Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo luật phá sản 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN THEO LUẬT
PHÁ SẢN 2014

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thành Đức
Sinh viên thực hiện
MSSV: 1411270208;

: Phạm Thị Phương Linh
Lớp: 14DLK05

TP. Hồ Chí Minh, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên xin cảm ơn quý thầy cô Khoa Luật - Trường Đại Học Công Nghệ
Thành Phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức hay trong
thời gian bốn năm qua. Tạo điều kiện cho tơi có cơ hội tiếp xúc và trải nghiệm với
những kiến thức hay để đút kết kinh nghiệm áp dụng vào đời sống.
Đặc biệt tôi xin cảm ơn Thầy Nguyễn Thành Đức đã tận tình giúp đỡ em
hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này. Xin được dành lời cảm ơn chân thành nhất
gửi đến thầy Nguyễn Thành Đức.
Bên cạnh đó tơi xin cảm ơn Q Cơng tỵ Hợp danh Quản lý và Thanh lý Tài


sản Hoàn Cầu đã tạo điều kiện cho tơi có những kiến thức thực tế từ khóa thực tập
tốt nghiệp, để tơi có thể hoàn thành tốt bài Luận này. Đặc biệt là chú Đỗ Phi
Thường và chú Nguyễn Công Thu đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp số liệu cho tơi
làm bài.
Vì điều kiện thời gian, kiến thức cũng như kinh nghiệm bản thân còn hạn chế
nên bài luận tốt nghiệp của tơi khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được
sự chỉ bảo của thầy Nguyễn Thành Đức để bài luận của tơi được hồn chỉnh hơn.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 09 năm 2018
Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)

Phạm Thị Phương Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Phạm Thị Phương Linh

MSSV:

1411270208

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong Bài luận tốt nghiệp này
được thu thập từ nguồn thực tế tại Đơn vị thực tập, trên các sách báo khoa học
chun ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng quy định);
Nội dung trong bài luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ quá
trình nghiên cứu và thực tế tại Công ty Hợp danh Quản lý và Thanh lý tài sản Hồn
Cầu. KHƠNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu, báo cáo khác.
Nếu sai sót tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo quy định của Nhà Trường
và Pháp luật.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 09 năm 2018

Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)

Phạm Thị Phương Linh


1

Mục lục
Lời mở đầu ........................................................................................................................... 3
1.

Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 3

2.

Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................. 4

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4

4.

Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 4

5.

Bố cục đề tài ........................................................................................................... 5


Chương I: Khái quát chung về Luật Phá sản 2014 .......................................................... 6
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về phá sản ..................................... 6

1.1.1.

Sự hình thành pháp luật phá sản một số nước trên thế giới ............................. 6

1.1.2.

Sự hình thành pháp luật phá sản ở Việt Nam .................................................. 8

1.2

Khái quát về phá sản theo Luật Phá sản 2014.................................................. 18

1.2.1.

Khái niệm phá sản.......................................................................................... 18

1.2.2.

Đặc điểm của phá sản .................................................................................... 22

1.2.3.

Phân loại phá sản ........................................................................................... 25

1.3.


Vai trò, ý nghĩa của pháp luật phá sản.............................................................. 29

1.3.1.

Vai trò của pháp luật phá sản ......................................................................... 29

1.3.2.

Ý nghĩa của pháp luật phá sản ....................................................................... 32

Chương II: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản ........................................................................................................................... 34
2.1

Thực trạng pháp luật về giải quyết phá sản của Luật Phá sản 2014.............. 34

2.1.1.

Chủ thể tiến hành và tham gia thủ tục phá sản .............................................. 34

2.1.2.

Thủ tục giải quyết phá sản của Luật Phá sản 2014 ........................................ 43

2.1.3.

Một số thủ tục phá sản đặc thù ...................................................................... 74

2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật phá sản................................................................. 80

2.2.1.

Các vụ án tuyên bố phá sản ........................................................................... 80

2.3.2.

Nhận xét, đánh giá từng vụ việc đã trình bày ................................................ 88

2.3. Tình hình giải quyết phá sản ................................................................................. 90
2.3.1.

Thực trạng về tình hình giải quyết phá sản Doanh nghiệp những năm gần đây
....................................................................................................................... 90

2.3.2.

Nhận xét, đánh giá những số liệu đã được nêu ra .......................................... 94

Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện Luật Phá sản 2014 .................... 98
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện Luật Phá sản 2014 .......................................................... 98
3.1.1.

Luật Phá sản 2014 còn nhiều khuyết điểm cần thay đổi ................................ 98

3.1.2.

Luật Phá sản 2014 không phản ánh đúng thực trạng hiện tại ...................... 100


2


3.2. Định hướng hoàn thiện Luật Phá sản 2014 ........................................................ 101
3.2.1.

Đương lối, chính sách của Nhà nước ........................................................... 102

3.2.2.

Tuân thủ Pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ..
..................................................................................................................... 103

3.3. Kiến nghị hồn thiện Luật Phá sản 2014 ............................................................ 104
3.3.1.

Sửa đổi, bổ sung một số điều để hoàn thiện Luật Phá sản 2014 .................. 104

3.3.2.

Tuyên truyền và bồi dưỡng nâng cao trình độ ............................................. 107

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 110


3

Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế trong thời đại càng phát triển thì mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp lại càng trở nên căng thẳng, phức tạp. Để có thể tồn tại và phát triển, các
doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh nhau, doanh nghiệp nào không đáp ứng được

