Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Bài giảng Sản xuất giống và nuôi cá biển - CĐ Thủy Sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.52 KB, 81 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỦY SẢN
-----o0o-----

BÀI GIẢNG
Môn học: Sản xuất giống và nuôi cá biển
Ngành:

Ni trồng thủy sản

Trình độ: Cao đẳng

Năm 2016
1


BÀI MỞ ĐẦU
I. Tình hình ni cá biển trên thế giới và tại Việt Nam
1. Tình hình ni cá biển trên thế giới
Cá biển là loại thực phẩm có giá trị được thị trường ưa chuộng. Một số loài cá biển có
hàm lượng acid béo cao, đặc biệt là hàm hàm lượng DHA và EPA rất cần thiết cho con
người.
Trong vài thập kỷ gần đây, nuôi biển trên thế giới đã có những bước phát tiến nhảy vọt.
Một số quốc gia có nền cơng ngiệp khai thác cá hiện đại đã chuyển sang nuôi biển và
đa thu được nhiều thành tựu quan trọng như Nauy, Nhật Bản... Việc chuyển hướng từ
khai thác sang nuôi trồng đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong việc
chur động tạo ra nguồn thực phẩm cung cấp cho xã hội, cải thiện cuộc sống của con
người, giảm dần sự lệ thuộc vào tự nhiên.
Sự phát triển về nuoi trồng hải sản ngày nay của Nauy là kết quả tất yếu của một quá
trình phát triển. Từ những năm 60 trở về trước, Nauy chỉ có một số trang trại ni ca
nước ngọt. Ni biển chỉ mới được bắt đầu từ những năm cuối của thập kỷ 60.


Tại Châu á, Nhật Bản là quốc gia có lịch sử phất triển ni biển khoảng trên 200 năm
được bắt đầu bằng việc lưa giữ một số lồi cá như cá trích, cá trổng trong lồng tre, lồng
gỗ đơn giản. Đến nay, công nghệ nuôi biển của Nhật Bản đã đạt đến trình độ tiên tiến
với nhiều kiểu lồng có kích cỡ khác nhau làm từ những loại vật liệu mới như sợi tổng
hợp hoặc thép phủ nilon chống rỉ. Các công nghệ khác như công nghệ thức ăn, công
nghệ sản xuất giống cũng được chú trọng phát triển và thu được nhiều thành tựu.
Tại Nhật Bản, chỉ tính riêng sản lượng cá Cam ni đã tăng từ 2.579 tấn trong năm
1961 nên 30.774 tấn năm 1968. Năm 1997, Nhật Bản có 1.724 trang trại ni cá Cam
với 15.898 lồng đạt sản lượng 138.000 tấn (Takashma & Arimoto, 2000).
Bảng: Sản lượng cá cam nuôi tại Nhật Bản (Furukawa, 1970)
Năm
1961
1962
1963
1964
1965
1966
1967
1968

Tấn
2,579
4,758
5,083
9,493
18,083
19,629
26,712
30,774


Một số quốc gia khác tại Châu á như Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines
cũng có những phát triển mạnh trong nuôi trồng hải sản với sản lượng cá nuôi liên tục
2


tăng trong những năm gần đây. Những nước này có thị trường tiêu thụ hải sản lớn và
thường phải nhập khẩu thêm từ các nước khác cho nhu cầu tiêu dùng.
Bảng: Sản lượng cá biển của một số nước trên thế giới
SL cá biển
Năm
Nguồn
(tấn)
Nauy
550.000
1998
(Hjelt, 2000)
Nhật Bản
250.000
1997
(Takashma & Arimoto, 2000).
úc
186.000
1998
O,Sullivan & Roberts, 1999
Hàn Quốc
40.000
1999
Kim,2000
Philippine
1000

