Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

QUAN điểm mác LÊNIN về dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG QUÁ TRÌNH đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.79 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


BÀI THU HOẠCH
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

QUAN ĐIỂM MÁC - LÊNIN
VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG TA TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI

Học viên: NGUYỄN TRUNG SƠN
Mã số học viên: ..............................
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT, K70-C04

HÀ NỘI - 2019


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là
những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học có quan hệ biện chứng
với nhau. Trong đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là yếu tố thể hiện đầy đủ
chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội, cịn hệ thống chính trị là hình thái tổ chức
và là cốt lõi của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “giai đoạn thứ nhất của cuộc
cách mạng công nhân là giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền”1. V.I.Lênin
cũng nói “dân chủ là hình thức tổ chức xã hội có giai cấp, là hình thái nhà


nước”2. Vì vậy, q trình thiết lập, củng cố và hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và xây dựng hệ thống chính trị là q trình đấu tranh gay gắt trên lĩnh vực
chính trị tư tưởng cũng như lĩnh vực đời sống chính trị thực tiễn.
Theo quan điểm Mác-xít, trong xã hội có giai cấp thì bất cứ giai cấp cầm
quyền nào cũng tổ chức ra bộ máy nhà nước để duy trì sự thống trị của mình đối
với xã hội. Theo đó, khi giai cấp cơng nhân tiến hành cách mạng vô sản giành
thắng lợi tất yếu sẽ tổ chức ra hệ thống quyền lực của mình đối với xã hội đó là
hệ thống chun chính vơ sản - hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể bao gồm tồn bộ những tổ chức chính
trị - xã hội (Đảng Mác-Lênin, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các đoàn thể nhân dân
lao động), hoạt động hợp pháp cùng với cơ chế chính trị đảm bảo quyền lực thực
tế của nhân dân lao động. Nói cách khác, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là
toàn bộ những thiết chế, cơ chế của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân lao động, do Đảng cộng sản lãnh đạo thực hiện
chức năng cơ bản là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, quốc phịng - an ninh…
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thiết lập sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Đó là chế độ dân chủ nhân dân, với sự ra
đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa và các tổ chức chính trị - xã hội
của nhân dân, ra đời và trưởng thành trong cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của
1 Mác và Ăngghen toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.1995, Tr.615.
2 Lênin toàn tập, Tập 33, Nxb TB, M, H.1976, Tr.23.

3


Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng tiến trình phát triển của cách mạng, hệ thống
chính trị ở nước ta ngày càng được củng cố, xây dựng và kiện toàn thể hiện bản
chất khác hồn tồn so với hệ thống chính trị tồn tại trước đó trong lịch sử.

Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nước ta bao gồm: Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mặt trận tổ quốc và các đồn thể
chính trị xã - hội của nhân dân, hoạt động theo cơ chế: Đảng cộng sảnViệt Nam
lãnh đạo; Nhà nước điều hành quản lý xã hội; Nhân dân làm chủ. Chính cơ chế
vận hành ấy đã quy định bản chất hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất xã
hội chủ nghĩa, vừa phát huy vai trò, chức năng, hiệu quả hoạt động của nó trong
q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Qua hoạt động của hệ thống
chính trị, cách mạng Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi trong sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời bản thân hệ
thống chính trị cũng ngày càng được xây dựng, kiện tồn, củng cố, đổi mới và
hoàn thiện.
Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị thực chất là xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vấn đề này có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nhận thức lý luận, tư tưởng cũng như thực tiễn
q trình đổi mới, kiện tồn hệ thống chính trị, xây dựng và hồn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa với tính cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài thu hoạch nghiên cứu kỹ hơn các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó đề xuất một số định hướng nhằm phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, bài thu
hoạch được kết cấu thành 3 phần:
1) Quan điểm Mác-Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2) Sự vận dụng quan điểm Mác-Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa của
Đảng ta trong tiến trình đổi mới.
3) Định hướng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