những đòi hỏi nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào thải.
Tự do cạnh tranh và phá sản là nguyên lý tự nhiên của kinh tế thị trường, mỗi ngày
đều có doanh nghiệp thành lập và cũng sẽ có doanh nghiệp phá sản. Nếu Chủ doanh
nghiệp khơng có tầm nhìn xa và khơng có phương án dự phịng khi có tình huống
xấu xảy ra để kịp thời đối phó thì doanh nghiệp sẽ dễ bước vào thời kỳ suy vong.
Pháp luật về phá sản là công cụ để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo
dài, khơng có khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn, và phòng ngừa, khắc phục
những hậu quả, rủi ro mà những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ này có thể gây ra cho
nền kinh tế.
Tuy nhiên, đã đi vào thực tiễn trong 9 năm qua, khi đánh giá về hiệu quả
điều chỉnh của Luật Phá sản 2004, nhiều ý kiến cho rằng văn bản này có hiệu quả
điều chỉnh quá thấp, bộc lộ quá nhiều khuyết điểm, ít tính khả thi cũng như khơng
phản ánh hết yêu cầu và thực trạng giải quyết phá sản ở Việt Nam. Chính vì vậy
việc sửa đổi bổ sung Luật Phá sản 2004 và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phá sản
rất cần thiết. Để đáp ứng yêu cầu trên, sau thời gian nghiên cứu khắc phục những
khuyến điểm của luật cũ thì Luật Phá sản 2014 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 7 thơng qua ngày 19/06/2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 và
được đánh giá là một bước tiến bộ lớn trong kỹ thuật lập pháp so với Luật Phá sản
doanh nghiệp 1993 và Luât Phá sản 2004 góp phần hiệu quả hơn, đảm bảo trật tự,
an toàn xã hội, tạo một môi trường kinh doanh ổn định thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Để Luật Phá sản 2014 thật sự được thực thi trong các vụ phá sản của các
doanh nghiệp Việt Nam thật sự là một vấn đề khó khăn bởi vì đối với nước ta việc


4

phá sản vẫn là một vấn đề mới mẻ, ít được nhiều người quan tâm đến. Cho nên thực
tiễn giải quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua cịn ít và gặp nhiều khó khăn
vướng mắc. Chính vì vậy việc nắm bắt, hiểu biết đầy đủ về thủ tục giải quyết yêu

cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là thật sự cần thiết và cấp bách.
Đó là lí do tơi chọn đề tài: “Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo Luật
Phá sản 2014” nhằm tìm hiểu thêm một phần nào đó về Luật Phá sản của nước ta
hiện nay. Có hệ thống những quy định pháp luật hiện hành về phá sản, từ đó có
những đề xuất nhằm đi đến sự hồn thiện của q trình giải quyết phá sản trong thời
gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và các quy định pháp luật hiện hành nhằm nghiên cứu để
làm rõ những nội dung cơ bản của Luật Phá sản 2014. Sau khi phân tích thực tiễn
áp dụng Luật Phá sản 2014 ở Việt Nam hiện nay nhằm làm rõ bất cập và những vấn
đề phát sinh trong q trình thực hiện. Từ đó rút ra những khó khăn, bất cập đi đến
những đề xuất phương hướng và giải pháp để Luật Phá sản 2014 có hiệu quả hơn
khi áp dụng trong thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quy định của Luật Phá sản
2014.
Phạm vi nghiên cứu: Việc phân tích về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản theo Luật Phá sản 2014 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Vì bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, của người lao động, bảo vệ lợi ích chính
đáng của “con nợ”, góp phần làm lành mạnh nền kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tơi đã vận dụng những kiến thức đã học
được ở môn Pháp luật về Phá sản, Giải thể và Giải quyết tranh chấp trong Kinh


5

doanh, Luật Phá sản 2014 và một số môn học khác có liên quan. Để giải quyết các
vấn đề trong đề tài, tôi sử dụng môt số phương pháp như:

Phương pháp phân tích luật viết: Nhằm để phân tích những quy định của
pháp luật hiện hành có liên quan đến thụ lý yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: Thực hiện việc đối chiếu, so sánh giữa các
quy định về giữa lí luận với thực tiễn thực thi pháp luật
Phương pháp tổng hợp, phân tích, nghiên cứu trên tài liệu, sách báo, tạp chí
và các trang điện tử: Phương pháp được sử dụng phổ biến trong đề tài nhằm tìm
hiểu các tài liệu, quan điểm có liên quan đến quy định về thụ lý yêu cầu giải quyết
tuyên bố phá sản.
5. Bố cục đề tài
Ngồi phần mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
bài báo cáo thực tập được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về Luật Phá sản 2014
Chương II: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện Luật Phá sản 2014


6

Chương I: Khái quát chung về Luật Phá sản 2014
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về phá sản

1.1.1. Sự hình thành pháp luật phá sản một số nước trên thế giới
Về tên gọi, văn bản pháp luật về phá sản hay còn được gọi là Luật Phá sản
nhằm điều chỉnh thủ tục phá sản đồng thời giải quyết mối quan hệ giữa chủ nợ và
con nợ.Những ở mỗi nước khác nhau lại có các tên gọi khác nhau: ở Anh có Luật
mất khả năng thanh tốn, Luật đình chỉ giám đốc cơng ty (năm 1986); ở Hàn Quốc
có Luật tổ chức lại cơng ty1.

Thời trung cổ, các quốc gia Âu Châu đã ban hành những văn bản pháp luật
phá sản đầu tiên2. Ban đầu, phạm vi áp dụng của những luật này chỉ giới hạn trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng dần dần đã được đưa vào áp dụng ở nhiều
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, và cho đến nay, pháp luật về phá sản đã
điều chỉnh cả các quan hệ kinh doanh của cả các pháp nhân, cá nhân, ngồi ra cịn
có những trường hợp phá sản do tiêu dùng. Trong một thời gian dài, việc phá sản
chỉ đi liền với việc thanh toán tài sản của con nợ cho người chủ nợ. Sau khi nền
thương mại của người La Mã sụp đổ, thủ tục thanh toán tài sản bị lãng quên. Người
vỡ nợ bị giam giữ và đối xử như một loại tội phạm hình sự, một hiện tượng kéo dài
nhiều năm và chỉ chấm dứt vào đầu thế kỷ 19 theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.
Tại Châu Âu, cho đến những năm đầu tiên của thế kỷ 20, vỡ nợ vẫn được
pháp luật nhiều nước Châu Âu xem như dạng tội phạm, có thể bị tù giam và bị
cưỡng bức trả nợ. Tuy nhiên theo thời gian, các quốc gia Châu Âu đã dần xây dựng
Luật Phá sản theo hướng giải quyết thấu đáo các khoản nợ mà con nợ phá sản để
lại, kết hợp hài hòa quyền lợi giưa chủ nợ và con nợ dù cán cân vẫn nghiêng chủ
yếu về các chủ nợ. Tại Anh, năm 1705 Đạo luật Anne ra đời đã có một hướng tư
duy mới: Con nợ có thể được xóa nợ nếu trung thực và phải chấp nhận một số điều
1

Chuyên đề khoa học xét xử: Tìm hiểu Luật Phá sản – Tập 1. Viện Khoa học xét xử, TANDTC và NXB Tư
pháp, 2010 – Phan Thị Thu Hà – Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, tr.7.
2
Chuyên đề khoa học xét xử: Tìm hiểu Luật Phá sản – Tập 1. Viện Khoa học xét xử, TANDTC và NXB Tư
pháp, 2010 – Phan Thị Thu Hà – Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao.