10.000
1999
Marte et al, 2000
Malaysia
58.500
5.621
1997
Shariff & Gopinath, 2000
Việt Nam
18.000
540
1998
Tuan et al, 2000
24.000
2.626
2002
Luu, 2002
Ni trồng hải sản cịn là phương án hữu hiệu đảm bảo cân bằng sinh thái góp phần bảo
vệ môi trường nếu như được tổ chức và kiểm sốt trong phạm vi ni bền vững. Khi
nhu cầu tiêu dùng về các loại hải sản được đáp ứng, áp lực khai thác từ tự nhiên sẽ
giảm đặc biệt là những đối tượng hải sản quý hiếm. Đây sẽ là điều kiện để bảo tồn
nguồn lợi và sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Tuy nhiên, việc phát triển nuôi trồng hải
sản tuỳ tiện, thiếu sự quản lý và tổ chức một cách khoa học có thể dẫn đến những tác
động xấu tới môi trường sinh thái và nguồn lợi. Vấn đề ô nhiễm, môi trường những tác
động nguồn gen và đa dạng sinh học...có thể sẽ trở thành những hiểm hoạ nếu như con
người không nhận thức được và xem xét một cách nghiêm túc.
2. Tình hình ni cá biển tại Việt Nam
Nghề nuôi cá lồng biển ở Việt Nam có từ khá lâu nhưng khơng phát triển bởi thị
trường và con giống không chủ động. Từ 1990 đến nay nghề ni cá lồng biển có xu
thế tăng nhanh, dọc biên giới từ Móng Cái đến Hà Tiên vùng biển nào cũng có cơ sở

thu gom và ni giữ cá biển. Khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh là nơi có số lượng bè cá
nhiều nhất, dịch vụ thu gom mua bán của các tư thương ở đây cũng rất phát triển. Tính
đến giữa năm 1995 số lượng bè cá ở khu vực này lên tới vài chục chiếc với tổng số
khoảng 300  400 ô lồng. Khu vực biển miền Trung, từ Đà Nẵng đến Bình Thuận có
khoảng 200 lồng và khu vực Đơng Tây Nam Bộ có trên 100 ô lồng. Số liệu thống kê số
lồng bè và sản lượng nuôi cá lồng biển ở Việt Nam năm 1995 là.
Quốc gia

Số lồng

Khu vực
Quảng Ninh
Vịnh Hạ Long

Số lượng lồng
( cái )
125
80
3

Sản lượng
( tấn )
40


Vân Đồn
Các nơi khác
Hải Phòng
Cát Bà
Đồ Sơn

Thừa Thiên - Huế
Đà Nẵng
Sơn Trà
Các nơi khác
Nha Trang
Bình Thuận - Kiên Giang
Tổng số:

15
30
130
120
10
120
130
80
50
60
70
636 lồng

30

5
8

25
15
123 tấn


II. Tiềm năng và triển vọng nghề nuôi cá lồng biển ở Việt Nam
1. Tiềm năng vùng nuôi
Theo đánh giá của FAO nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam còn non trẻ so với
các nước trong khu vực Đơng Nam á. Tuy nhiên, chúng ta có đầy đủ tiềm năng để phát
triển nghề này. Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3.600 km, dọc ven biển có nhiều
eo, vịnh kín gió, có trên 4.000 hịn đảo lớn nhỏ với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
nuôi trồng, đặc biệt là khu vực Vịnh Hạ Long vùng biển từ Nha Trang đến Phan Thiết
và vùng biển phía Tây Nam Bộ là những vùng biển có tiềm năng rất lớn cho việc ni
cá lồng biển. Vì vậy nếu được đầu tư đúng mức, ngư dân và các cơ sở sản xuất tiếp
nhận được kỹ thuật nuôi tiên tiến và khi đã chủ động sản xuất nhân tạo giống cá biển
thì nghề ni cá lồng biển của Việt Nam sẽ có những bước nhảy vọt, tạo việc làm và
tăng thu nhập cho đông đảo ngư dân vùng ven biển, đem lại nguồn hàng xuất khẩu lớn
cho đất nước.
2. Tiềm năng về đối tượng ni
Biển Việt Nam có rất nhiều lồi cá có giá trị kinh tế để phát triển nghề nuôi cá
lồng trên biển.
- Cá song (Grouper) : Trong 7 lồi cá song có mặt ở nước ta là Song mỡ (Epinephelus
tauvina), song dẹt (E. bleekeri), song chấm đỏ (E. akaara), mú hoa nâu (E.
fuscoguttatus), mú vạch (E. brunneus), mú chấm tổ ong (E. merra), song cáo (E.
megachir) nhưng chỉ có 3 lồi có giá trị kinh tế cao được nuôi rộng rãi là cá song mỡ,
cá song dẹt, cá song chấm đỏ.
- Cá hồng (Snapper) : Có 4 lồi có giá trị kinh tế là: Lutjanus erythropterus; L.
argentimaculatus; L. malabaricus; L. johnii.
- Cá tráp (Seabream) có 3 lồi có giá trị cao là: Cá tráp đỏ (Pagrus major), cá tráp vàng
(Sparus latus), cá tráp (Tains tumifrons).
- Cá vược (Seabass) có hai lồi là cá vược (Lates calcarife) và cá vược mõm nhọn
(Psammoperca waigiensis).
- Cá cam (Yellowtail) Serida dumerili.
- Cá măng (Milkfish) Chanos chanos.
4