4



NỘI DUNG
1. Quan điểm Mác-Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chun chính vơ sản là sự thống trị về chính trị của giai cấp cơng nhân
đối với tồn bộ xã hội, do cách mạng vô sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng
thành cơng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đưa nhân dân lao động lên
địa vị làm chủ trên rất cả mọi mặt đời sống xã hội.
Hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hai phạm trù cơ bản
của chủ nghĩa xã hội khoa học có quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau trong một
chỉnh thể thống nhất; là mối quan hệ “song trùng” cả về quá trình hình thành,
phát triển, bản chất; đồng thời quy định bản chất của chế độ xã hội - xã hội chủ
nghĩa ưu việt hơn hẳn chế độ xã hội - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Bản chất của chế độ xã hội do cơ sở kinh tế quy định, nhưng biểu hiện
trước hết về mặt xã hội là chế độ dân chủ. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời
bắt đầu từ khi chính quyền thuộc về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là nền dân chủ của nhân dân từng
bước chuyển biến thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Là nền dân chủ cho đa
số, do đa số nhân dân lao động, tiến tới một xã hội khơng cịn giai cấp. Thực
chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải quyết mối quan hệ cốt lõi: dân chủ với
ai, chuyên chính với ai. Nếu như trong xã hội tư bản, dân chủ là đàn áp, nô dịch
với đa số nhân dân lao động và dân chủ, tự do với số ít bọn người bóc lột (giai
cấp tư sản) thì trong xã hội - xã hội chủ nghĩa thực hành dân chủ với quảng đại
đa số quần chúng nhân dân lao động và chuyên chính với bọn phản động, và giai
cấp bóc lột chống lại nền dân chủ của nhân dân lao động.
Xét về bản chất, hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội và hệ thống
chun chính vơ sản là đồng nhất. Nó là cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân
dân, vận hành theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý; Nhân dân làm
chủ. Chính vì vậy, quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước và quyền lực dân chủ
đến đâu đều phụ thuộc vào cơ chế, thiết chế và tổ chức hoạt động của hệ thống
chính trị do giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động thiết lập sau khi cách mạng

vơ sản thành cơng. Thiết lập hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đồng thời cũng
là bắt đầu xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, đó cũng là q trình
5


đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện đã có chính quyền, đã
thiết lập được chun chính vơ sản và từng bước vào thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Do đó, hệ thống chính trị và nền dân chủ có mối quan hệ chặt chẽ
khăng khít với nhau trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mác đã chỉ rõ:
hậu quả tất yếu của nền dân chủ ở tất cả các nước văn minh là quyền thống trị về
chính trị của giai cấp vơ sản, quyền thống trị của giai cấp vô sản là tiền đề đầu
tiên của tất cả mọi biện pháp cộng sản chủ nghĩa. Có nghĩa là chun chính vơ
sản, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ
đều là những tiền đề, phương thức để giai cấp công nhân và nhân dân lao động
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Kế thừa tư tưởng của Mác, Lênin cho rằng: “đương nhiên chế độ dân chủ
cũng là một hình thức nhà nước và sẽ phải mất đi khi nhà nước tiêu vong, nhưng
điều đó chỉ xảy ra khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và được củng cố, quá
độ lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn”. Nghĩa là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là
một hình thái nhà nước, trong nhà nước đó nhân dân là tính thứ nhất, nhà nước
là tính thứ hai - chịu sự quy định của nhân dân; nhân dân là chủ, nhà nước là
công cụ để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình đối với nhà
nước và xã hội. Những hình thái đó càng được mở rộng và phát triển bao nhiêu
thì càng dẫn đền tiêu vong sớm bấy nhiêu. Dưới chủ nghĩa cộng sản, hệ thống và
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ khơng cịn cơ sở tồn tại, dân chủ sẽ trở nên
hoàn bị và triệt để hoàn toàn.
Xét về mặt cấu chúc, hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
có mối quan hệ càng gắn bó, khăng khít, cái này nằm trong cái kia, cái kia bao
hàm cái này không tách rời nhau, là một chỉnh thể thống nhất. Nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là toàn bộ thể chế, thiết chế, cơ chế chính trị của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện và bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ của

