một số vấn đề liên quan đến chất lượng dạy nghề
CHƯƠNG 2: Thực trạng dạy nghề phổ thông
CHƯƠNG 3: Các biện pháp nâng cao chất lượng dạy nghề phổ thông.

4



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT LƯỢNG
DẠY NGHỀ PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm nghề
Nghề nghiệp trong xã hội khơng phải là một cái gì cố định cứng nhắc. Nghề
nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển, và tiêu vong.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những biến đổi
sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường nhất là trong
nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hoá. Giá trị của thứ
hàng hố sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt
của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hố này như thế nào là do “hàm
lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Khái niệm phân công
công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Con người phải
chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề
để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm.
Vậy nghề là gì ?
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ được đào tạo con
người có được những tri thức những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất
hay tinh thần nào đó đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản
xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra
những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh
thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện
sinh tồn và phát triển của xã hội.

5



Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chun
mơn. Ở Liên Xơ trước đây, người ta đã thống kê được 15 000 chuyên môn, cịn ở
Mỹ con số đó lên đến 40 000.
Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chuyên môn nhiều
như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “thế giới nghề nghiệp”. Nhiều nghề chỉ thấy
có ở nước này nhưng lại khơng thấy ở nước khác. Hơn nữa các nghề trong xã hội
luôn ở trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều
nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều
nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hoá. Theo thống kê gần đây,
trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện.
Ở nước ta mỗi năm ở cả 3 hệ truờng (dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và cao
đẳng - đại học) đào tạo trên dưới 300 nghề và bao gồm hàng nghìn chun mơn
khác nhau.
1.1.2. Khái niệm dạy nghề
Theo số liệu thống kê của Bộ LĐTB&XH, mạng lưới hệ thống dạy nghề từ
năm 1998 – 2008 được phát triển mạnh, số trường tăng 2,73 lần (từ 129 trường lên
306 trường cao đẳng, trung cấp nghề), trung tâm dạy nghề tăng 4,56 lần (từ 150 lên
684). Mỗi tỉnh có ít nhất một trường trung cấp nghề hoặc cao đẳng nghề, 50% huyện
có trung tâm dạy nghề. Xã hội hoá dạy nghề đã đạt được kết quả bước đầu, quy mô
tuyển sinh học nghề tăng nhanh, đầu tư cho dạy nghề ngày càng tăng. Tuy nhiên dạy
nghề vẫn còn rất nhiều hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động.
Trong nhiều năm qua, công tác dạy nghề có nhiều tiến bộ, tuy nhiên vẫn có một
thực tế là hiện nay, học sinh sau khi tốt nghiệp THPT không mặn mà với đào tạo
nghề. Xã hội còn coi trọng bằng cấp, học vị mà chưa quan tâm đúng mức đến vai
trị, vị trí của nghề nghiệp. Mặt khác, công tác tư vấn nghề nghiệp, việc làm cho học
sinh, thanh niên chưa được chú trọng, khiến thanh niên chưa hiểu đúng về học nghề
và chưa coi học nghề là một con đường lập nghiệp.

6



Thị trường lao động hiện nay có sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài
ngày càng nhiều, các doanh nghiệp trong nước với những dây chuyền cơng nghiệp
đang địi hỏi nhiều hơn nữa lượng kỹ sư thực hành, đội ngũ công nhân kỹ thuật và
đặc biệt là đội ngũ công nhân trong dây chuyền sản xuất.
Từ thực tiễn thị trường lao động, khơng nhất thiết phải chú trọng vào trình độ
cao, nâng lên cao đẳng nghề, kỹ sư thực hành nhưng cũng cần chú trọng vào đào tạo
nghề ngắn hạn, lượng công nhân cho các dây truyền làm việc rất cần số lượng lớn.
Thực tế trên cho thấy rất cần nghiên cứu một cơ cấu lao động phù hợp với quy mô
phát triển từng khu vực, vùng miền. Cần phải nhận thấy rằng, mục tiêu của các nhà
trường phải đặt chất lượng đào tạo lao động lên hàng đầu. Song song với đó là việc
cần phải cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ để từ đó đề ra một đề xuất hợp lý cho
đào tạo.
Mới đây Bộ LĐTB&XH đã lấy ý kiến xây dựng đề án đổi mới và phát triển
dạy nghề đến năm 2020, trong đó có đề ra các nhiệm vụ, và 7 nhóm giải pháp. Vấn
đề đặt ra qua thực tiễn 15 năm từ 1995 đến 2009, đào tạo nghề với nhiều biến
chuyển đã khởi sắc. Hơn ai hết các hiệu trưởng quá hiểu đào tạo cái mà xã hội cần,
tuy nhiên hiểu thì hiểu đấy, nhưng trên thực tế để triển khai đào tạo theo nhu cầu
doanh nghiệp là rất khó
Chúng ta đã nói rất nhiều đến các vần đề xung quanh việc dạy nghề. Để hiểu
rõ hơn về dạy nghề và có thể đánh giá xem dạy nghề có những thuận lợi, khó khăn
gì, có những mặt hạn chế hay tích cực nào, và vai trị của dạy nghề trong xã hội ra
sao, thì chúng ta phải hiểu về khái niệm dạy nghề.
Vậy dạy nghề là gì?
Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ
nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo
việc làm sau khi hồn thành khố học.
1.1.3. Khái niệm dạy nghề phổ thơng