- Cá giị (Black kingfish) Rachycentron canadum.
và nhiều lồi cá kinh tế khác chưa được khai thác để sử dụng vào ni lồng trên biển.
Việc chọn đối tượng ni có ý nghĩa rất quan trọng trong nghề nuôi cá lồng trên
biển. Đối tượng ni phải có giá trị kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị
trường trong và ngoài nước, đặc biệt là phải chủ động nguồn giống : Cả về số lượng,
chất lượng và tính mùa vụ. Bởi vì nều cùng đầu tư nguồn vốn đầu vào như nhau về cơ
sở vật chất : Lồng bè, nhân lực, thời gian, thức ăn .... Đối tượng nào càng có giá trị kinh
tế, tốc độ sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ rộng rãi thì việc hạch toán đầu ra thu
được lợi nhuận càng cao.
Đối với miền Bắc nước ta, ở khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng và một số khu vực
ven biển trong vùng Vịnh Bắc Bộ, ngư dân và một số cơ sở sản xuất chủ yếu ni các
đối tượng : Cá song, cá giị, cá hồng, cá tráp vây vàng. Đây là bốn đối tượng có giá trị
kinh tế cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ rộng rãi, dễ nuôi hợp với qui
mơ hộ gia đình cũng như ni cơng nghiệp. Trong đó cá song và cá giị được xem như
là đối tượng nuôi rộng rãi hơn, cả về số lượng và phân bố vùng ni bởi vì những đối
tượng này có giá trị kinh tế cao, tiềm năng về thị trường rộng rãi, đặc biệt hai loài cá
này gần đây ở nước ta đã bước đầu xuất được con giống nhân tạo đáp ứng được mong
đợi của sản xuất. Tuỳ theo lồi và kích cỡ, giá cá song thương phẩm đối với thị trường
trong nước (chủ yếu là các khách sạn nhà hàng, thành phố, thị trấn ... ) dao động từ
100.000  200.000 đồng/kg, còn thị trường xuất khẩu như Hồng Kông, Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản, Singapore giá cá song dao động trong khoảng từ 800  1.000 đ
Đài Loan/1kg (lồi E lanceolatus), 100 đơ la HơngKơng/1kg ( cá mú hoa nâu E.
fuscoguttatus ) và 410 đô la HồngKông/1kg ( cá song dẹt C. altivelis với cỡ khoảng
600g), cá song chủ yếu được sử dụng dưới dạng tươi sống, số ít được sử dụng dưới
dạng cá ướp đá.
3. Khả năng sản xuất giống
Đối với những loài cá nước ngọt, khả năng sản xuất giống trong những năm gần
đây để cung cấp cho ngư dân và các cơ sở nuôi trồng thuỷ sản được coi như tương đối

thành công và đã đáp ứng được nhu cầu về con giống cho nuôi trồng thuỷ sản nước
ngọt của nước ta (cả nước có 400 trại sản xuất cá giống). Mặt khác, đối với những lồi
cá nước mặn thì việc tìm hiểu đặc điểm sinh học ( sinh sản, tập tính sống, phân bố, nhất
là các điều kiện sinh sản ... ) của đối tượng để đưa vào sản xuất là vô cùng khó khăn và
phức tạp, có khi phải mất nhiều năm liền, tốn kém về nhân lực và tiền của. Môi trường
biển lại rất phức tạp và khác nhau đối với từng vùng, từng đối tượng nghiên cứu, do
vậy đối với một số lồi cá biển có đặc tính sinh học sinh sản tự nhiên mà trong điều
kiện nhân tạo hiện nay chúng ta chưa thể tạo ra được.
Trước đây hầu hết nguồn cá giống cung cấp cho nghề nuôi lồng trên biển, chủ
yếu là dựa vào khai thác ngoài tự nhiên bằng cách câu, bẫy hoặc dùng lưới; vì vậy
nguồn cung cấp giống chưa được chủ động, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên và khả
năng đánh bắt của các ngư dân, chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chất lượng và
tính thời gian của con giống cho nghề nuôi cá lồng trên biển cả ở qui mơ gia đình và
qui mơ cơng nghiệp.
5