nhân dân trong đời sống và quan hệ xã hội, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân. Trong cấu chúc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì hệ thống chính trị là
một bộ phận cơ bản, trọng yếu với tính cách là thiết chế, cơ chế chính trị của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, đổi mới và hồn thiện hệ thống chính trị là nội
dung quan trọng trong q trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
6


nghĩa. Bởi vì, theo Lênin: Chế độ dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, bản
chất của nền dân chủ được quy định bởi bản chất của giai cấp thống trị. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ “gấp triệu lần” dân chủ tư sản, nhưng
khơng phải là cái gì trừu tượng, mà chính là quyền lực thực tế của nhân dân lao
động đối với xã hội và bản thân. Do vậy, nền dân chủ ấy phải có một thiết chế,
cơ chế đảm bảo cho nền dân chủ hội chủ nghĩa được thực hiện. Thiết chế ấy
chính là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế: Đảng cộng
sản lãnh đạo - Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân lao động làm chủ.
Đây là thiết chế, cơ chế bảo đảm chắc chắn nhất cho nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa thể hiện đúng bản chất và được hiện thực hóa trên thực tế.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có vai trị quyết định với việc thực
hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trị đó được quy định một cách
khách quan từ bản chất của nó. Đồng thời hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là
công cụ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với xã hội. Hệ thống
chính trị là thiết chế, cơ chế của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, chức năng cơ
bản của nó là xây dựng và từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bởi vì, trước hết hệ thống chính trị được thiết lập và khơng ngừngđược củng cố,
hoàn thiện là điều kiện cơ bản nhất bảo đảm cho công cuộc xây dựng xã hội
mới, xã hội xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi, là cơ sở cho nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa tồn tại và phát triển. Mặt khác, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa còn
là khâu then chốt, yếu tố cơ bản nhất để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, nó tạo ra một bộ máy hoạt động theo cơ chế bảo đảm đầy đủ

quyền làm chủ của nhân dân. Hơn nữa, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là
một bộ phận đặc biệt có vai trị chi phối các bộ phân khác trong kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa. Nó vừa phản ánh cơ sở kinh tế, vừa chịu quy định của các
quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời nó vừa tác động trực tiếp và tích cực
đến cơ sở kinh tế - cái nền tảng bảo đảm nền dân chủ xã hội chhủ nghĩa ra đời,
tồn tại và phát triển. Chính vì lẽ đó, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có vai
trị định hướng sự phát triển của dân chủ. Chế độ dân chủ phát triển theo hướng
mở rộng dân chủ cho quảng đại quần chúng nhân dân, hay bó hẹp cho thiểu số

7


bóc lột; chun chính với kẻ thù hay chun chính với nhân dân lao động là do
bản chất hệ thống chính trị quyết định.
2. Sự vận dụng quan điểm Mác-Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa
của Đảng ta trong tiến trình đổi mới
Ở nước ta, vấn đề dân chủ ln gắn liền với vấn đề dân tộc, chỉ có giải
phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột mới mở đường cho dân chủ phát triển,
dân chủ trở thành mục đích trực tiếp trong cơng cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành và phát triển là kết
quả tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, của cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là vấn đề có tính quy luật trong q trình hình thành,
xây dựng và hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nếu khơng có cách mạng
xã hội chủ nghĩa thành cơng thiết lập nên chun chính vơ sản thì khơng thể có
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn tại và phát triển như hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Cách mạng táng Tám
năm 1945 thành công, thiết lập nền dân chủ mới - Nhà nước dân chủ nhân dân;
phát huy vai trị của nó trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Do vậy, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

ở nước ta là q trình lâu dài nhằm từng bước hồn thiện các thiết chế, cơ chế
dân chủ, hệ thống pháp luật, thực hiện các nội dung, hình thức dân chủ trong đời
sống xã hội; nâng cao trình độ văn hóa dân chủ cho nhân dân; hạn chế loại trừ
những ảnh hưởng của dân chủ tư sản, tàn dư của tâm lý, thói quen của nền sản
xuất nhỏ… tồn bộ q trình đó tất yếu phải do hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa tổ chức xây dựng.
Một là, giữ vững nguyên tắc đổi mới chính trị kết hợp với bảo đảm q
trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng đất nước trong
suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Đảng ta xác định: “ kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”3. Theo nguyên tắc đổi
3 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71.

