Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

QUAN điểm của hồ CHÍ MINH về mục TIÊU và ĐỘNG lực của CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.15 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC LÃNH TỤ CỦA ĐẢNG


BÀI THU HOẠCH
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU
VÀ ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM

Học viên:
Mã số học viên: ........................
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT


HÀ NỘI - 2019


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, mở ra một thời đại
mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội. Bằng trí tuệ thiên tài, phẩm chất, nhân cách và năng lực hoạt động thực
tiễn của mình, từ chủ nghĩa yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin. Khi đọc bản Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin, Người đã vui mừng đến phát khóc lên, ngồi trong phịng
mà Người nói to như truớc đồng bào đang đau khổ: Đây là cái cần thiết cho


chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Từ sự phân tích, nhìn nhận một
cách khách quan, khoa học, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin”. Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lựa chọn đưa cách mạng
Việt Nam đi theo con đường của cách mạng tháng Mười, theo quỹ đạo của cách
mạng vơ sản. Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”. Đây là bước chuyển vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt
Nam, bởi nó chấm dứt sự khủng hoảng về đuờng lối, mở ra hướng đi mới cho
lịch sử dân tộc.
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, đồng thời xuất phát từ
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây
dựng sáng tạo học thuyết cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước
của Việt Nam. Trong đó, vấn đề cơ bản nhất, xuyên suốt nhất là: “Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội''. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, khách
quan, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng khát vọng thiêng liêng
của toàn thể nhân dân Việt Nam, giải quyết triệt để những mâu thuẫn nội tại của
cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đã được chính thức
khẳng định trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 của Đảng ta: “làm tư sản dân
4


quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tư tưởng của
Người đã đặt nền móng cho việc hình thành đường lối, tạo nên thắng lợi vĩ đại
của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 80 năm qua.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc,
già khơng lao động được thì nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt dần dần

được xóa bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần
ngày càng tốt, đó là CNXH.
Có thể nói, quan niệm của Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội chính là sự
khẳng định tính chất và triển vọng của một chế độ chính trị, xã hội đầy tính nhân
đạo và hiện thực, thể hiện việc vận dụng sáng tạo CN Mác-Lênin vào hoàn cảnh
nước ta.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài thu hoạch nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực
của xã hội chủ nghĩa và một số định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, bài thu
hoạch được kết cấu thành 3 phần:
1) Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
2) Sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc CNH, HĐH đất nước hiện nay.
3) Định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo quan điểm Hồ
Chí Minh.

5


NỘI DUNG
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
- Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội khơng phải là những gì
cao siêu, huyền bí. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
hết sức cụ thể, giản dị, dễ hiểu: ''Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giầu, nước
mạnh”, “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của

nhân dân”, “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để
được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”. Nguời khẳng định xã hội xã hội chủ
nghĩa là “một thế giới khơng có người bóc lột người, mọi người sung sướng,vẻ
vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”. Đối với điều kiện,
đặc điểm của Việt Nam, một nước nơng nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp,
chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì mục tiêu ban đầu của
chủ nghĩa xã hội phải đặt ra một cách thiết thực: “Làm cho người nghèo thì đủ
ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết
chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã
hội xã hội chủ nghĩa ln là sự thống nhất biện chứng của các yếu tố kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Người nói: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội''. Cụ thể hơn, Bác cho rằng
chủ nghĩa xã hội phải “có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến”. Cịn về chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành
và lực lượng đều ở mọi người dân, mọi cán bộ, công chức nhà nước đều là công
bộc của dân.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh là một chế
độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ; là một chế độ xã hội có nền kinh tế
phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật; là chế độ
khơng cịn người bóc lột người; là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo
đức...
6


Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý
luận là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực
hiện những giá trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta.

Mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là độc lập dân tộc và hạnh phúc cho
nhân dân. Cùng với đó, Hồ Chí Minh cũng xác định các mục tiêu cụ thể của chủ
nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể:
Một là, mục tiêu chính trị: Xây dựng chế độ chính trị do nhân dân làm
chủ, có nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước có 2 chức năng: dân chủ với
nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng này không tách
rời nhau mà luôn luôn đi đôi với nhau. Để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, HCM chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực
tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội của quần
chúng, củng cố các hình thức dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu qủa
quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ
chức năng của chúng.
Hai là, mục tiêu kinh tế: Phát triển về trình độ, nền cơng - nơng nghiệp
hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến.Về cơ cấu ngành phát triển các ngành công
nghiệp- nông nghiệp- thương nghiệp. Phải kết hợp các lợi ích kinh tế, kết hợp
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
Ba là, mục tiêu văn hố - xã hội: theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục
tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh
hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục,
nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống
mới, thực hành vệ sinh phịng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan,
khắc phục phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng được con người mới. Hồ Chí
Minh cho rằng muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội
chủ nghĩa , tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học
tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin nâng cao lòng yêu nước, yêu
7


chủ nghĩa xã hội. Phương châm xây dựng nền văn hoá mới : dân tộc - khoa học
- đại chúng.

- Về động lực của chủ nghĩa xã hội
Động lực là tất cả những nhân tố, yếu tố thúc đẩy cho sự vật, hiện tượng
vận động và phát triển. Động lực của chủ nghĩa xã hội là tất cả những nhân tố,
yếu tố thúc đẩy sự vân động và phát triển của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Để thực hiện được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nói trên, cần phát
hiện những động lực và những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở
thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: vật
chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Trong đó, động lực quan trọng và quyết
định nhất là con người, là nhân dân lao động, nịng cốt là cơng - nơng - trí thức.
Các động lực khác muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua con người.
Nguồn lực con người đã được Hồ Chí Minh xem xét trên cả hai bình diện
cộng đồng và cá nhân:
Để phát huy nguồn lực trên bình diện cộng đồng, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động xây dựng chủ
nghĩa xã hội của tồn Đảng, tồn dân.
Sức mạnh của cộng đồng được hình thành từ sức mạnh của từng con
người, thông qua sức mạnh của từng con người. Do đó, muốn phát huy sức
mạnh của cộng đồng, phải tìm ra các biện pháp khơi dậy, phát huy sức mạnh của
từng con người. Để phát huy nguồn lực con người trên bình diện cá nhân, Hồ
Chí Minh đã đề ra nhiều biện pháp, đó là:
Thứ nhất, tác động vào nhu cầu và lợi ích chính đáng của từng con người.
Hồ Chí Minh phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, nhưng hơn ai hết, Người rất
quan tâm đến con người, khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng, tìm tịi cơ
chế, chính sách để kết hợp hài hồ lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội như khoán,
thưởng, phạt trong kinh tế.

8



Thứ hai, Tác động vào các động lực chính trị - tinh thần. Trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh yêu cầu phải phát huy quyền làm chủ
và ý thức làm chủ của người lao động, bao gồm quyền làm chủ sở hữu, làm chủ
quá trình sản xuất và phân phối, làm chủ trong các hoạt động chính trị - xã hội;
thực hiện cơng bằng xã hội; sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố tinh thần
khác như chính trị, văn hố, giáo dục, đạo đức, pháp luật,…
Để thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đến thành công, bên
cạnh việc tìm ra và tác động vào các động lực, Hồ Chí Minh cịn u cầu chúng
ta phải nhận diện và khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội. Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, Người yêu cầu chúng ta phải
kiên quết đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ
bệnh nguy hiểm; chống tham ô, lãng phí, quan liêu; chống chia rẽ, bè phái, mất
đồn kết, vô kỷ luật; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu
học tập cái mới,…
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người xã hội chủ nghĩa". Con người là yếu tố quyết định. Do đó, Bác đặc
biệt quan tâm tới việc tuyên truyền, vận động, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con
người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bác đòi hỏi phải giáo dục, đào tạo con người một
cách tồn diện: đức, trí, thể, mỹ; đặc biệt là giáo dục, rèn luyện về đạo đức, vì
“sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang'', “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...khi gặp thuận lợi và thành cơng vẫn khiêm tốn, lo
hồn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, khơng cơng
thần, khơng quan liêu, khơng hủ hóa”. Theo Bác, đạo đức cách mạng, nói một
cách tóm tắt, “là tuyệt đối trung thành với đảng,với nhân dân. Đặt lợi ích của
Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi việc”, là "cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.