Đối với khu vực miền Bắc (Quảng Ninh - Hà Tĩnh) mùa khai thác giống từ tháng
3 đến tháng 7, rộ nhất là tháng 4 và tháng 5. Trước đây nguồn lợi cá giống ở khu vực
Hải Phòng - Quảng Ninh rất phong phú, sản lượng cá giống hàng năm có thể khai thác :
300.000 cá song, 10.000 cá hồng - cá tráp và 200.000 cá vược giống. Trong những
năm gần đây nguồn lợi giống của một số đối tượng cá kinh tế đang bị giảm sút nghiêm
trọng, đặc biệt là khu vực xung quanh đảo Cát Bà. Nguyên nhân là do việc khai thác
quá mức, thiếu qui hoạch, môi trường biển ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng, môi
trường sinh thái ven bờ bị phá vỡ, các rạn san hô và rừng ngập mặn bị tàn phá nặng nề,
việc khai thác thiếu ý thức như đã sử dụng các loại phương tiện mang tính huỷ diệt là
chất nổ, điện, hoá chất cùng với việc khai thác ngay trên các bãi đẻ vào mùa sinh sản...
làm cho nguồn lợi thuỷ sản nói chung và nguồn lợi giống cá biển kinh tế ngày càng bị
giảm sút nghiêm trọng, có khả năng dẫn đến cạn kiệt. Vì vậy để bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thuỷ sản nói chung và nguồn lợi một số lồi cá biển có giá trị kinh tế cao,

Nhà nước cần sớm có những chính sách, qui hoạch tổng thể và qui hoạch cụ thể phù
hợp cho từng vùng, từng loại nghề, từng thời điểm khai thác. Cần sớm có những biện
pháp bảo tồn và tái tạo rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn và các bãi đẻ, mùa
sinh sản của các đối tượng kinh tế nhằm tạo ra sự bền vững của các sinh vật vùng biển
nước ta, đồng thời với việc tập trung nghiên cứu sinh học, sản xuất giống các lồi có
giá trị kinh tế và các lồi có nguy cơ tuyệt chủng để đáp ứng nhu cầu về con giống cho
nghề nuôi lồng trên biển đang ngày càng phát triển như hiện nay.
Từ năm 1993 Viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng đã tiến hành nghiên cứu sinh
sản một số lồi cá biển có giá trị kinh tế : Cá song, cá giò, cá hồng và cá tráp. Năm
1994 - 1995 bước đầu đã cho sinh sản được cá song, cá giò, cá hồng và tráp, nhưng tỷ
lệ sống của cá bột đến cá giống còn rất thấp dưới 1%. Năm 1999 Viện Nghiên cứu Hải
sản thành công trong sinh sản nhân tạo cá giò, đã cung cấp trên 10.000 cá giống cỡ 10
 15cm cho ngư dân và một số cơ sở sản xuất nuôi lồng trên biển của Quảng Ninh, Hải
Phịng. Kết quả ni đạt rất tốt cá sinh trưởng nhanh đạt 300 - 400gam/3 tháng nuôi, tỷ
lệ sống cao, ít bệnh tật. Năm 2002 Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thuỷ sản I đã nhập
công nghệ và sản xuất thành công giống cá song tại Cát Bà ( Hải Phòng ). Đây là kết
quả bước đầu rất đáng được trân trọng, bởi nó đã hé mở một khả năng tạo hàng loạt con
cá song giống bằng con đường sinh sản nhân tạo, góp phần thúc đẩy nghề ni biển
phát triển một cách ổn định.
4. Mục tiêu và sự quan tâm của Nhà nước đến hướng phát triển của Ngành
Mục tiêu của Ngành : Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm đảm bảo an ninh thực
phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010, tổng
sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2.000.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt
trên 2.500.000.000 USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2.000.000 người; góp
phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển.
Nguyên tắc chỉ đạo:
- Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững, gắn với bảo vệ môi
trường sinh thái, đảm bảo sản xuất và ổn định đời sống nhân dân.
6