8


mới nhưng không đổi mầu, đổi mới phải đi đến mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Theo đó, “mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống
chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy dủ quyền
làm chủ của nhân dân”4. Để đạt được mục tiêu đó trong q trình đổi mới hệ
thống chính trị phải qn triệt và bảo đảm các nguyên tắc chủ yếu sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, tổ chức cán bộ và các mối quan hệ giữa các tổ chức chính
trị hợp pháp và đang có vai trị đối với việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị là khơng thay đổi mục tiêu, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là con đường
duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam đồng thời đó cũng là mục tiêu xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ có chủ nghĩa xã hội, quyền lực xã hội của
nhân dân mới được thực hiện trên thực tế, chỉ dưới chủ nghĩa xã hội nhân dân lao

động mới được làm chủ mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, nguyên tắc này vừa đảm
bảo cho xây dựng hệ thống chính trị giữ được bản chất xã hội chủ nghĩa vừa đảm
bảo cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên thực tế.
Nguyên tắc thứ hai: Đổi mới hệ thống chính trị phải bảo đảm cho chức
năng, nhiệm vụ của nó được thực hiện một cách triệt để và ngày càng tốt hơn
nhằm làm cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ngày càng được mở rộng. Vì hai mặt dân chủ và chuyên chính ln gắn kết với
nhau trong bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ phải đi đơi
với chun chính, dân chủ với đại đa số nhân dân lao động và chuyên chính với
bọn phản động. Có như vậy, hệ thống chính trị mới phát huy được đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ và dân chủ mới được phát huy.
Nguyên tắc thứ ba: Đổi mới hệ thống chính trị phải giữ vững bản chất
nhất nguyên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc bảo đảm
tốt nhất cho sự ổn định đời sống chính trị - xã hội, tạo tiền đề cho xã hội phát
triển; xã hội có phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa thì dân chủ xã hội chủ nghĩa mới được giữ vững và từng bước hồn thiện.
Bởi vì, chỉ có dưới sự lãnh đạo độc tơn của đảng cộng sản, hệ thống chính trị ở
4 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71.

9


nước ta mới vững mạnh về chính trị, mới giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của nhà nước. Đồng thời quyền làm chủ của nhân dân chỉ được thực hiện và
phát huy cao độ, có hiệu quả tích cực khi có định hướng chính trị đúng đắn; mới
khắc phục được những nhận thức và hành vi sai trái về dân chủ như: dân chủ tư
sản, dân chủ cực đoan vơ chính phủ, coi thường kỷ cương phép nước hoặc thờ ơ
với chính trị… trong xã hội.
Hai là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị gắn
liền với quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới kinh tế, trong những năm
qua, việc đổi mới hệ thống chính trị đã đạt được những thành tựu quan trọng, tác
động trực triếp đến việc phát huy dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu thực hiện thắn lợi mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện và phát huy dân chủ sẽ nêu cao được tính chủ
động, sáng tạo, nhiệt tình cách mạng của quần chúng nhân dân, tập trung được
quyền lực, ý trí, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Do vậy,
phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
nói chung và từng thành tố trong đó nói riêng, nhằm “bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân”5. Nhưng để phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết
quả tốt thì trong quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù
hợp với tình hình chính trị - xã hội và từng bước phát triển của đất nước.
Sự phát triển của dân chủ bao giờ cũng chịu sự chi phối của phương thức
sản xuất, chế độ xã hội, trạng thái kinh tế - xã hội, văn hóa, dân trí… trong đó
bản chất chính trị của giai cấp cầm quyền quyết định. Cho nên, trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển trước hết
phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn phát triển phong phú về quy mô, tốc độ, chiều sâu sau 30 năm
công cuộc đổi mới địi hỏi Đảng ta phải khơng ngừng xây dựng, chỉnh đốn nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm nhiệm vụ. Có thể nói sự
thành công hay không của công cuộc đổi mới phát huy, mở rộng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay tùy thuộc một phần cơ bản quan trọng vào việc
5 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.238.

