Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Dia danh hoc va viec nghien cuu dia danh cac tinhTrung Trung Bo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.16 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Địa danh học và việc nghiên cứu địa danh các tỉnh Trung


Trung Bộ



HOÀNG TẤT THẮNG
1. Khái quát về địa danh học.


1.1. Địa danh là tên gọi của địa hình thiên nhiên, các cơng trình xây dựng, các đơn vị
hành chính, các vùng lãnh thổ nào đó. Do đó, địa danh là đối tượng quan tâm của nhiều
lĩnh vực khoa học như lịch sử, địa lý, dân tộc học, văn hóa học, ngơn ngữ học…


Song, địa danh, xét về bản chất cấu tạo, là một đơn vị từ ngữ, có chức năng định danh sự
vật, do đó, địa danh là một bộ phận của từ vựng và vì vậy, trước hết, là đối tượng nghiên
cứu của ngôn ngữ học. Nếu xem xét địa danh trong mối quan hệ với các bộ môn của ngôn
ngữ học, ta thấy, địa danh không chỉ là đối tượng của từ vựng học mà còn là tài liệu
nghiên cứu của ngữ âm học. Bởi vì địa danh được cấu tạo bởi những đơn vị ngữ âm, chịu
sự tác động của các quy luật ngữ âm. Nhiều địa danh tiếng Việt ngày nay là kết quả của
quá trình biến đổi cách phát âm các địa danh trước đây như: xóm Chỉ (trước đây là xóm
Trĩ), Bà Môn (trước đây là Bàu Môn) ở thành phố. Hồ Chí Minh; Nam Ơ (trước đây là
Năm Ổ) ở Đà Nẵng… Địa danh còn là tài liệu nghiên cứu của ngữ pháp học, vì địa danh
là những danh từ, danh ngữ tuân theo những phương thức cấu tạo từ, ngữ của tiếng
Việt… Chẳng hạn, những địa danh được cấu tạo theo các mơ hình (động từ + tính từ: cầu
Đúc Nho, danh từ + số từ: khu Ngã Bảy, Ngã Sáu, danh từ + tính từ: cầu Mũi Lớn, rạch
Cầu Đen, danh từ + danh ngữ: cầu Giồng Ông Tố, rạch Tắt Mương Lớn, danh ngữ + tính
từ: khu Cây Da Cịm, rạch Cầu Chông Nhỏ…)


Địa danh cũng là đối tượng nghiên cứu của phương ngữ học. Bởi vì nó là sản phẩm do
người bản địa tạo ra, gắn chặt với lời ăn tiếng nói của từng vùng, từng địa phương. Trong
các địa danh tiếng Việt, ta có thể gặp các từ địa phương như: Cù Lao Chuông, hồ Ba
Kiểng, động Sai, sông Chắt Chắt (ở Quảng Trị), rõng Nước Ngọt, ngoẹo Giằng Xay,
Bùng binh Trường Tiền (ở Huế), đồng Cây Hợp, rậy Ông Cáp, rào Ba Đa, bàu Chẹp, rú
Cấm, đồng Troọt, đồng Trữa (ở Đồng Hới)…



Đặc biệt, địa danh còn là tư liệu đáng quan tâm của ngơn ngữ học lịch sử. Bởi vì một địa
danh ra đời trong một thời điểm lịch sử nhất định. Địa danh đã trở thành “ vật hóa thạch”,
một “ đài kỷ niệm” và là “ tấm bia” bằng ngôn ngữ học độc đáo về thời đại mà nó ra đời.
Chẳng hạn, tên gọi “ Chợ Lớn” ra đời vào đầu thế kỷ 19 gắn liền với sự phát triển về
thương mại của một khu phố thị sầm uất nhất vùng Nam Bộ lúc bấy giờ, tên gọi “ Lũy
Thầy” ở Đồng Hới (Quảng Bình) ra đời trong thời điểm lịch sử diễn ra cuộc chiến tranh
Trịnh- Nguyễn, “ huynh đệ tương tàn” thế kỷ 17, 18 và gắn liền với tên tuổi của vị quan
của Chúa Nguyễn là Đào Duy Từ, người đã thiết kế nên thành lũy này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

suối rạch…), sơn danh học (chuyên nghiên cứu các tên đồi, núi, đèo, dốc…), phương
danh học (chuyên nghiên cứu các tên làng, vùng, xóm, bản…) phố danh học (chuyên
nghiên cứu các tên đường, phố, quảng trường…)


Với đối tượng và nội dung nghiên cứu như trên, rõ ràng, địa danh học là một lĩnh vực
nghiên cứu khá phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu địa danh cần phải xác định điểm xuất
phát một cách nhất quán và những tri thức cần thiết của các lĩnh vực nghiên cứu khác
phục vụ cho việc nghiên cứu địa danh.