7

kiện nhất định. Từ việc thủ tục phá sản chỉ dành cho thương nhân, pháp luật phá sản
của Anh sau đó đã mở rộng đối tượng áp dụng là các cá nhân đơn lẻ. Luật Phá sản

của Anh xuất hiện khá sớm từ thế kỷ 18 và phát triển vào thế kỷ 19. Bộ Luật Phá
sản đáng kể đầu tiên của Anh là Luật về những người mất khả năng thanh toán năm
1813. Các luật về phá sản của Anh được sửa đổi, bổ sung liên tục trong những năm
1825, 1862 và 1869, 1897. Đến đầu những năm 2000, pháp luật về phá sản của
Anh đã trải qua lịch sử mấy trăm năm và là một trong những nền tảng pháp lý mà
rất nhiều quốc gia trên thế giới tham khảo và học hỏi.
Ở Hoa Kỳ, Luật phá sản đầu tiên được ban hành năm 1800 với các quy định
“hướng vào các chủ nợ” và do vậy nhiều trường hợp con nợ còn bị xem là tội
phạm3. Năm 1841, Mỹ ban hành thêm Luật mất năng lực trả nợ, luật này cho phép
con nợ có thể đề xuất việc phá sản lên Tòa để được bảo hộ, miễn trách nhiệm do
phá sản gây ra. Năm 1874, Luật phá sản sửa đổi của Hoa Kỳ được thông qua đã
chuyển sang mục tiêu “hướng vào các con nợ” với quy định thêm về thủ tục hịa
giải. Năm 1898 Hoa Kỳ thơng qua Luật phá sản Liên bang, quy định về chế độ
người quản lý tài sản nhằm giám sát quá trình tiến hành tổ chức lại hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp phá sản. Năm 1938 Hoa Kỳ lại tiếp tục sửa đổi, bổ sung
chi tiết các nội dung về thủ tục phục hồi (được quy định ở chương 10 và chương
11 Luật phá sản Liên bang). Năm 1978, Mỹ thông qua Luật phá sản sửa đổi với
hai chương rất nổi tiếng là chương 7 (về thủ tục thanh toán) và chương 11 (thủ tục
phục hồi), được nhiều học giả đánh giá là “cuộc cách mạng thứ hai” đối với luật
phá sản. Sau đó, Luật phá sản của Hoa Kỳ được sửa đổi, bổ sung qua các năm
1984, 1994, 1998, 2001, 2003 và 2005. Hiện nay, khái niệm về phá sản của Mỹ và
các quy định ở hai chương 7 và chương 11, đặc biệt ở chương 11 của Luật phá sản
Hoa Kỳ được nhiều nước học tập kinh nghiệm khi xây dựng bộ luật phá sản cho
riêng mình, ví dụ như các quy định trong Luật “tái tạo công ty” của Nhật; quy

3

TS Phạm Duy Nghĩa - Khoa Luật, ĐHQG “Đi tìm triết lý của luật phá sản” Bài tham luận tại hội thảo lấy ý
kiến về Luật phá sản DN (sửa đổi) - tổ chức ngày 20/11/2003 tại VCCI.



8

định về “chế độ tái cơ cấu” trong Luật phá sản Doanh nghiệp của Trung Quốc, Đài
Loan.
1.1.2. Sự hình thành pháp luật phá sản ở Việt Nam
Thực tế thì các chế định liên quan đến phá sản, ví như: Đảm bảo trả nợ, chịu
trách nhiệm, hình phạt khi khơng trả được nợ, bảo lãnh trả nợ, cầm cố tài sản… đã
xuất hiện từ khá sớm tại Việt Nam trong các đạo cổ luật. Các đạo luật cổ của Việt
Nam còn lưu đến ngày hơm nay có nhiều điều khoản bắt người ký kết giao ước phải
thi hành cam kết trả nợ khi vay, nếu khơng sẽ phải chịu các hình phạt khá khắc
nghiệt.
Chẳng hạn, liên quan đến chế định bảo lãnh, theo Điều 590 Bộ luật Hồng
Đức, nếu người mắc nợ bỏ trốn, thì người bảo lãnh phải trả tiền nợ gốc thay cho
người bỏ trốn. Tuy nhiên, nếu trong khế ước quy định rõ người bảo lãnh phải trả
thay cho người được bảo lãnh, thì nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) đều phải được thực
hiện, nếu trái luật thì bị phạt 80 trượng. Điều 590 cịn quy định “nếu người mắc nợ
có con, thì được địi ở con”.
Liên quan đến chế định cầm cố đồ vật, các loại ruộng đất có thể bị cầm cố
để đổi lấy khoản vay. Theo cổ luật Việt Nam, có thể khái quát 3 hình thức cầm cố
ruộng đất như sau: Thế chấp ruộng đất để vay một khoản tiền nào đó, đáo hạn chủ
nợ hoàn lại ruộng đất sau khi bù trừ đi các hoa màu do chủ nợ thu được cộng với
gốc và lãi: Thế chấp ruộng đất để vay khoản tiền tương đương với giá trị ruộng đất
đó, đáo hạn người vay phải chuộc lại ruộng đất bằng số tiền đã vay; thế chấp
ruộng đất để vay tiền, đáo hạn khơng trả được nợ thì người đi vay phải cam kết
bán ruộng đất cho chủ nợ. Ngoài cầm cố, thế chấp bằng ruộng đất, người đi vay có
thể bảo đảm trả nợ bằng nhân công. Cụ thể, nếu người đi vay không trả được nợ,
họ phải đi “ở đợ”, “ở thuê”, “làm không công” cho chủ nợ.
Trong cả hai bộ cổ luật nổi tiếng của Việt Nam là Hồng Đức và Gia Long,
các chế định về “bắt nợ” bao gồm cả việc bắt giữ đồ đạc, của cải và thậm chí người