7



Trong giai đoạn ngày nay, sự sút kém về dời sống, khủng hoảng kinh tế và
lạm phát tiền tệ, đời sống người lao động bấp bênh… nên người dân không muốn
con em mình đi vào một số nghề mà thu nhập q thấp, lại khơng có viễn cảnh phát
triển. Từ đó, dần dần trở thành một ý thức chạy đua vào ĐH, CĐ. Xu thế tách rời
học với hành, giáo dục với lao động sản xuất tăng lên. Vai trò của công tác dạy
nghề, giáo dục hướng nghiệp dần dần bị coi nhẹ, việc học nghề phổ thơng ít được
quan tâm. Cuộc chạy đua trong thi cử nói chung và thi ĐH, CĐ nói riêng đã tạo nên
một tâm trạng căng thẳng trong học sinh THPT, kéo theo khơng ít những việc làm
tiêu cực và hành động vi phạm chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Đó là một trong
những nguyên nhân dẫn hệ thống nhà trường THPT của chúng ta đến tình trạng lạc
hậu so với nhà trường của những nước có nền cơng nghiệp phát triển. Vì vậy, cần
đặt ra công tác hướng nghiệp, dạy nghề phổ thông sao cho phù hợp với nền kinh tế
thị trường, theo hướng “đi tắt, đón đầu” của sự nghiệp CNH-HĐH, gắn việc chọn
nghề của thanh niên với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở từng
địa phương và trong cả nước. Việc dạy và học nghề phổ thơng giúp các em có được
những trang thơng tin ban đầu về một số nghề trong xã hội và thị trường lao động
liên quan đến việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp nhận và làm chủ công nghệ tiên
tiến nhập của nước ngồi trong mọi lĩnh vực: Nơng, Lâm, Ngư nghiệp, Công nghệ
thông tin, Viễn thông…
Như vậy, rõ ràng dạy nghề cho học sinh phổ thông là nhằm cung cấp cho các
em về những ý niệm, những thông tin ban đầu về một số nghề hoặc một số nhóm
nghề cụ thể, gần gũi với các em và phù hợp với xu thế thế giới trong hoàn cảnh hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, giúp các em có thêm thơng tin, tự mình định
hướng việc chọn ngành nghề phù hợp với năng lực bản thân, hoàn cảnh gia đình và
nhu cầu xã hội để được đào tạo, trở lại phục vụ chính mình và đáp ứng nguồn nhân
lực cho sự nghiệp CNH-HĐH quê hương, đất nước.

8



1.1.4. Chất lượng giáo dục
Người ta ít mổ xẻ khái niệm “chất lượng giáo dục” vì ngại nhiều hơn là vì
nhàm. Bởi có rất nhiều cách hiểu khác nhau và cách hiểu nào cũng đầy cơ sở. Chẳng
hạn, giáo viên đánh giá chất lượng học tập bằng mức độ mà học sinh nắm vững các
kiến thức kỹ năng, phương pháp và thái độ học tập của cá nhân. Học sinh có thể
đánh giá chất lượng học tập bằng việc nắm vững kiến thức và vận dụng vào thực
hành các bài tập, bài kiểm tra, bài thi…Cha mẹ học sinh đánh giá chất lượng bằng
khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao, khả năng thích ứng với mơi trường. Nhà
nước thì đánh giá qua mục tiêu giáo dục…
Nhiều quan điểm khác nhau như thế, mỗi người nêu ra một cách, nhiều khi
trái ngược nhau, để nâng cao chất lượng giáo dục. Thế mới có chuyện sách giáo
khoa cứ phải thay đổi liên tục thì mới đạt chất lượng. Các trường, sở trước thi đua
nhau tìm mọi cách đảm bảo chất lượng đúng với chỉ tiêu thi đua sao cho năm sau
cao hơn năm trước, nay lại hỳ hục nói khơng với tiêu cực và bệnh thành tích, vì giờ
làm như vậy mới có chất lượng thực. Xưa thầy thầy dạy thêm, trường trường tổ
chức học thêm, thế mới đáp ứng kịp thời nhu cầu học tập ngày càng cao của người
dân. Nay lại hạn chế dạy thêm, học thêm, vì làm vậy sẽ ảnh hưởng đến chất lượng.
Lại nói đến thi đại học: trước thì đã mấy chung (chung đề, chung địa điểm), sau
không chung (riêng đề, riêng địa điểm), giờ lại chung, tới đây còn sát nhập hai kỳ thi
làm một, tới đây nữa thì chưa biết thế nào?
Hay như chuyện thi trắc nghiệm. Kể từ khi chúng ta thí điểm cho thi đại học
mơn Ngoại ngữ bằng hình thức trắc nghiệm khách quan, làn sóng trắc nghiệm đã lan
tràn khắp mọi nơi: môn môn trắc nghiệm,trường trường trắc nghiệm. Dù ai cũng
biết, trắc nghiệm khách quan chỉ là một trong những phương pháp để đánh giá khả
năng nhận thức của người học, và đương nhiên chưa phải là cách tối ưu nhất (ta chia
thang nhận thức của người học thành các mức từ thấp đến cao như sau: Nhận biết –
Hiểu – Áp dụng – Phân tích – Tổng hợp – Đánh giá – Chuyển giao – Sáng tạo). Để
thiết kế một bài trắc nghiệm khách quan có thể đánh giá hết các mức độ này là một