2. Sơ lược tình hình nghiên cứu địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ:


2.1. Nếu kể cả những cơng trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa
danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương
Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của xứ Thuận Quảng, từ Quảng
Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài
liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đơ đốc xứ Thuận Hóa cuối
thế kỷ 18.


Ngồi ra, các cơng trình về địa lý, lịch sử như “ Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử
quán triều Nguyễn, “ Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngơ Sỹ Liên… cũng rải rác có đề cập


đến các địa danh ở Trung Trung Bộ.


Đầu thế kỷ 20, đặc biệt từ sau 1945 đến nay, đã có nhiều cơng trình, bài báo liên quan
đến các địa danh Trung Trung Bộ. Các cơng trình “ Quảng Nam, địa lý, nhân vật, lịch sử”
của Lâm Quang Thự, “ Quảng Nam, đất nước và nhân vật”, “ Biến đổi địa danh ở vùng
Quảng Nam- Đà Nẵng” của Võ Hồng… có đề cập đến các địa danh ở Quảng Nam- Đà
Nẳng. Các bài báo “ Tìm hiểu về tên đất thành phố Huế” của Thanh Tâm, “ Việc đặt tên
đường ở Huế” của Trương Thị Cúc và Nguyễn Xuân Hoa, “ Địa danh thành phố Huế”
của Trần Thanh Tâm… đã đề cập đến các địa danh ở Thừa Thiên- Huế. Các cơng trình “
Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Trị”, “ Địa chí Quảng Trị”, “
Ngày xn đi tìm gốc tích những ngơi làng” của Anh Thi… đã đề cập đến các địa danh ở
Quảng Trị. Các cơng trình, bài báo “ Đồng Hới những sự kiện lịch sử” của Nguyễn Tú, “
Non nước Quảng Bình”, “ Tản mạn qua thị xã Đồng Hới” của Lại Văn Ly và Phan Xuân
Thiết… đã đề cập đến một số địa danh ở Quảng Bình.


Đặc biệt, các chuyên khảo “ Đất nước Việt Nam qua các đời” của Đào Duy Anh, “ Đi
thăm đất nước” của Hoàng Đạo Thúy, “ Đất nước ta”… cũng đã rải rác có đề cập đến
một số địa danh thuộc các tỉnh Trung Trung bộ. Gần đây nhất, công trình “ Sổ tay địa
danh du lịch các tỉnh Trung bộ” do tập thể các tác giả ở Huế biên soạn để giới thiệu trên
70 địa danh từ Quảng Bình đến Quảng .


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Hướng thứ nhất: Thiên về lịch sử, trình bày lịch sử hình thành, biến đổi của một vùng
đất (địa danh hành chính chẳng hạn), những biến cố lịch sử diễn ra tại một vùng đất.
- Hướng thứ hai: thiên về giá trị lịch sử, văn hóa, du lịch, chỉ chọn lựa, giới thiệu một sự
kiện lịch sử điển hình, một nét địa hình đặc trưng, hoặc một chi tiết có giá trị văn hóa của
địa danh.


Hướng thứ nhất ta thường thấy trong khi trình bày các địa danh hành chính. Hướng thứ
hai ta thường gặp đối với các loại địa danh chỉ địa hình thiên nhiên hoặc địa danh chỉ
cơng trình xây dựng.



Rõ ràng việc giới thiệu địa danh trong các tài liệu từ trước đến nay chưa xuất phát từ mục
đích địa danh học. Các địa danh được nêu ra chỉ là phương tiện cho việc nghiên cứu địa
lý, lịch sử, văn hóa của một vùng đất.