mắc nợ được quy định khá rõ ràng. Trong một số trường hợp, khi người đi vay


9

khơng trả được nợ, người chủ nợ có quyền thưa quan và áp dụng một số biện pháp
để bắt nợ kiểu “tự xử”. Luật Gia Long quy định, chủ nợ có thể cầm tù người mắc nợ
để cưỡng bách trả nợ: Nếu số nợ dưới 30 lạng bạc. Trường hợp này, thời gian giam
giữ là một năm. Nếu quá một năm mà quả thực con nỡ vẫn mất khả năng thanh
tốn, họ sẽ khơng bị địi nợ nữa nhưng bị đánh trượng tùy thuộc vào số nợ nhiều
hay ít. Nếu số nợ trên 30 lạng bạc và sau khi bị giam giữ trên một năm mà con nợ
vẫn mất khả năng thanh tốn, chủ nợ có thể tâu lên nhà vua để nhà vua tùy nghi
quyết định.
Về chế định thanh toán tài sản, Điều 592 Bộ luật Hồng Đức quy định “nếu
người mắc nợ là quan từ cửu phẩm trở lên, mắc nợ q nhiều mà khơng có đủ tài
sản trả hết các khoản nợ, được quyền tâu xin thanh toán tài sản, chia cho các chủ nợ
tùy theo số nợ nhiều hay ít. Người mắc nợ khơng được giấu diếm tài sản, trái luật bị
phạt 80 trượng. Chủ nợ nào tìm được tài sản giấu được phép xin lấy đủ nợ.”
Có thể nhận thấy, các chế định liên quan đến vụ việc phá sản đã xuất hiện
trong cổ luật Việt Nam, đặc biệt từ thời Lê (thế kỉ 15) và thời Nguyễn (thế kỉ 19).
Tuy nhiên, các chế định này vẫn còn khá rời rạc, được quy định một cách lẻ tẻ, chưa
tạo thành hệ thống hoàn chỉnh về pháp luật phá sản. Pháp luật về phá sản ở Việt
Nam chỉ thực sự hình thành từ thời Pháp thuộc, nhưng phần lớn ở miền Nam và trên
thực tế dường như rất ít được áp dụng. Cũng như các nước thuộc địa khác, pháp luật
Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật thực dân. Những quy định về
khánh tận, thanh tốn tư pháp phá sản cũng đã có trong Bộ luật Thương mại Sài
Gòn4. Hai đạo luật điều chỉnh phá sản đã được ban hành tại Việt Nam trước đây là
Luật Phá sản trong Luật Thương mại Trung phần tại miền Trung Việt Nam ngày

4


PGS.TS Dương Đăng Huệ - Vụ pháp luật Dân sự - Kinh tế Bộ Tư pháp, Báo cáo phúc trình đề tài: “Đánh
giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích khuyến nghị hồn thiện Luật Phá sản DN và các quy định
pháp luật khác có liên quan”; năm 2002, tr.3 – 6,
/>

10

02/06/1942 và Luật Phá sản trong Luật Thương mại miền Nam Việt Nam năm
19735.
Tuy nhiên, sau năm 1975, trong khoảng trên dưới 10 năm, Việt Nam không
chủ trương thực hiện nền kinh tế cạnh tranh nhiều thành phần nên hầu như khơng có
khái niệm về phá sản. Trong thời kỳ này, đất nước gặp nhiều thách thức: Vừa mới
bước chân khỏi vũng lầy chiến tranh, lại phải đối mặt với nạn cấm vận, thiếu thốn
hàng hóa, nền kinh tế tự cung tự cấp và thói quan liêu, bao cấp đã làm đất nước rơi
vào cuộc khủng hoảng trầm trọng và toàn diện. Phải đến năm 1986, Việt Nam mới
thực hiện đổi mới nền kinh tế-xã hội và bước đầu tiếp nhận nền kinh tế hàng hóa
cạnh tranh, với sự xuất hiện của nhiều thành phần sở hữu. Mặc dù vậy, phải đến đầu
những năm 1990, các chế định pháp lý về doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh bao
gồm cả các chế định về phá sản mới được được hình thành một cách cơ bản.
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993:
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), khi nước ta chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thì
các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau (Nhà nước, tư nhân, có
vốn đầu tư nước ngồi…) mới được thành lập và cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.
Trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, bắt đầu xuất hiện hiện tượng cạnh
tranh, đào thải, chọn lọc tự nhiên để dẫn đến một tất yếu khách quan: Các doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, mất khả năng thanh toán buộc phải giải thể
hoặc phá sản, các doanh nghiệp làm ăn tốt tiếp tục phát triển đi lên.
Trước tình trạng đó, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 được hình thành là một

điều tất yếu. Đây là văn bản pháp lý chính thức đầu tiên của Việt Nam sau năm
1975 điều chỉnh toàn bộ các vấn đề liên quan đến phá sản của các doanh nghiệp.
Luật Phá sản doanh nghiệp được Quốc hội khóa IX thơng qua ngày 30/12/1993 và
có hiệu lực từ ngày 01/07/1994, bao gồm 6 chương, 52 điều, quy định chung về phá

5

Chuyên đề khoa học xét xử: Tìm hiểu Luật Phá sản – Tập 1. Viện Khoa học xét xử, TANDTC và NXB Tư
pháp, 2010 – Phan Thị Thu Hà – Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, tr.6.