9


chuyện khơng dễ, và hồn tồn khơng cần thiết. Vì ngồi trắc nghiệm khách quan
cịn rất nhiều cơng cụ khác và mỗi cơng cụ đánh giá sẽ có cơng hiệu đối với từng
cấp độ. Trắc nghiệm khách quan phù hợp nhất để đánh giá ba cấp độ đầu tiên, cho
nên việc áp dụng ồ ạt trắc nghiệm khách quan một cách đại trà như vậy, chắc chắn
sẽ có ảnh hưởng khơng tốt tới kết quả giáo dục, đào tạo, chí ít là sẽ làm mất dần khả
năng sáng tạo của người học, điều mà chúng ta hồn tồn khơng muốn.
Giáo dục là một sản phẩm đặc biệt và trước hết nó là một sản phẩm dịch vụ,
mà sản phẩm dịch vụ khác với sản phẩm vật chất ở một điểm cơ bản. Nếu sản phẩm
vật chất là kết quả của q trình biến đổi vật chất thì dịch vụ chính là kết quả của
quá trình tương tác giữa nhà cung ứng và người sử dụng. Như vậy, có thể thấy ngay,
chất lượng của một dịch vụ chỉ có thể thay đổi được khi chúng ta thay đổi chất
lượng của quá trình tương tác. Đối với giáo dục, đó là sự tương tác giữa ba nhân vật:
người học – người dạy – người tuyển dụng. Như vậy muốn thay đổi chất lượng giáo
dục chúng ta phải tập trung thay đổi chất lượng tương tác của ba đối tượng nêu trên.
Hay nói một cách khác, tất cả những cải cách chúng ta đang làm sẽ khơng đem lại
kết quả gì nếu chúng khơng góp phần nâng cao chất lượng tương tác.
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam vừa cho biết, chỉ số tổng hợp về chất
lượng giáo dục và nguồn nhân lực của nước ta chỉ đạt 3,79 trên tổng thang điểm 10,
thua kém nhiều so với các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực và châu Á.
Tất nhiên có thể khẳng định thơng tin này hồn tồn khơng bất ngờ mà ngược
lại dường như nó đã được cảnh báo trước qua nhiều kì thi gần đây. Lâu nay, những
người am hiểu về giáo dục nước nhà vẫn thường nhắc đến một khái niệm khơng hề
có trong từ điển là “giáo dục ảo” để nói về thực trạng giáo dục nước ta hiện nay.
Nhìn lại chiến lược giáo dục nước nhà, trong đó đã lấy xây dựng nền giáo dục
chất lượng được xác định là yếu tố then chốt. 15 năm qua cùng với công cuộc đổi
mới kinh tế, xã hội, giáo dục Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng.


10


Nền giáo dục của đất nước Việt Nam ta trong những năm gần đây đã có những
tiến bộ và cải cách vượt bậc so với thời điểm mười năm về trước. Tuy nhiên chất
lượng giáo dục ở nước ta còn rất nhiều bất cập, đơn giản bởi vì hệ thống quản lý
giáo dục chưa tốt, chương trình sách giáo khoa quá ôn tồn về kiến thức, và đặc biệt
là nhiều trường học chưa đạt được tiêu chuẩn.
Lâu nay, giáo dục vẫn luôn là lĩnh vực được xã hội quan tâm nhiều nhất.
Khơng chỉ vì “Hiền tài là ngun khí quốc gia” mà đơn giản giáo dục là tương lai,
tương lai của mỗi gia đình, tương lai của cả dân tộc. Cải cách giáo dục vì thế ln
ln nằm dưới áp lực giám sát chặt chẽ của toàn xã hội. Nhưng có vẻ người dân
ngày càng khơng hài lịng về chất lượng giáo dục nước nhà, đặc biệt là từ khi chúng
ta chính thức trở thành thành viên của WTO, áp lực cạnh tranh về chất lượng nguồn
nhân lực ngày càng gia tăng.
1.1.5. Chất lượng dạy nghề
1.1.5.1. Khái niệm về chất lượng
- Chất lượng là tổng thể những tổ chức, thuộc tính cơ bản của sự việc làm cho
sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác. (Từ điển tiếng Việt phổ
thông 1992)
- Chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự việc hoặc là cái tạo nên
bản chất sự việc, làm cho sự việc này khác sự việc kia. (Từ điển Việt thông dụng –
NXB giáo dục 1998).
- Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối,
dấu hiệu đặc thù, các dữ liệu, các thông số cơ bản.
- Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực
thể (đối tượng) đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm
ẩn.
Theo các quan niệm trên thì chất lượng là một thuật ngữ đa nghĩa, nhiều