Với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học, địa danh học phải nghiên cứu
địa danh theo quan điểm của ngôn ngữ học, nghĩa là phải nghiên cứu cả đặc điểm cấu tạo
của địa danh, các phương thức đặt địa danh lẫn ý nghĩa, nguồn gốc của địa danh. Có
nghiên cứu một cách toàn diện như thế, địa danh học mới thực sự là một lĩnh vực nghiên
cứu đầy hấp dẫn, thú vị, đem lại nhiều lợi ích thiết thực đối với nhiều ngành khoa học
khác


2.3. Để việc nghiên cứu địa danh đạt kết quả chính xác, tránh được những nhầm lẫn, chủ
quan, khi nghiên cứu nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh, cần quan tâm đến các điều kiện
sau:


a) Các biến cố lịch sử- nhất là các biến cố quan trọng- đã để lại dấu ấn khá rõ trong địa
danh. Chẳng hạn, sau 1975, ở các thành phố, thị xã thuộc các tỉnh phía Nam, nhiều tên
đường phố, tên các địa danh hành chính được thay đổi, như tên đường 30-4, đường Giải
phóng, đường Lê Duẩn… Do vậy người nghiên cứu địa danh phải am hiểu lịch sử của địa
bàn nghiên cứu. Popov đã lưu ý các nhà nghiên cứu địa danh rằng bất cứ sự giải thích
theo định kiến nào, khơng căn cứ vào các sự kiện thường rơi vào sai lầm.


b) Nhà nghiên cứu Murzaev đã nói rằng trong những điều kiện như nhau hoặc gần giống
nhau về địa hình, thường lặp lại những địa danh như nhau, kiểu như Xóm Đá, Cầu Dài,
Cồn Mồ… ta thường thấy ở nhiều vùng đất khác nhau. Do đó khi nghiên cứu địa danh
cũng cần phải nắm vững địa bàn nơi mình nghiên cứu để có thể giải thích tại sao ở chỗ
này có nhiều địa danh mang các từ chỉ địa hình này, chỗ kia có nhiều địa danh mang các
từ chỉ địa hình kia. Chẳng hạn, ở Đồng Hới thường có các địa danh: đồng Bàu Ốc, đồng
Bàu Đĩa, đồng Bàu Đưng, đồng Bàu Nậy, đồng Bàu Rèng… Ở Đông Hà ta cũng gặp các


địa danh: đồng Bàu Son, đồng Bàu họ Lê, đồng Bàu Kẻng… và các địa danh xóm Bàu
Đưng, xóm Bàu Bưng, xóm Bàu Đơi…


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nậy… Địa danh ở Đồng Hà có các yếu tố địa phương như: léc, lộng, rớ, truông, sại, rạc,
trẹc…


d) Để nghiên cứu, giải thích ý nghĩa của địa danh, cũng khơng nên chỉ căn cứ vào hình
thức ngữ âm và chính tả hiện hành mà cần phải cố gắng để tìm hiểu các hình thức cổ của
địa danh. Bởi vì, địa danh cũng là một từ ngữ như các từ ngữ khác cũng chịu sự tác động
của các quy luật ngữ âm. Do đó một số địa danh ra đời từ xa xưa, đã biến đổi qua nhiều
hình thức ngữ âm khác nhau.


Chẳng hạn, địa danh “ Đồng Hới” được giải thích bắt nguồn từ cách phát âm cổ là “
Động Hải” hoặc “ Đồng Hời”, địa danh “ Đà Nẵng” bắt nguồn từ “ YaNan”, địa danh “
Lăng Cô” bắt nguồn từ “ Lăn Co” hoặc “ An Cư”…


Tóm lại, việc nghiên cứu, giải thích nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh cần phải được
khảo sát một cách toàn diện và thận trọng. Đây là công việc tuy hấp dẫn, thú vị nhưng vô
cùng phức tạp, vì địa danh học tuy là một bộ phận của ngôn ngữ học nhưng lại gắn chặt
với những tri thức về lịch sử và văn hóa học, vì địa danh là “ tấm bia” bằng ngơn ngữ độc
đáo về thời đại mà nó chào đời.


H.T.T
(03-99)


——————


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH


1. Đào Duy Anh – “ Đất nước Việt qua các đời” Nxb.KHXH Hà Nội.1964.



2. Lê Trung Hoa – “ Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh” Nxb. KHXH Hà Nội. 1991.
3. Thái Nhân Hòa – “ Quảng Đà Nẵng, xưa và nay” Nxb Đà Nẵng 1996.


4. Nhiều tác giả “ Sổ tay địa danh du lịch các tỉnh Trung Trung bộ” Nxb Giáo dục 1997.
5. Thanh Tâm – “ Tìm hiểu địa danh thành phố Huế”. Sông Hương, 6-1996.


6. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (dịch và biên soạn) – “ Tên làng xã Việt đầu thế kỷ
XIX” Nxb KHXH, Hà Nội 1981.


</div>

<!--links-->
Các liên kết giữa trường đại học và viện nghiên cứu với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
  • 51
  • 411
  • 2
  • ×