11

sản doanh nghiệp, thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, Hội nghị chủ nợ, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thi hành quyết định tuyên
bố phá sản doanh nghiệp và xử lý vi phạm. Vào thời điểm xây dựng Luật Phá sản
doanh nghiệp 1993, kinh tế nhà nước là chủ đạo và các doanh nghiệp Nhà nước là
trọng tâm của nền kinh tế. Với hướng tiếp cận như vậy, dường như Luật Phá sản
doanh nghiệp 1993 được thiết kế với trọng tâm hướng vào việc tái cơ cấu hệ thống
các doanh nghiệp nhà nước. Triết lý cơ bản của Luật Phá sản doanh nghiệp 1993
phản ảnh tư tưởng và chính sách cũ kỹ của nền kinh tế mới ở giai đoạn đầu của thời
kỳ đổi mới, do vậy chưa chú trọng đến các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, Luật
Phá sản doanh nghiệp 1993 cũng chỉ đi theo một hướng duy nhất là chú trọng giải
quyết sản nghiệp còn lại của con nợ, không quan tâm đến tái cơ cấu doanh nghiệp bị
mất khả năng thanh toán. Với xuất phát điểm như vậy, Luật Phá sản doanh nghiệp
1993 có rất nhiều quy định khó áp dụng, thiếu tính khoa học, xa dời thực tế và về cơ
bản đã không thành công với mục tiêu đề ra ban đầu.
Luật phá sản năm 2004:
Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 ra đời bước đầu đã tạo lập được một hành
lang pháp lý sơ bộ, giải quyết các vấn đề phá sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên luật

này được xây dựng trong điều kiện nước ta mới chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế
mới, việc phá sản và giải quyết phá sản hầu như chưa xảy ra, các kinh nghiệm thực
tiễn chưa có nhiều6. Cụ thể, tính đến năm 2003, sau gần 10 năm thi hành Luật Phá
sản doanh nghiệp 1993, toàn ngành Toà án chỉ thụ lý có 151 đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản7.
Nhiều quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 cịn rất bất cập, khơng
phù hợp với thực tiễn khách quan. Nguyên nhân là do bộ luật này được xây dựng từ
đầu những năm 90, là những năm đầu của tiến trình đổi mới, hiểu biết và kinh
nghiệm về nền kinh tế thị trường của Việt Nam cịn ít, điều kiện tham khảo các quy
6

Chun đề khoa học xét xử: Tìm hiểu Luật Phá sản – Tập 1. Viện Khoa học xét xử, TANDTC và NXB Tư
pháp, 2010 – Phan Thị Thu Hà – Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, tr.11.
7
Chuyên đề khoa học xét xử: Tìm hiểu Luật Phá sản – Tập 1. Viện Khoa học xét xử, TANDTC và NXB Tư
pháp, 2010 – Phan Thị Thu Hà – Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, tr.12.


12

định của pháp luật nước ngồi về phá sản cịn bị hạn chế, hệ quả là cơ quan lập
pháp còn chưa lường trước được nhiều vấn đề cần quy định trong luật phá sản.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, Tòa án
nhân dân tối cao đã được giao trọng trách chủ trì soạn thảo một bộ luật mới thay thế
cho Luật Phá sản doanh nghiệp 1993. Ngày 15/06/2004 Quốc hội đã thông qua Luật
Phá sản 2004 thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, có hiệu lực thi hành từ ngày
15/10/2004. Luật Phá sản 2004 bao gồm 9 chương và 95 điều, quy định và giải
quyết hầu hết các vấn đề liên quan đến giải thể doanh nghiệp.
So với Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 thì Luật Phá sản 2004 đã đơn giản
hóa khái niệm “tình trạng phá sản” tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành thủ tục

phá sản. Trước đây, theo Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 thì doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản khi:
Một là, tình hình kinh doanh khó khăn hoặc kinh doanh bị thua lỗ;
Hai là, thua lỗ trong vòng 02 năm liên tiếp đến mức không trả được các
khoản nợ đã đến hạn hoặc thanh toán đủ lương cho người lao động trong 03 tháng
liên tiếp,
Ba là, đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn. Đây là một quy định rắc rối và phức tạp.
Thực tiễn cho thấy điều kiện xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp
như vừa nêu gây khó khăn cho việc mở thủ tục phá sản. Ví dụ, nếu doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ trong 02 năm liên tiếp thì khi phá sản họ chẳng cịn lại tài sản gì, các
thủ tục cịn lại chỉ nhằm xóa sổ doanh nghiệp mà khơng cịn tính đến khả năng phục
hồi được doanh nghiệp. Khắc phục tình trạng đó, Luật Phá sản 2004 đã đề ra tiêu
chí xác định tình trạng phá sản dễ hơn nhiều. Chỉ cần “Doanh nghiệp, hợp tác xã
khơng có khả năng thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có u cầu thì
coi là lâm vào tình trạng phá sản”8.

8

Điều 3 Luật Phá sản 2004.


13

Luật Phá sản 2004 cũng đi theo hướng giảm thiểu các thủ tục mà chủ nợ phải
đáp ứng khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, không bắt buộc chủ nợ phải cung
cấp cho Toà án các giấy tờ, tài liệu để chứng minh rằng doanh nghiệp mắc nợ đã
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, chỉ cần chứng minh chủ nợ đã địi nợ nhưng
khơng được doanh nghiệp mắc nợ thanh toán nợ đến hạn là đã có cơ sở để yêu cầu
tuyên doanh nghiệp phá sản.

Nếu như trước đây thời hạn nợ lương của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với
người lao động (03 tháng) được coi là một điều kiện để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, thì với Luật Phá sản 2004, quy định này đã được xóa bỏ. Người lao động
có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã khi
họ không được trả lương cũng như các khoản nợ khác và trên cơ sở đó, họ cho rằng
doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản. Nói cách khác,
người lao động khơng cần đợt hết 03 tháng kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã
không trả được nợ lương, để tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã mà có thể tiền hành ngay khi doanh nghiệp, hợp tác xã đó thất bại trong việc
trả nợ lương cho họ (tất nhiên, trong một khoảng thời gian hợp lý).
Luật phá sản năm 2004 cũng mở rộng đối tượng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản bao gồm cả chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ
phần…nhằm tạo điều kiện để các chủ thể này tiến hành các thủ tục phá sản, giúp
chấm dứt tình trạng doanh nghiệp hầu như khơng có cơ hội phục hồi mà chủ doanh
nghiệp khơng thể tự mình u cầu xin phá sản doanh nghiệp đó.
Luật phá sản năm 2004 cũng quy định rõ hơn các biện pháp bảo toàn tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nhằm tạo khả năng
hồi phục cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó, Ví dụ, tại Điều 43, 44, Luật Phá sản
2004 quy định các giao dịch nhằm phân tán nhiều nơi hoặc cố ý làm thất thoát tài
sản sẽ bị tuyên bố vơ hiệu. Ngồi ra, với các hợp đồng đang có hiệu lực, Tịa án
cũng có thể đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu xét thấy việc thực hiện hợp đồng đó
gây bất lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.