chiều. Một cách chung nhất có thể hiểu chất lượng là cái tạo nên phẩm chất giá trị

11


của một sự vật, sự việc hay một con người, nó là những thuộc tính cơ bản nhất của
sự việc giúp phân biệt nó với các sự việc khác.
1.1.5.2. Chất lượng dạy học
Chất lượng dạy học thể hiện qua năng lực học sinh sau khi hồn thành
chương trình mơn học. Cụ thể là: Khối lượng kiến thức, kỹ năng thực hành năng lực
nhận thức, năng lực tư duy, phẩm chất nhân văn của học sinh tuỳ theo cách xác
định, đánh giá mà chất lượng dạy học có thể phát biểu khác nhau.
- Theo cách đánh giá trong: chất lượng dạy học là mức độ đáp ứng yêu cầu
của người học so với mục tiêu đề ra.
- Theo cách đánh giá ngoài: Chất lượng dạy học là mức độ đáp ứng yêu cầu
của cơ sở sử dụng.
Như vậy cho dù là cách đánh giá nào cũng cần phải xây dựng được những
tiêu chí, chỉ số cụ thể cho việc đó và đánh giá chất lượng dạy học. Chẳng hạn theo
cách đánh giá, các tiêu chí đó (theo quan niệm hiện nay) có thể là khối lượng và chất
lượng kiến thức, kỹ năng mà người học chiếm lĩnh, là khả năng hoạt động trì trệ và
phẩm chất nhân văn của người học có được nhờ q trình đào tạo.
- Chất lượng dạy học là kết quả của quá trình dạy học được phản ánh ở các
đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành
nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các
ngành nghề cụ thể.
1.1.5.3. Chất lượng dạy nghề
Chất lượng dạy nghề được đánh giá thơng qua các tiêu chí sau (theo điều 74
Luật Dạy nghề 29/11/2006 quy định về nội dung kiểm định chất lượng đối với cơ sở
dạy nghề):
- Mục tiêu và nhiệm vụ dạy nghề

- Tổ chức và quản lý việc dạy nghề
- Hoạt động dạy và học
- Giáo viên và cán bộ quản lý
12


- Chương trình, giáo trình dạy nghề
- Thư viện
- Cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học
- Quản lý hành chính
- Các dịch vụ cho người học nghề.
Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch
vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức lương
tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều
kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc
làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước.
Trong năm 2009, Tổng cục Dạy nghề đã tổ chức thí điểm kiểm định 21
truờng, bao gồm 5 trường trung cấp và 16 trường cao đẳng nghề. Sau một thời gian
triển khai kiểm định chất lượng dạy nghề với quy trình khoa học chặt chẽ và nghiêm
túc theo tiêu chuẩn quốc tế, kết quả có 14 trường đạt kết quả kiểm định chất lượng
dạy nghề ở cấp độ 3 - cấp độ cao nhất, trong đó có 12 trường cao đẳng nghề và 2
trường trung cấp.
Tuy nhiên việc kiểm định nghề cho đến thời điểm này vẫn chỉ dừng lại ở cơ
chế khuyến khích các trường tham gia chứ chưa có các chính sách cụ thể nhằm buộc
các trường phải đạt chuẩn mới đào tạo. Chính vì thế các trường đều chưa sẵn sàng
tham gia. Theo ơng Phạm Vũ Quốc Bình, phó vụ trưởng Vụ Kiểm định chất lượng
dạy nghề: đáng lẽ ra các trường sau khi tham gia kiểm dịnh và đã đạt chuẩn phải
được hưởng một số quy chế, ví dụ như một số ưu đãi khi nhà nước đặt hàng đào tạo
lao động hay chính sách cho học viên vay vốn học nghề. Nhưng hiện tại đó chỉ là kì

vọng, chưa có chính sách cụ thể, cũng như chưa trường đạt chuẩn nào được hưởng
ưu đãi. Việc kiểm định các trường đào tạo nghề, bao gồm cả công lập và dân lập sẽ
tạo nên một “sân chơi” bình đẳng hơn giữa các trường dạy nghề. Nhưng nhìn ở góc
rộng hơn, nó sẽ đưa ra được chuẩn đào tạo và chuẩn đầu ra sau đào tạo. Đây là then
13