- Nuôi trồng thuỷ sản phải từng bước được hiện đại hố, phát triển theo hướng ni
cơng nghiệp là chính, kết hợp các phương pháp nuôi khác phù hợp với điều kiện của
từng vùng.
- Phát triển nuôi trồng mặn lợ và nuôi biển, đồng thời phát triển nuôi nước ngọt.
- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu, đồng thời chú trọng nuôi trồng
thuỷ sản khác phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Mục tiêu cụ thể cho ni cá biển đến năm 2010 là: Diện tích nuôi biển đạt
40.000 ha và 40.000 lồng bè, sản lượng đạt 200.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là
cá song, cá hồng, cá cam, cá vược và cá măng...

Bài 1: Kỹ thuật nuôi cá song

Mặc dù biển Việt nam có nhiều lồi cá song phân bố nhưng chỉ có 1 số lồi được ni
phổ biến:
Cá song mỡ cịn gọi là cá song gầu (Epinephelus tauvina)
Cá song chấm đen đầu còn gọi là cá song dẹt (Epinephelus bleekeri)
Cá song chấm nâu (Epinephelus coioides)
Cá song chấm đen (Epinephelus malabaricus)
7


Cá song vân mây (Epinephelus moara)
Tiếng anh: Grouper
Tiếng Việt : Cá song, cá song mú
1.1. Đặc điểm sinh học của cá song
1.1.1. Phân bố
Cá song phân bố ở vùng biển nhiệt đới, á nhiệt đới. Cá sống tầng đáy nơi có các rạn san
hơ.
ở Việt Nam có khoảng 30 lồi phân bố, riêng vùng biển xa bờ nước ta theo điều tra của

ơng Đầo Mạnh Sơn 2000 cố 16 lồi trong họ cá song phân bố, chúng phân bố dọc theo
bờ biển từ Bắc vào Nam, chúng sống ở các vùng nước ven bờ, cửa sông, quanh các
đảo, các rạn đá san hô cho tới vùng biển sâu 70  80 m. Cá song đánh bắt được chủ yếu
bằng nghề câu tay, câu vàng, lồng bẫy và lưới giã.
1.1.2. Hình thái cấu tạo
Thân hình thn dài, mình hơi dẹt. Mệng rộng, răng nhọn sắc và chắc. Lược mang sắc,
dạ dày lớn, ruột ngắn. Trên cơ thể có nhiều chấm sắc tố, màu sắc thay đổi theo mơi
trường sống.

Hình 1: Cá Song mỡ (Epinephelus tauvina. Forsskal, 1775)
1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá song thuộc loại động vật ăn thịt, trong giai đoạn ấu trùng chủ yếu ăn động vật phù
du cỡ nhỏ nhơ ấu trùng hà, ấu trùng cầu gai, luân trùng, copepoda. khi lớn chúng ăn
động vật giáp xác, cá, nhuyễn thể bơi lội. Trong tự nhiên cá thường sống ẩn nấp ở
những rạn đá, hang hốc nằm chờ con mồi tới gần rồi đớp gọn. Mồi của chúng thường là
những động vật sống đáy như tôm, cua, cá, mực. Chúng bắt mồi suốt ngày, mạnh nhất
vào lúc chạng vạng tối và rạng đông.
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Trong số cá song có giá trị kinh tế có 3 lồi có tốc độ lớn nhanh là cá mú điểm gai, cỡ
thân dài 2 m; cá song hoa nâu cỡ đánh bắt 13- 22 kg, lớn nhất dài 120 cm; cá song sọc
ngang (E. fasciatus) nặng 2 kg. Đáng chú ý là loài Promicrops lanceolatus Block, 1970
8


(cá song vàng) ở vùng biển Nam Định, Ninh Bình, khơi vịnh Bắc Bộ có chiều dài 22
cm, cịn ở Australia cá này có chiều dài 360 cm nặng 350 kg.
Cá song là lồi có tốc độ sinh trưởng nhanh, có kích thước lớn. Đánh bắt ngồi tự nhiên
cá 2 tuổi đạt 2- 3 kg/con.
Trong điều kiện nuôi sau một năm cá đạt được 700- 1000 g/con. Đặc biệt khi cá lớn
hơn 1500 g/con cá lớn nhanh hơn giai đoạn còn nhỏ.