14

Các cách xác định tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản cũng được quy định rõ hơn. Cụ thể, Luật Phá sản 2004 quy định tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm khơng chỉ tài sản,
quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu

cầu mở thủ tục phá sản mà còn bao gồm cả các khoản lợi nhuận, các tài sản và các
quyền tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch
được xác lập trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trước đó,
theo Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ
dừng lại ở những tài sản của con nợ ở thời điểm có quyết định mở thủ tục phá sản.
Về thứ tự ưu tiên thanh toán, Luật Phá sản 2004 và Luật Phá sản doanh
nghiệp 1993 có nhiều điểm tương đồng: Đó là ưu tiên thanh tốn chi phí phá sản và
các khoản nợ lương người lao động trước khi thanh toán cho các chủ nợ khác. Tuy
nhiên, điểm khác biệt là Luật Phá sản 2004 đã khơng ưu tiên thanh tốn các khoản
doanh nghiệp, hợp tác xã nợ thuế mà coi đó là các khoản nợ khơng có bảo đảm như
các khoản nợ của các chủ nợ khơng có bảo đảm khác. Việc bỏ quy định về ưu tiên
thanh toán tiền nợ thuế là xác đáng, tạo ra sự công bằng giữa các chủ nợ, coi các
khoản nợ nhà nước và khoản nợ đối với các tổ chức, cá nhân khác là như nhau.
Sau gần 10 năm được áp dụng, có thể nói Luật Phá sản 2004 đã thể hiện
được vai trị là một trong những cơng cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế của Việt Nam trong việc thể chế hóa chính sách kinh tế của nhà nước, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình trạng sản xuất
kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự,
góp phần tái phân phối tài sản; thúc đẩy sự lưu thông vốn trong nền kinh tế thị
trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và các chủ nợ9.

9

Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp 2004 số 55/BC-TANDTC của TAND tối cao, ngày
23/09/2013.


15

Luật phá sản năm 2014:

Theo báo cáo tổng kết 09 năm thi hành Luật Phá sản 2004 (2004 -2013),
Luật Phá sản 2004 đã bộc lộ một số hạn chế tác động tiêu cực đến việc thúc đẩy sự
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, nền tảng của hoạt động sản
xuất, kinh doanh của nền kinh tế; có những quy định của Luật Phá sản 2004 mâu
thuẫn, chưa tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy
định chưa phù hợp (hoặc khơng cịn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và cịn
có những cách hiểu khác nhau; có những quy định chưa đảm bảo được quyền và
lợi ích hợp pháp của người yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng như doanh nghiệp,
hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố phá sản; có những quy định chưa tương thích với
pháp luật quốc tế, có các quy định của Luật Phá sản 2004 không tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã tiến hành các thủ tục phá sản. Những hạn
chế trên dẫn đến hiệu quả áp dụng quy định Luật Phá sản 2004 vào thực tiễn
không cao10.
Mặt khác, sau khi Luật Phá sản 2004 được ban hành, ngày 24/05/2005, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
trong đó tại Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền
tự do kinh doanh có nhận định: “xác định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu
nhà nước và các chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền
sở hữu,...Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công
dân được làm tất cả những gì pháp luật khơng cấm. Tạo cơ sở pháp luật để cơng
dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản xuất, kinh
doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và góp phần làm
10

Theo trang thơng tin hỗ trợ đăng ký DN thì năm 2012 đăng ký 69.874 DN, trong đó dừng hoạt động và giải
thể là 54.261 (có 44.906 DN dừng và 9.355 giải thể). Trong khi đó 9 năm thi hành LPSDN năm 2004, Tòa án
thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp
(trong đó Tồ án quyết định tun bố phá sản 83 trường hợp, còn 153 vụ việc chưa ra Quyết định tuyên bố
phá sản). Như vậy có thể thấy số lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản so với số lượng DN ngừng hoạt

động là rất thấp; có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có nguyên nhân quy định pháp luật
phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên
bố phá sản.


16

giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các
cam kết quốc tế khác. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các Doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, cải
thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đối với đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng
tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã
hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương
mại quốc tế. Đổi mới cơ bản pháp luật về phá sản”11.
Bên cạnh đó, ngày 19/02/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 339/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh
tranh giai đoạn 2013–2020, trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm thực hiện bình đẳng
quyền và nghĩa vụ của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
Triển khai tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 nêu trên và
Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với chuyển đổi mơ hình tăng trưởng theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013–2020
của Chính phủ, nhận thức được những hạn chế, bất cập của thực tiễn thi hành Luật
Phá sản 2004, Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị và được Quốc hội quyết định đưa
Dự án Luật Phá sản (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ
Quốc hội khoá XIII (2011-2016).
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội XIII, Luật Phá sản 2014 đã chính thức được

thơng qua ngày 19/06/2014, bao gồm 9 chương, 133 điều và sẽ có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/01/2015 đồng thời thay thế cho Luật Phá sản 2004. Đây có thể coi là
bước tiến đáng kể của Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật, cải thiện môi
trường đầu tư, kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng doanh nghiệp trong
11

Tờ trình về Dự án Luật Phá sản sửa đổi, TANDTC, Số. 03/TTr-TANDTC, ngày 26/08/2013.