chốt quyết định chất lượng lao động ở nước ta. Thực tế tại nhiều nước việc kiểm
định để đạt chuẩn là bắt buộc, bởi đây là yêu cầu từ chính những học viên bỏ tiền ra
mua dịch vụ đào tạo và họ có quyền biết chất lượng đào tạo như thế nào qua kết quả
kiểm định. Ông Dương Đức Lân, phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề cho biết,
nếu theo đúng quy trình kiểm định của các nước, sau khi kiểm định sẽ tiến hành xếp
hạng các trường nghề, Việt Nam chưa có điều kiện kiểm định hết nên chưa thể xếp
hạng. Trong bối cảnh trường nghề vẫn còn trầy trật tuyển sinh thì việc cơng bố xếp
hạng trường nghề sẽ khiến nhiều trường nghề bị “ báo tử ”, không tuyển được học
sinh.
Cũng theo ông Dương Đức Lân, chiến lược dạy nghề 2010 – 2020 đang trình
chính phủ phê duyệt tập trung vào vấn đề then chốt, trọng tâm là chất lượng dạy
nghề. Trong giai đoạn này sẽ xây dựng một trường đạt chất lượng khu vực và quốc
tế. Các trường nghề đạt kết quả qua kiểm định sẽ có cơ hội được tập trung đầu tư.
Tuy nhiên hàng năm các trường này vẫn phải tổ chức tự kiểm định và báo cáo về
Tổng cực Dạy nghề, nhằm tránh tình trạng đã kiểm định nhưng sau một thời gian
khơng cịn đáp ứng u cầu của tiêu chuẩn kiểm định.
Chất lượng dạy nghề luôn là vấn đề then chốt, là trọng tâm. Vì vậy kiểm định
chất lượng dạy nghề khơng thể chỉ dừng lại ở thí điểm. Vấn đề này rất cần sự quan
tâm sâu sát của các cơ quan trực tiếp liên quan, cần sự ráo riết hơn nữa để việc kiểm
định trở thành quy định bắt buộc, để có thể xây dựng được những trường dạy nghề
xứng tầm quốc tế.
1.1.6. Chất lượng dạy nghề phổ thông
Cho đến nay, cả nước có khoảng 256 trung tâm KTTH-HN, góp phần giáo

dục định hướng nghề nghiệp và đào tạo nghề cho HSPT, xong công tác này ở các
trung tâm KTTH-HN vẫn thực hiện chưa tốt, tình trạng phân luồng học sinh sau
THPT, THCS cịn nhiều hạn chế do cơng tác giáo dục, hướng nghiệp còn nhiều yếu
kém. Những yếu kém này lại bắt nguồn từ đội ngũ giáo viên không có chun mơn,
kỹ thuật, cơ sở vật chất trang thiết bị cịn nghèo nàn, lạc hậu, cơng tác quản lý còn
14


nhiều yếu kém, thông tin về thị trường lao động chưa được cập nhập, thiếu sự am
hiểu về thực tế ngành nghề xã hội, chương trình giáo dục hướng nghiệp dạy nghề
phổ thông được thiết kế thiếu kết cấu liền mạch, phát triển con đường học nghề cho
các em, tạo điều kiện liên thơng cho các em…
Bên cạnh đó động cơ tham gia học nghề của các em HSPT có những lệch lạc,
nhiều trường chưa quan tấm đến chất lượng công tác hướng nghiệp, thiếu sự phối
hợp với các doanh nghiệp trên địa bàn để đẩy mạnh công tác giáo dục hướng
nghiệp.
Học sinh sau khi học xong chương trình nghề phổ thơng thì khơng thể hành
nghề, tự tạo việc làm cho bản thân. Chủ yếu học sinh tham gia học nghề phổ thông
là để được cộng điểm thi tốt nghiệp THPT. Nguyên nhân này xuất phát từ mục tiêu
và chương trình dạy nghề phổ thơng.
Tóm lại, dạy nghề phổ thơng trong giai đoạn hiện nay chưa đáp ứng được yêu
cầu của xã hội, thị trường lao động, chưa đào tạo được nguồn nhân lực có khả năng
tham gia vào các ngành nghề trong xã hội.
1.2. Cơ sở pháp lý
1.2.1. Các trình độ đào tạo trong dạy nghề
Luật Dạy nghề của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 số 76/2006/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2006 quy định tại chương 2 về các trình độ đào tạo trong dạy nghề
như sau:
1.2.1.1. Dạy nghề trình độ sơ cấp
Dạy nghề trình độ sơ cấp là nhằm trang bị cho người học nghề năng lực thực

hành một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số cơng việc của một nghề, có
đạo đức lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức khoẻ
tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo
việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.