10


đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo là
cách thức, biện pháp, bước đi để thực hiện nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, là nhân
tố quan trọng đảm bảo cho đường lối đi vào cuộc sống thông qua phong trào

hành động cách mạng của đông đảo nhân dân lao động, dưới ngọn cờ của Đảng.
Dân chủ bao giờ cũng gắn với chế độ nhà nước, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
cũng là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cho nên,
muốn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hồn thiện thì tất yếu phải đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của nhà nước. Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục
đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do
Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý hinh tế, quản lý xã hội; giải
quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, với nhân dân,với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành
của Nhà nước théo pháp luât”6. Thực chất việc đổi mới kiện toàn tổ chức và hoạt
động của nhà nước ta hiện nay là quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một trong những quan điểm cơ bản của
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là
quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trên việc thực
hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, biểu hiện trực tiếp
của đổi mới cơ chế bảo đảm và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới hệ thống chính trị
khơng chỉ dừng lại ở đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của từng thành
tố mà còn đòi hỏi phải đổi mới trong việc giải quyết mối quan hệ qua lại giữa
các thành tố đó. Thực chất là đổi mới hồn thiện cơ chế hoạt đơng của hệ thống
chính trị, nhưng cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa hoạt động thống nhất theo cơ chế: Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý;
Nhân dân lao động làm chủ. Do đó, đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống
chính trị là biểu hiện trực tiếp của đổi mới cơ chế bảo đảm cho dân chủ xã hội
chủ nghĩa ngày càng được phát huy hoàn thiện và mở rộng.
6 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.246.

11



Trên cơ sở cơ chế vận hành chung đó, trong q trình đổi mới hệ thống
chính trị cần làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận hoạt động trong cơ
chế đó chống chồng chéo, lấn sân, làm thay hoặc bỏ trống làm cho hệ thống
chính trị cũng như nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoạt động nhịp nhàng
ăn khớp, hệ thống trong sạch vững mạnh, dân chủ ngày càng dược xây dựng
hoàn thiện và mở rộng. Trong đó, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo Nhà nước quản lý là cơ bản nhất. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính
trị, nhưng là bộ phận lãnh đạo quy định bản chất của hệ thống chính trị và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng không bao biện, làm thay chức năng của nhà
nước. Nhà nước là bộ phận thực hiện cụ thể hóa đừng lối của Đảng, nhưng
khơng lấn sân lãnh đạo của Đảng. Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân là mối quan hệ giữa lãnh đạo và phục tùng sự lãnh
đạo, trên cơ sở đường lối chủ trương của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội
thực hiện chức năng tổ chức, tập hợp lực lượng thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng. Thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa mở rộng và phát huy dân
chủ với lãnh đạo tập trung dân chủ có lãnh đạo, định hướng, có cơ chế đảm bảo
cho dân chủ được thực hiện trên thực tế.
Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân là mối quan hệ quản lý và chịu sự quản lý. Nhà nước quản lý các tổ
chức chính trị xã hội bằng hệ thống hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh trên cơ sở
đường lối chính sách của Đảng. Các tổ chức chính trị xã hội hoạt động theo sự
quản lý của nhà nước, theo hiến pháp, pháp luật, thực hiện chức năng là công cụ
trực tiếp đảm bảo quyền dân chủ đại diện cho nhân dân; nhằm phát huy quyền
làm chủ của các thành viên trong từng tổ chức tham gia hoạt đọng xã hội vì mục
tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước. Thực chất đây là giải quyết mối
quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, kỷ luật, dân chủ được đảm bảo bằng hệ
thống pháp lý, dân chủ trong pháp luật. Hệ thống pháp luật là cơ sở bảo đảm cho
dân chủ được hiện thực hóa trong đời sống xã hội.

Mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị với nhân dân phải
được giải quyết hài hòa bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Đảng Nhà nước,
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đều là những thiết chế cùng với cơ
12


chế để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy, đó là mối quan hệ giữa
nhân dân - người chủ với các thiết chế, công cụ bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân. Cho nên, Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần
chúng phải thực sự được dân yêu, dân tin và nhân dân làm nền tảng của các thiết
chế ấy. Theo đó, đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị thực chất là
tăng cường cho cơ chế bảo đảm cho dân chủ ngày càng được mở rộng, hoàn
thiện và phát huy.
Việc xây dựng, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có vai trị rất
quan trọng để thực hiện dân chủ trên thực tế được nhiều hơn và góp phần xây
dựng lịng tin giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày một tăng
cường và hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh thực hiện tốt chức
năng nhiệm vụ hơn.
3. Định hướng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã
khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ...”. Trong đó có hai điểm mới quan trọng được bổ sung và phát triển so với
Nghị quyết Đại hội X của Đảng: Một là, đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm từ
công bằng, văn minh. Điều đó cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí của dân chủ
và thực hành dân chủ trong q trình phát triển xã hội. Để có xã hội dân giàu,
nước mạnh, trước hết phải bảo đảm trong xã hội có nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và phải thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách thực chất, vì đó là

điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công bằng, văn minh.
Hai là, khẳng định đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân làm chủ, thể hiện rõ bản chất của
chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong văn kiện Đại hội XII, sự nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện ở chỗ, Đảng ta bổ sung

13


thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của Đảng.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là động lực của sự phát triển đất nước, là
nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân
dân đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ và thực sự
phát huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh to lớn cho sự phát triển đất
nước. Mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển được Đảng ta
nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; còn trong Báo cáo
đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020,
quan điểm phát triển được Đảng ta nhấn mạnh với yêu cầu cao hơn: “Phát huy
mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và thực thi pháp luật,
cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm quyền con người, quyền
công dân”7.
Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm về
dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà điều quan trọng hơn là tiếp tục thực hành, phát
huy dân chủ, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến hành
động. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội thực sự dân chủ, Đại hội XII xác
định rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất

cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc
sống của nhân dân”. Phương thức, cơ chế thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là
nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, mà trọng
tâm là “thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”, như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra. Dưới nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể của quyền lực, là người thực hiện quyền
lực; đa số nhân dân lao động có quyền và được bảo đảm các điều kiện cần thiết
để tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
7 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 270.

14


Trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải bảo đảm
cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc tổ chức, lập ra bộ máy nhà nước, vào
việc quản lý các công việc của Nhà nước, quyết định các công việc trọng đại của
đất nước; đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức
và cá nhân khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý một số công
việc của Nhà nước. Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn nhấn mạnh mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, trong đó, trước hết là Nhà nước
bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe
ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước có cơ
chế và các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vơ trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân;
đồng thời, “Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử
lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự,

an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của
nhân dân”.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng đã khẳng
định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân
dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh
luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp
luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân” 8. Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là nền dân chủ rộng rãi,
mang tính tồn diện, được thực hiện thơng qua hệ thống chính trị xã hội chủ
8 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 168, 169.