17

việc thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết. Luật Phá sản 2014 là bộ luật hoàn chỉnh
nhất và đầy đủ nhất trong việc giải quyết các vấn đề phá sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã.
So với các luật phá sản trước đây, Luật Phá sản 2014 đi theo hướng mở rộng
hơn các đối tượng được nộp đơn xin yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trước tiên, Luật
Phá sản 2014 quy định chủ nợ khơng có bảo đảm, có bảo đảm một phần có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kế từ ngày khoản nợ
đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã khơng thực hiện nghĩa vụ thanh tốn. Bên
cạnh đó, người lao động, cơng đồn cũng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán lương,
mà doanh nghiệp, hợp tác xã khơng thanh tốn.
Về mặt thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án, Luật Phá sản 2014 tiếp
thu tinh thần của Luật Phá sản 2004 nhưng có cải tiến hơn khi quy định Tịa án nhân
dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
có trụ sở chính tại quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó trong khi theo luật
cũ, Tịa án cấp huyện chỉ được giải quyết phá sản đối với hợp tác xã. Tịa án nhân
cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký
kinh doanh tại tỉnh đó và vụ việc phá sản có tài sản ở nước ngồi hoặc người tham
gia thủ tục phá sản ở nước ngoài; doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh tốn

có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều quận, huyện thuộc tỉnh khác nhau; vụ việc
phá sản thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện nhưng tòa án cấp tỉnh lấy lên giải
quyết.
Bên cạnh đó, Luật Phá sản 2014 có một số quy định mới. Ví dụ: Các giao
dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán được thực hiện trong 06
tháng trước ngày tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản nếu đó là giao dịch liên
quan đến chuyển nhượng tài sản không theo giá thị trường; chuyển khoản nợ khơng
có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã; tặng cho tài sản; giao dịch ngồi mục đích hoạt động kinh doanh


18

của doanh nghiệp, hợp tác xã; giao dịch khác nhằm tẩu tán tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã thì đều bị coi là vô hiệu. Thủ tục phá sản tổ chức tín dụng lần
đầu tiên được quy định trong Luật Phá sản 2014. Trong đó luật yêu cầu Tổ chức tín
dụng phải có nghĩa vụ nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản; trường hợp Tổ chức tín
dụng không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
sẽ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với Tổ chức tín dụng đó.
Ngồi ra, Luật Phá sản 2014 cịn bổ sung các phương án thương lượng giữa
các bên trước khi tòa thụ lý đơn yêu cầu của chủ nợ. Theo đó, trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ,
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản có quyền đề nghị bằng văn bản gửi Tòa án để các bên thương lượng
về việc rút đơn. Tòa án ấn định thời gian thương lượng nhưng không quá 20 ngày
kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ. Trường hợp các bên
thỏa thuận được với nhau về việc rút đơn u cầu mở thủ tục phá sản thì Tịa án trả
lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trường hợp thương lượng không thành công
hoặc hết thời hạn thương lượng mà các bên khơng tiến hành thương lượng thì Tịa
án thơng báo cho người nộp đơn nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản và thụ

lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định.
1.2

Khái quát về phá sản theo Luật Phá sản 2014

1.2.1. Khái niệm phá sản
Doanh nghiệp nào cũng sẽ phải gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt, sự khan
hiếm nguồn vốn hay sự quản lý tài chính lỏng lẻo. Khi đó, khái niệm “phá sản” hay
“vỡ nợ” là tình trạng mà doanh nghiệp phải đối mặt nếu như khơng tìm ra hướng
giải quyết. Theo góc độ kinh tế học, phá sản là tình trạng mất cân bằng giữa thu và
chi tại một doanh nghiệp hay một công ty mà biểu hiện rõ rệt nhất ở sự mất cân
bằng ấy là tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ vay đã đến hạn thanh
toán. Về nguồn gốc, thuật ngữ phá sản được diễn đạt bằng từ "bankruptcy" (theo
tiếng Anh) hoặc "banqueroute" (theo tiếng Pháp) mà nhiều người cho rằng từ này


19

bắt nguồn từ chữ "Banca Rotta" trong tiếng La Mã cổ đại, trong đó banca có nghĩa
là chiếc ghế dài, cịn rotta có nghĩa là bị gãy. Banca rotta có nghĩa là "băng ghế bị
gãy"12.
Từ xưa, các thương nhân La Mã thường họp với nhau để xem xét các khía
cạnh kinh doanh của từng cá nhân, trong một diễn đàn gọi là “đại hội thương gia”;
người nào không trả được các khoản nợ thường bị bắt làm nô lệ, đồng thời mất luôn
quyền tham gia đại hội. Chiếc ghế của người “vỡ nợ”, theo đó, sẽ bị đem ra khỏi hội
trường. Vì vậy, người La Mã khi xưa mới dùng thuật ngữ bóng bẩy “chiếc ghế bị
gãy” để ám chỉ người “phá sản” và khơng cịn quyền lợi gì, hay người mất vị thế
trong các đại hội thương gia. Về sau, để quản lý các tình trạng “phá sản” của các
thương nhân đồng thời ngăn ngừa những “con nợ” bỏ trốn nhằm trốn các hình phạt
hay trách nhiệm, các chế định về quản lý và xử lý tài sản của các “con nợ” ra đời rồi

dần dần được cải thiện và nâng cấp thành Luật phá sản của nhà nước La Mã cổ đại.
Cũng ở thời kì này, thuật ngữ “phá sản” được sử dụng phổ biến, rất nhiều chuyên
gia cho rằng nó bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La-Tinh, có nghĩa là “sự khánh
tận”13.
Ở Việt Nam, có nhiều thuật ngữ được sử dụng như: phá sản, vỡ nợ, khánh
tận, khánh kiệt. Từ điển tiếng Việt định nghĩa từ “phá sản” là lâm vào tình trạng tài
sản chẳng cịn gì và thường là vỡ nợ do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại; “vỡ nợ”,
“khánh tận” là lâm vào tình trạng bị thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải
bán hết tài sản mà vẫn không đủ để trả nợ. Như vậy, trong cách hiểu thông thường,
khái niệm phá sản thường chỉ ra sự việc “phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ trả
nợ”.
Trong tiếng Anh, khái niệm phá sản và mất khả năng thanh toán được diễn
đạt dưới những thuật ngữ bankruptcy14, insolvency15. Hai thuật ngữ này có khi được
12