15


- Dạy nghề trình độ sơ cấp được thực hiện từ ba tháng đến dưới một năm đối
với người có trình độ học vấn, sức khỏe phù hợp với nghề cần học
- Nội dung dạy nghề trình độ sơ cấp phải phù hợp với mục tiêu dạy nghề trình
độ sơ cấp, tập trung vào năng lực thực hành nghề, phù hợp với thực tiễn và sự phát
triển của khoa học cơng nghệ.
- Phương pháp dạy nghề trình độ sơ cấp phải chú trọng rèn luyện kỹ năng
thực hành nghề và phát huy tính tích cực, tự giác của người học nghề.
- Chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp thể hiện mục tiêu dạy nghề trình độ
sơ cấp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung, phương
pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập đối với mỗi mô-đun,
mỗi nghề.
- Chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp do người đứng đầu cơ sở dạy nghề tổ
chức biên soạn và duyệt.
- Giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến
thức, kỹ năng của mỗi mơ-đun trong chương trình dạy nghề, tạo điều kiện để thực
hiện phương pháp dạy học tích cực. Người đứng đầu cơ sở dạy nghề tổ chức biên
soạn và duyệt giáo trình làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức.
- Các cơ sở dạy nghề trình độ sơ cấp: Trung tâm dạy nghề, trường trung cấp
nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp. Các doanh nghiệp,
hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao
đẳng, trường đại học, cơ sở giáo dục khác có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp.
- Người học nghề học hết chương trình sơ cấp nghề có đủ điều kiện thì được

dự kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì được người đứng đầu cơ sở dạy nghề cấp chứng chỉ
sơ cấp nghề theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở
trung ương.
1.2.1.2. Dạy nghề trình độ trung cấp
- Dạy nghề trình độ trung cấp là nhằm trang bị cho người học nghề kiến thức
chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề, có khả năng làm
16


việc độ lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào cơng việc, có đạo đức lương tâm
nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức khoẻ tạo điều kiện cho
người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc
tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
- Dạy nghề trình độ trung cấp được thực hiện từ một đến hai năm học tùy theo
nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thơng; từ ba đến bốn
năm học tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở.
- Nội dung dạy nghề trình độ trung cấp phải phù hợp với mục tiêu dạy nghề
trình độ trung cấp, tập trung vào năng lực thực hành các công việc của một nghề,
nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo, bảo đảm tính hệ thống, cơ bản, phù
hợp với thực tiễn và sự phát triển của khoa học, công nghệ.
- Phương pháp dạy nghề trình độ trung cấp phải kết hợp rèn luyện năng lực
thực hành nghề với trang bị kiến thức chun mơn và phát huy tính tích cực, tự giác,
khả năng làm việc độc lập của người học nghề.
- Chương trình dạy nghề trình độ trung cấp thể hiện mục tiêu dạy nghề trình
độ trung cấp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung,
phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập đối với mỗi
mô-đun, môn học, mỗi nghề.
- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương phối hợp
với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
có liên quan tổ chức xây dựng chương trình khung trung cấp nghề.

- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương quyết định
thành lập hội đồng thẩm định chương trình khung trung cấp nghề; quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động và số lượng thành viên của hội đồng; ban
hành chương trình khung trung cấp nghề trên cơ sở kết quả thẩm định của hội đồng
thẩm định chương trình khung trung cấp nghề.
- Căn cứ vào chương trình khung, hiệu trưởng các trường tổ chức biên soạn
và duyệt chương trình dạy nghề của trường mình.

17


- Giáo trình dạy nghề trình độ trung cấp cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến
thức, kỹ năng của mỗi mơ-đun, mơn học trong chương trình dạy nghề, tạo điều kiện
để thực hiện phương pháp dạy học tích cực. Hiệu trưởng các trường tổ chức biên
soạn và duyệt giáo trình làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức.
- Các cơ sở dạy nghề trình độ trung cấp: Trường trung cấp nghề, trường cao
đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp, trường trung cấp chuyên nghiệp,
trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp.
- Học sinh học hết chương trình trung cấp nghề có đủ điều kiện thì được dự
thi, nếu đạt yêu cầu thì được hiệu trưởng các trường cấp bằng tốt nghiệp trung cấp
nghề theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung
ương.
1.2.1.3. Dạy nghề trình độ cao đẳng
- Dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến thức
chuyên môn và năng lực thực hành các cơng việc của một nghề, có khả năng làm
việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm, có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ
thuật, cơng nghệ vào cơng việc, giải quyết được các tình huống phức tạp trong thực
tế, có đạo đức lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức
khoẻ tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm,
tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.