15


nghĩa, trước hết là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không
ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân
dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm phục vụ cho lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động và bảo đảm quyền làm chủ của họ cả về mặt
pháp lý cũng như trên thực tế. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là phương hướng,
cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
vì Nhà nước đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong những năm tới, Đại hội
XII của Đảng xác định:
Thứ nhất, thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân

chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi cơng dân
trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, khơng
phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa vị xã hội... Đây là hình
thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực nhà nước, khả năng tham gia một cách tích cực và chủ động vào các
hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Theo quy định của Hiến pháp hiện hành, hình thức dân chủ trực tiếp được thực
hiện bằng các phương thức: chế độ bầu, bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu hội
đồng nhân dân; chế độ gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri của đại biểu Quốc hội, đại biểu
hội đồng nhân dân; quyền công dân tham gia thảo luận các vấn đề chung, quan
trọng của đất nước và của địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ
thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đại diện cho nhân dân. Dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu
cơ với nhau. Đại hội XII của Đảng khẳng định: Phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải luôn đặt trong mối liên hệ và gắn liền với thực hiện quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013;
gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội.

16


Thứ hai, thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra. Muốn để “dân biết”, điều cốt yếu đầu tiên là phải cung
cấp thông tin cho nhân dân; việc cung cấp thông tin phải chân thực, kịp thời và
cơng khai. Có cơng khai thì mới có dân chủ, vì cơng khai là một trong những
điều kiện tiên quyết để thực hành dân chủ. Bản chất của Nhà nước ta là nhà
nước dân chủ, nên cơng khai là một địi hỏi tất yếu, khách quan, là một biểu hiện
quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
“Dân bàn” là xu hướng tất yếu sau khi nhân dân đã được cung cấp thông

tin đầy đủ, công khai. Với tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan nhà nước và
chính quyền các cấp phải biết lắng nghe các ý kiến của quần chúng nhân dân,
nắm bắt dư luận xã hội trong nhân dân một cách nghiêm túc, phân tích nội dung
các ý kiến của nhân dân một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời tâm
trạng, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Muốn thực hiện tốt
phương châm “dân bàn”, phải tạo các điều kiện thuận lợi (phương tiện, diễn đàn,
cơ chế) để nhân dân có thể nói lên suy nghĩ thật của mình, được bày tỏ quan
điểm, chính kiến về những vấn đề mà mình đang quan tâm, vì lợi ích hợp pháp,
chính đáng của họ và vì sự phát triển chung của mỗi địa phương, của đất nước.
Chính quyền các cấp khơng được phép thờ ơ trước những sáng kiến của quần
chúng nhân dân để tránh tình trạng sáng kiến của người dân trong chế độ dân
chủ trở thành đặc quyền của một thiểu số người với mục tiêu vụ lợi.
“Dân làm” cần được hiểu chủ yếu theo nghĩa “Dân làm” là hiện thân của
sự chuyển hóa từ “tư tưởng đã thơng suốt” thành những hành động, việc làm cụ
thể của nhân dân. Từ chỗ được cung cấp thông tin một cách công khai, trung
thực, kịp thời, thông qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng nói chung,
người dân sẽ tự giác tn thủ, thực hành các quyền dân chủ theo quy định của
pháp luật.
Bên cạnh đó, Nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và của
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước được trao những quyền hạn nhất định để
quản lý, điều hành một số công việc của Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế “dân
kiểm tra” đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục xây dựng và thực thi các cơ chế, chính
17


sách phù hợp để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với các mặt
hoạt động của chính quyền cấp xã ở tất cả các địa phương, của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã;
chất vấn những cán bộ, cơng chức có thẩm quyền về những vấn đề người dân