Nguồn gơc của khái niệm phá sản, />13
Nguồn gôc của khái niệm phá sản, />14
/>

20

sử dụng như là những từ đồng nghĩa. Tuy vậy, có tác giả cho rằng, insolvency là
khái niệm liên quan đến tình trạng tài chính, trong khi đó bankruptcy lại là khái
niệm thuần tuý pháp lý.
Cụ thể, từ insolvency (được dịch sát nghĩa tương đương trong tiếng Việt
là mất khả năng thanh tốn) là để chỉ một tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
Tình trạng này có thể xác định theo phương thức dựa trên cân đối tài sản – nợ cho
thấy tài sản cịn lại khơng đủ để thanh toán nợ (được gọi là “balance-sheet”
insolvency) hoặc dựa vào việc doanh nghiệp khơng cịn khả năng thanh tốn nợ đã
đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu (được gọi là “cash-flow” insolvency16). Khi một

doanh nghiệp bị mất khả năng thanh tốn (insolvency) thì nó có thể được thực hiện
các thủ tục phục hồi kinh doanh (reorganazation) hoặc bị thanh lý (liquidation,
winding-up).
Từ bankruptcy thì được hiểu như là thủ tục pháp lý để giải quyết tình trạng
mất khả năng thanh tốn.
Ở Hoa Kỳ, thuật ngữ bankruptcy được sử dụng cho cả thủ tục phá sản áp
dụng cho cá nhân hoặc doanh nghiệp. Như vậy, từ các phân tích trên đây có thể thấy
về mặt pháp lý, khái niệm “phá sản” có thể được hiểu theo hai khía cạnh sau đây:
Một là, phá sản là tình trạng một tổ chức kinh doanh bị mất khả năng thanh
toán và bị cơ quan nhà nước (thơng thường là Tịa án) ra quyết định tun bố phá
sản. Hậu quả của quyết định này là sự chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp.
Hai là, phá sản là thủ tục pháp lý liên quan đến một tổ chức kinh doanh để
giải quyết tình trạng mất khả năng thanh tốn của tổ chức đó. Thủ tục pháp lý này
được quy định bởi Luật phá sản và các bộ luật có liên quan, được tiến
hành từ khi có dấu hiệu tổ chức kinh doanh đó lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh tốn (insolvency) và q trình giải quyết tình trạng mất khả năng thanh tốn
được thực hiện có thể đưa đến những hệ quả khác nhau là phục hồi tổ chức kinh
15
16

/> />

21

doanh (reorganization) hoặc thanh lý tài sản và chấm dứt hoạt động của tổ chức
kinh doanh (liquidation hoặc winding-up).
Khác với các văn bản luật phá sản trước đây của Việt Nam đều không đưa ra
định nghĩa cho khái niệm phá sản, cụ thể là Luật Phá sản 2004 chỉ đưa ra khái niệm
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản “Doanh nghiệp, hợp tác xã
khơng có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có u cầu thì

coi là lâm vào tình trạng phá sản”17. Luật Phá sản 2014 đã đưa ra định nghĩa pháp
lý về phá sản, theo đó “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh tốn (là doanh nghiệp, hợp tác xã khơng thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán)18 và bị tòa án
nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”19. Khái niệm này đã tiếp cận phá sản
dưới góc độ là một quyết định của Tịa án chứ khơng phải là q trình ban hành ra
quyết định đó (thủ tục phá sản).
Như vậy, Luật Phá sản 2014 khơng cịn dùng khái niệm "lâm vào tình trạng
phá sản” mà dùng khái niệm “mất khả năng thanh toán”, và nội hàm của khái niệm
mất khả năng thanh toán được xác định cụ thể, rõ ràng hơn, có nhiều điểm khác biệt
so với Luật Phá sản năm 2004, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiêu chí xác định mất khả năng thanh tốn là “khơng thực hiện
nghĩa vụ thanh tốn” mà khơng phải là “khơng có khả năng thanh tốn”.
Thứ hai, thời điểm được xác định là trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến
hạn thanh tốn mà khơng phải là “khi chủ nợ có u cầu”.
Nhìn chung, việc định lượng ở đây chỉ dừng lại thời gian trễ hạn thanh toán
mà không quan tâm đến giá trị của các khoản nợ bao nhiêu. Điều này cho thấy Luật
Phá sản 2014 đã quan tâm đến bản chất của tình trạng mất khả năng thanh tốn,
phân biệt rạch rịi giữa hai khái niệm là “mất khả năng thanh toán” và “phá sản”.
Luật Phá sản 2014 quy định thời gian rõ ràng, không căn cứ vào việc chủ nợ có yêu
17

Điều 3 Luật Phá sản 2004.
Khái niệm mất khả năng thanh toán quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014.
19
Khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản 2014.
18


22


cầu địi nợ hay khơng. Nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, đảm bảo trách nhiệm trả
nợ đúng hạn của con nợ. Đối với chủ nợ, để yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ
không cần phải chứng minh đã có u cầu thanh tốn, nhưng khơng được doanh
nghiêp, hợp tác xã thanh tốn (như văn bản địi nợ của chủ nợ, vản bản khất nợ của
doanh nghiệp, hợp tác xã). Tuy nhiên Luật Phá sản 2014 vẫn dành một khoảng thời
gian 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn chưa trả, để doanh nghiệp, hợp tác xã,
con nợ tự giải quyết những khó khăn về tài chính tạm thời, khó khăn về dịng tiền,
qua đó tạo thêm cơ hội để doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán nợ và giảm áp lực
“đe dọa” nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía chủ nợ.
1.2.2. Đặc điểm của phá sản
Pháp luật về phá sản gồm những đặc điểm sau20:
Thứ nhất, đối tượng bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã trong
Luật Phá sản 2014 chỉ áp dụng với doanh nghiệp, hợp tác xã mà không áp dung cho
cá nhân hay chủ thể kinh doanh. Đây là điểm khác biệt của pháp luật phá sản Việt
Nam so với pháp luật phá sản ở các nước trên Thế giới, một số nước áp dụng cho tất
cả con nợ (cá nhân hay pháp nhân), các nước thừa nhận phá sản cá nhân như Úc,
Anh, Mỹ thì việc giải quyết phá sản cá nhân được áp dụng theo một thủ tục khác so
với phá sản doanh nghiệp.
Thứ hai, phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể, sở dĩ nói phá sản là một thủ
tục địi nợ tập thể vì các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ khơng tự xé lẻ ra để địi
nợ riêng. Họ cùng tham gia vào một thiết chế chung để tiến hành thu hồi nợ hay
đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là Hội nghị chủ nợ. Ngoài ra, khi giải quyết vấn đề
phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã thì tồn bộ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã đó được thanh lý và đưa vào quỹ chung, sau đó thanh toán nợ cho các chủ nợ

20

Tại sao phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biêt, />


×