Để trở thành con người xã hội chủ nghĩa, theo Bác, mỗi người phải “học tập,
9


học tập nữa, học tập nữa. Học chính trị, thời sự, kỹ thuật”, “muốn rèn luyện đạo
đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ
nữa...không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp, mới học tập, tu dưỡng, rèn
luyện và tự cải tạo đuợc. Trong mọi hoạt động cách mạng chúng ta đều có thể và
đều phải học tập, tự cải tạo”. Bác đặc biệt nhấn mạnh để rèn luyện đạo đức cách
mạng, để trở thành con người xã hội chủ nghĩa thì phải chống chủ nghĩa cá
nhân, vì do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra nhiều tính xấu, “do chủ nghĩa cá nhân
mà sinh ra công thần, do công thần sinh ra kiêu ngạo, kèn cựa, địa vị...cũng do
chủ nghĩa cá nhân mà lo lắng tiền đồ bản thân, chỉ biết vun vén cho bản thân
mình”; “vì chưa gột sạch chủ nghĩa cá nhân cho nên có đảng viên cịn kể cơng
với Đảng. Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ địi ưu đãi,
họ đòi danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu khơng thoả mãn u cầu của họ
thì họ ốn trách Đảng, cho rằng “họ khơng có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần
dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”. Vì vậy,
Bác yêu cầu mọi người, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải quét sạch chủ nghĩa
cá nhân.
Bên cạnh đó, trong hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
cịn nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước,
cũng như vai trò của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Cách mạng có Đảng lãnh đạo như tầu có lái mới vượt qua được phong ba
bão táp; phải xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Đảng Cộng sản
là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng, của việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng
tư tưởng. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới công tác xây dựng
Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng
một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ

nghĩa xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta; phải thường xuyên xây dựng
Đảng vững mạnh về tổ chức chính trị, tư tưởng và đạo đức; xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng "như giữ gìn
con ngươi của mắt mình”; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ,
10


đảng viên phải “xứng đáng là nguời lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành
của nhân dân”.
Cùng với xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng xây
dựng, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố đảm bảo
cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bác
nói: “Nếu khơng có nhân dân thì chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có
Chính phủ, thì nhân dân khơng ai dẫn đường”. Xây dựng nhà nước, theo Bác thì
điều quan trọng hàng đầu là nhà nước đó phải là nhà nước của nhân dân, chăm
lo lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Cơ sở xã hội của nhà nước là khối
đoàn kết tồn dân tộc trên nền tảng liên minh cơng, nơng, trí do Đảng lãnh đạo.
Đồng thời, phải xây dựng được bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; phải nhanh chóng xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách trên các lĩnh vực. Theo Bác, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội là sự nghiệp của tồn dân, do đó cần phát huy tính tích cực, chủ động của
tồn dân, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân thực hiện đầy đủ vai trị của
mình trong cơng cuộc xây dựng đất nuớc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng
thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Ngồi các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh còn cần phải kết hợp
được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải biết tiếp thu và
vận dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật thế giới…
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc CNH, HĐH đất nước

hiện nay
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được những
thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Cùng với tổng kết thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa.
Nhưng, trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời cơ, vận
hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình
11


diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối
cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan
trọng nhất.
- Giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam:
Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được độc lập dân
tộc, từng bước quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta, độc lập
dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sau khi giành được độc lập dân tộc
phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa trong q trình phát triển
của xã hội lồi người. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của
toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi
người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới tồn diện đất nước vì mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là tiếp tục con
đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh

đã lựa chọn. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là
thay đổi mục tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách
ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền
vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa;
khơng vì phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các
mặt khác của cuộc sống con người.

12


Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để phục vụ
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học - công
nghệ hiện đại, làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng
xã hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các
nguồn lực, trước hết là nội lực để thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải
trải qua. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công
nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta
thành một nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc
năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn
dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân,
nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát
huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài
năng, sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân
tộc để xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế,
làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực
của sự phát triển xã hội.
- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.