quan tâm và quyền nghe trả lời những chất vấn đó, đặc biệt là những vấn đề về
đất đai, xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị, nông thôn, nước sạch và vệ sinh
môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng,...
Thứ ba, để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát
huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội.
Đảng ta là đảng cầm quyền và sự cầm quyền đó ln được đặt trong mối liên hệ
mật thiết với nhân dân; vậy nên, thực hành, phát huy dân chủ trong Đảng phải
luôn đi trước, tạo khuôn mẫu, mực thước cho nhân dân noi theo. Trong giai đoạn
hiện nay, việc phát huy dân chủ trong Đảng để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã
hội lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì cịn có một bộ phận cán bộ,
đảng viên tuy có nhận thức đúng, đầy đủ về thực hành, phát huy dân chủ nhưng
chỉ là trên lý thuyết, còn trên thực tế, nhận thức đó chưa biến thành hành động
thực tế, nói khơng đi đơi với làm.
Cần tiếp tục thực hiện tốt các quy định trong sinh hoạt đảng, như sinh
hoạt hai chiều, lấy phiếu tín nhiệm, điều tra, thăm dị dư luận xã hội trong nhân
dân - đó chính là những yếu tố cần thiết phục vụ cho công tác xây dựng Đảng
hiện nay. Dựa vào dân, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân cũng là nền tảng
giúp Đảng tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức ngày càng trong sạch, vững mạnh. Khi dân chủ trong Đảng thực sự được
phát huy thì đó cũng là nền tảng để “Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân”, như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra.
Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đi liền với việc đề
cao trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội, không
được tách rời, đối lập giữa thực hành dân chủ và kỷ cương, pháp luật. Nhân dân
không nên tụ tập đông người, khiếu kiện vượt cấp, gây mất an ninh, trật tự và
chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét,
18



giải quyết theo quy định của pháp luật. Nếu cá nhân nào có hành vi vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh, trật tự, an
tồn xã hội thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 331 Bộ luật
Hình sự năm 2015: “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với
tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ
hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh
chính trị, trật tự, an tồn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và
quyền làm chủ của nhân dân”9. Điều đó khẳng định bản chất dân chủ thực sự của
Nhà nước ta.

9 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 170.

19


KẾT LUẬN
Đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị, đi đơi với mở rộng và từng bước
hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách
quan. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị, những biểu hiện thực chất của vấn đề
đó sẽ cung cấp những cơ sở khoa học để chúng ta tìm ra cách thức, biện pháp tác
động để nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành tố trong hệ thống chính trị
cũng như phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các thành tố
trong q trình vận hành hệ thống chính trị nhằm bảo đảm quyền lực thực tế
thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
thơng qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đơi với mở rộng và từng bước

hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là trách nhiệm của
mọi cấp, mọi ngành, của cả hệ thống chính trị, trong đó chủ thể cơ bản và trực
tiếp là Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức
chính trị xã hội. Qn đội có vị trí, vai trị quan trọng trong đổi mới và kiện tồn
hệ thống chính trị, mở rộng và từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Để phát huy vai trị của mình qn đội cần phải thường xuyên
chăm lo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong quân đội vững mạnh. Hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội phù hợp với yêu cầu của tình hình
mới nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với quân đội, phát huy hiệu lực chỉ huy, quản lý của người chỉ huy, vai trò của
các tổ chức quần chúng, tăng cường đoàn kết, giữ nghiêm kỷ luật.Ban hành và
thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở, bảo đảm các quyền dân
chủ về chính trị, kinh tế, quân sự của cán bộ, chiến sĩ, các quyền lợi, nghĩa vụ
của quân nhân, khắc phục những biểu hiện quân phiệt, gia trưởng, chun
quyền, độc đốn, vơ tổ chức, vơ kỷ luật, đấu tranh với mọi hiện tượng tham
nhũng, lãng phí, xâm phạm đến lợi ích của đơn vị và quân nhân. Nâng cao chất
lượng công tác dân vận đông thời chủ động, tích cực tham gia xây dựng hệ
thống chính trị, tăng cường quan hệ phối hợp, kết hợp với hệ thống chính trị ở
địa phương và cơ sở.
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác - ĂngGhen: Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1995.
2. V.I.Lênin: Toàn tập, Tập 33, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Hà Nội
1976.
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Tập 27, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Hà Nội
4.
5.

6.
7.

1980.
Hồ Chí Minh tồn tập: Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.
Hồ Chí Minh tồn tập: Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.
Hồ Chí Minh tồn tập: Tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản chính trị quốc

gia, Hà Nội 1996.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện NQTW3, KhóaVIII, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội 1997.
9. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
10.Đảng CSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2011.
11.Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN. 2011.
12.Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN. 2016.

21



×