- Dạy nghề trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo
nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thơng; từ một đến hai
năm học tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề
cùng ngành nghề đào tạo.
- Nội dung dạy nghề trình độ cao đẳng phải phù hợp với mục tiêu dạy nghề
trình độ cao đẳng, tập trung vào năng lực thực hành các công việc của một nghề,
nâng cao kiến thức chuyên môn theo yêu cầu đào tạo của nghề, bảo đảm tính hệ
thống, cơ bản, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng sự phát triển của khoa học, công
nghệ.
18


- Phương pháp dạy nghề trình độ cao đẳng phải kết hợp rèn luyện năng lực
thực hành nghề với trang bị kiến thức chun mơn và phát huy tính tích cực, tự
giác,năng động, khả năng tổ chức làm việc theo nhóm.
- Chương trình dạy nghề trình độ cao đẳng thể hiện mục tiêu dạy nghề trình
độ cao đẳng; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung,
phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập đối với mỗi
mô-đun, môn học, mỗi nghề.
- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương phối hợp
với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
có liên quan tổ chức xây dựng chương trình khung cao đẳng nghề.
- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương quyết định
thành lập hội đồng thẩm định chương trình khung cao đẳng nghề; quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động và số lượng thành viên của hội đồng; ban
hành chương trình khung cao đẳng nghề trên cơ sở kết quả thẩm định của hội đồng
thẩm định chương trình khung cao đẳng nghề.
- Căn cứ vào chương trình khung, hiệu trưởng các trường tổ chức biên soạn
và duyệt chương trình dạy nghề của trường mình.
- Giáo trình dạy nghề trình độ cao đẳng cụ thể hóa u cầu về nội dung kiến

thức, kỹ năng của mỗi mô-đun, môn học trong chương trình dạy nghề, tạo điều kiện
để thực hiện phương pháp dạy học tích cực. Hiệu trưởng các trường tổ chức biên
soạn và duyệt giáo trình làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức.
- Các cơ sở dạy nghề trình độ cao đẳng: Trường cao đẳng nghề, trường cao
đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề trình độ cao đẳng.
- Sinh viên học hết chương trình cao đẳng nghề có đủ điều kiện thì được dự
thi, nếu đạt yêu cầu thì được hiệu trưởng các trường cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng
nghề theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung
ương.
1.2.2. Doanh nghiệp với hoạt động dạy nghề
19


1.2.2.1. Doanh nghiệp với phát triển dạy nghề
- Cung cấp thông tin về nhu cầu ngành nghề đào tạo và sử dụng lao động của
doanh nghiệp cho Sở LĐTB&XH sở tại.
- Thành lập cơ sở dạy nghề hoặc liên kết dạy nghề với cơ sở dạy nghề theo
phương thức dạy lý thuyết tại cơ sở dạy nghề, dạy thực hành tại doanh nghiệp.
- Tham gia tiêu chuẩn kỹ năng nghề và đánh giá kỹ năng nghề.
- Tham gia hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị cho dạy nghề.
1.2.2.2. Doanh nghiệp với cơ sở dạy nghề
- Tiếp nhận người học nghề đến tham quan, thực tập tại doanh nghiệp thông
qua hợp đồng với cơ sở dạy nghề.
- Tham gia giảng dạy, hướng dẫn thực tập và đánh giá kết quả học tập của
người học nghề.
- Tham gia xây dựng chương trình, giáo trình dạy nghề.
- Ký hợp đồng học nghề cho lao động của doanh nghiệp với cơ sở dạy nghề
khi có nhu cầu.
- Phối hợp với cơ sở dạy nghề tổ chức nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng,
chuyển giao công nghệ.

1.2.2.3. Doanh nghiệp với việc đào tạo nghề, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và
đào tạo lại nghề cho người lao động
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy nghề, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ
năng nghề cho người lao động trong doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu sử dụng lao
động và yêu cầu đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất.
- Giao kết hợp đồng học nghề với người học nghề được doanh nghiệp tuyển
vào học nghề tại doanh nghiệp.
- Tạo điều kiện cho người lao động vừa làm vừa học để nâng cao trình độ kỹ
năng nghề.
- Tổ chức đào tạo lại nghề trước khi chuyển người lao động sang làm nghề
khác trong doanh nghiệp.

20


- Trả công cho người hoc nghề khi học trực tiếp hoặc tham gia làm ra sản
phẩm cho doanh nghiệp. Mức tiền lương do hai bên thỏa thuận.
1.2.3. Các chính sách về dạy nghề
Luật Dạy nghề của quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 số 76/2006/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2006 quy định một số chính sách về dạy nghề như sau:
1.2.3.1. Chính sách nhà nước về phát triển dạy nghề
Chính sách này được thơng qua tại điều 7 chương I của Luật Dạy nghề ban
hành năm 2006, trong đó nhấn mạnh:
- Đầu tư mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, nâng cao chất lượng dạy nghề
góp phần bảo đảm cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước, góp phần thực hiện phân luồng học sinh tốt nghiệp THCS và
THPT, tạo điều kiện phổ cập nghề cho thanh niên và đáp ứng nhu cầu học nghề của
người lao động, đào tạo nghề cho người lao động đi làm việc ở nước ngồi.
- Đầu tư có trọng điểm, trọng điểm để đổi mới nội dung, chương trình và
phương pháp dạy nghề, phát triển đội ngũ giáo viên, hiện đại hoá thiết bị, đẩy mạnh

nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề, tập trung xây dựng một
số cơ sở dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, chú trọng
phát triển dạy nghề ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đầu
tư đào tạo các nghề thị trường lao động có nhu cầu.
- Thực hiện xã hội hóa hoạt động dạy nghề, khuyến khích tổ chức, cá nhân
Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thành lập cơ sở dạy nghề và tham gia hoạt động dạy nghề. Khuyến khích nghệ nhân
và người có tay nghề cao tham gia dạy nghề; khuyến khích, hỗ trợ dạy các nghề
truyền thống và ngành nghề ở nông thôn. Các cơ sở dạy nghề bình đẳng trong hoạt
động dạy nghề và được hưởng ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng theo quy định của
pháp luật.
- Hỗ trợ các đối tượng được hưởng chính sách người có cơng, qn nhân xuất
ngũ, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, khuyết tật, trẻ em
21


mồ côi không nơi nương tựa, người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông
nghiệp bị thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội khác nhằm tạo cơ
hội cho họ được học nghề để tìm việc làm, tự tạo việc làm, lập thân, lập nghiệp.
Ngồi ra Luật Dạy nghề cịn đề cập đến vấn đề liên thông trong đào tạo và các
hành vi nghiêm cấm trong hoạt động dạy nghề:
- Liên thông trong đào tạo được thực hiện căn cứ vào chương trình đào tạo;
người học nghề khi chuyển từ trình độ đào tạo thấp lên trình độ cao hơn cùng ngành
nghề hoặc khi chuyển sang học ngành nghề, trình độ đào tạo khác thì khơng phải
học lại những nội dung đã học.
- Các hành vi nghiêm cấm trong hoạt động dạy nghề là:
1. Lợi dụng hoạt động dạy nghề để trục lợi, lạm dụng sức lao động.
2. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ quản
lý, nhân viên của cơ sở dạy nghề và người học nghề.
3. Gian lận trong tuyển sinh, thi, kiểm tra, cấp bằng, chứng chỉ nghề.

1.2.3.2. Chính sách nhà nước về các cơ sở dạy nghề
Các loại hình dạy nghề
- Trung tâm dạy nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề công lập do Nhà nước
thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi
thường xuyên.
- Trung tâm dạy nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề tư thục do các tổ chức
hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các
nhiệm vụ chi thường xuyên.
- Trung tâm dạy nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề có vốn đầu tư nước
ngồi thành lập theo hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngồi do tổ chức, cá
nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.

22


Điều kiện thành lập các cơ sở dạy nghề
Trung tâm dạy nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề được thành lập khi có đề
án bảo đảm các điều kiện chủ yếu sau:
- Có trường sở, khả năng tài chính và thiết bị dạy lý thuyết, thực hành phù
hợp với nghề, trình độ và quy mơ đào tạo;
- Có đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt
tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ chuẩn và kỹ năng nghề bảo đảm thực hiện mục
tiêu, chương trình dạy nghề.
Chính sách đối với cơ sở dạy nghề
- Nhà nước có chính sách giao hoặc cho thuê đất, cơ sở vật chất, ưu đãi về tín
dụng, miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật đối với cơ sở dạy nghề, miễn
thuế theo quy định của pháp luật đối với sản phẩm được tạo ra từ hoạt động dạy
nghề phục vụ cho cơ sở dạy nghề.
- Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ

sở dạy nghề, cơ sở đào tạo khác, các nhà khoa học phổ biến tiến bộ khoa học kỹ thuật và
chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực về nông, lâm, ngư nghiệp.
1.2.3.3. Chính sách nhà nước đối với giáo viên dạy nghề và người học nghề
a. Giáo viên dạy nghề
Giáo viên dạy nghề là người dạy lý thuyết, dạy thực hành hoặc vừa dạy lý
thuyết vừa dạy thực hành trong các cơ sở dạy nghề
Trình độ chuẩn của giáo viên dạy nghề
- Giáo viên dạy lý thuyết trình độ sơ cấp nghề phải có bằng tốt nghiệp trung
cấp nghề trở lên; giáo viên dạy thực hành phải là người có bằng tốt nghiệp trung cấp
nghề trở lên hoặc là nghệ nhân, người có tay nghề cao;
- Giáo viên dạy lý thuyết trình độ trung cấp nghề phải có bằng tốt nghiệp đại học
sư phạm kỹ thuật hoặc đại học chuyên ngành; giáo viên dạy thực hành phải là người có
bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân, người có tay nghề cao;

23


×