13


- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh,
trên cơ sở lấy liên minh cơng - nơng - trí thức làm nịng cốt, tạo nên sự đồng
thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận
lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập
trung ở cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ, xu thế tồn cầu hóa. Chúng ta
phải tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm
quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ
hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần

dân tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm
lực quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản
lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường
cột của nước nhà, để khơng tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có
bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố
độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa lồi người, làm phong phú, làm giàu thêm nền
văn hóa dân tộc.
- Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân
chính, một Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng "đạo đức,
văn minh". Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng
14


dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu
trong mọi việc.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một
cách đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ
liêm khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy
chính quyền những "ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân để mưu
cầu lợi ích riêng; phát huy vai trị của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước,

hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây
dựng nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành
quốc sách, thành một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức,
một hành vi văn hóa như Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Một dân tộc biết cần, biết
kiệm" là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được
nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
3. Định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo quan điểm
Hồ Chí Minh
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng
buớc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ
của nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các
ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; phát
triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có lợi
thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng
cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả vào
dây chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối tồn cầu. Đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; phát triển nông - lâm – ngư nghiệp
15


một cách toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề
của nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch
vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nuớc, các cơng
trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng đồng bằng, trung du và
miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong đó, cơ chế thị truờng được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu
quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh
bình đẳng, lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với
xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước
để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các
loại thị trường, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực
kinh tế.
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành
nền tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát
huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng, văn hố hóa
phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

16


Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phịng tồn
dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, an ninh; xây dựng quân đội nhân dân và cơng an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự
vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; xây dựng nền cơng nghiệp quốc phịng, an

ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại; để
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững
hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động
ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi cho
sự phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế
cuộc sống ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực
đều thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế,
chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức
đều là công bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục
tiêu xây dựng nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp, đoàn
kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. Xây dựng, phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc,
các đồn thể nhân dân trang việc tập hợp, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
17


Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự

là của nhân dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội,
thực hiện các cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi
ích của Nhà nuớc và nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của
Tổ quốc và nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; có tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh; có đội ngũ
cán bộ, cơng chức có phẩm chất và năng lực cao; có cơ chế kiểm sốt, ngăn
ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, xâm phạm
quyền dân chủ của nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; kiên định chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng; thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc; có năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu cao.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.

18


KẾT LUẬN
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ quá độ lên

CNXH, kinh tế vẫn luôn đóng vai trị quyết định đối với chính trị và các quan hệ
xã hội khác. Song, chính trị có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế. Nhưng chính trị phải phản ánh trên cơ sở tính tất yếu kinh tế
mới có tác dụng tích cực đối với q trình phát triển kinh tế, xã hội.
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã tiến hành đường lối
đổi mới, chủ trương thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ
trương đó phản ánh đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta
hiện nay. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất
nước và xu hướng của thời đại, là bước trung gian quá độ không tránh khỏi để
tiến lên CNXH.
Tuy nhiên, thực tế phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta cho
thấy, bên cạnh những mặt tích cực cịn nhiều mặt tiêu cực tác động ngược chiều
ảnh hưởng tới mục tiêu XHCN mà chúng ta đã lựa chọn. Nền kinh tế nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường không thể đảm bảo phát triển theo
định hướng XHCN nếu khơng có tác động tích cực của chính trị đối với q
trình phát triển của nó. Để nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường đi đúng quỹ đạo XHCN cần phải có "tay lái" vững chắc của chính trị.
Nhận thức được điều đó, Đảng ta đã kế hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế gắn liền
với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị, bảo đảm ổn định chính trị làm tiền đề cho phát triển kinh tế
theo định hướng XHCN. Song, chúng ta phải tiếp tục đổi mới để đảm bảo vai trị
lãnh đạo của chính trị đối với quá trình định hướng sự phát triển của nền kinh tế.
Trong đó, đặc biệt chú ý tới vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của
Nhà nước - những nhân tố tối quan trọng trong việc đảm bảo định hướng XHCN
sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Có như vậy mới
thực sự đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động hướng tới mục tiêu
XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, 18,
22, 32;
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nơi, 2002, tập 1-12;
3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, TS Ngô Văn Lương (Chủ biên): Tư tưởng
Hồ Chí Minh về kinh tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
IX, X, XI, XII;
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Giáo
trình cao cấp Lý luận chính trị, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018.
5. TS Nguyễn Huy Oánh: Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh
tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004;
6. PGS, TS Nguyễn Thế Hinh: Nội dung môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
7. ;

20



×