1.1.5. Đặc điểm sinh sản
Cá song thuộc loại sinh sản biến tính, khi nhỏ chúng là cá thể cái, lớn lên một số
chuyển giới tính thành cá đực. Cá song mỡ chín muồi sinh dục ở năm thứ 4  5,
thường đẻ từ tháng 3 đến tháng 8, rộ vào tháng 5 đến tháng 6. Đại bộ phận cá đẻ trứng
ở vùng nước sâu, thời gian ấp nở 27 giờ trong điều kiện nhiệt độ 260C, độ mặn 29 
320/00 và 17  18 giờ ở nhiệt độ 29  320C. Điều kiện tối ưu cho ấu trùng phát triển là
26  290C và độ mặn từ 28  300/00, trứng và cá bột trơi theo dịng nước và thủy triều
vào vùng nước nông ven bờ. Cá càng lớn càng có xu thế di chuyển ra sống ở vùng nước
ngoài xa bờ.
1.2. Kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo
1.2.1. Ni vỗ cá bố mẹ
Có thể ni vỗ cá song trong lồng hoặc trong ao nước mặn đều được. Đối với cá song
chuột (Cromileptes altivelis) do kích thước nhỏ nên có thể ni vỗ ngay trong bể cỡ
100  150m5 cá vẫn thành thục.
Chọn cá bố mẹ phải khoẻ mạnh, không bị bệnh, không bị xây sát, bơi lội linh hoạt đạt
yêu cầu vể trọng lượng :
Cá song gầu; cá song chấm đen : Cá đực > 5kg/con ; cá cái : 3,5  6kg/con.
Cá song chuột : Cá đực > 2kg/con ; cá cái > 1kg/con
Cá song chấm nâu: nặng từ 8- 18 kg/ con.
Cá trên 3 tuổi mới chọn để nuôi vỗ thành thục. Sự phân biệt đực cái ở cá song chỉ có
thể tiến hành trong mùa sinh sản lúc cá đang thành thục. Chọn những cá thể to làm cá
đực trong q trình ni vỗ phải cho ăn hoặc tiêm hoormone giới tính đực 17-MT và
chọn những cá thể nhỏ hơn làm cá cái không cho ăn hoặc tiêm 17-MT.
Cá bố mẹ lựa chọn trước khi nuôi vỗ hoặc cho đẻ phải tiến hành tắm xử lý để phòng
các bệnh như: Bệnh nhiễm Cryptocaryon, bệnh ký sinh trùng, bệnh copepod ký sinh ...
Bệnh nhiễm Cryptocaryon : Cơ thể cá có nhiều đốm viêm t
ấy, cá nằm yên dưới đáy mắt mờ đục. Chuyển cá đến bể khác sạch đã được vô trùng,
làm 2 lần liên tiếp trong 3 ngày.
Bệnh ký sinh trùng : Bệnh do Benedenia hoặc Neobenedenia sp gây ra làm một số cá bị
chết (khi bị ký sinh vào mắt). Tắm nước oxy già (H2O2) nồng độ 150ppm trong 30phút

hoặc tắm nước ngọt 5  10 phút 2 lần trong 7 ngày.
9


Bệnh copepod ký sinh : Bệnh do Caligus sp hoặc lepeophtheirus sp gây ra, cá yếu bơi
lờ đờ. Tắm cá bằng H2O2 nồng độ 150ppm trong 30 phút.
Một số phương pháp ni chuyển giới tính và ni vỗ cá bố mẹ thành thục như sau:
 Phương pháp nuôi riêng đực cái.
Nuôi vỗ cá đực: Sau khi chọn cá to làm cá đực đưa vào nuôi riêng ở 1lồng hoặc 1
ao với mật độ 1  2 con/m3.
Trong q trình ni vỗ, hàng ngày trộn thêm 1  3 mg 17-MT vào thức ăn để cho cá
ăn, lượng thức ăn 3  5% trọng lượng thân, thời gian cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7  8
giờ sáng và 4  5 giờ chiều.
Thay nước 3  5 ngày thay 1/3  1/2 lượng nước (nuôi trong ao) và ở bể 200  300%
nước hàng ngày.
Duy trì mơi trường : Độ muối: 30  320/00, pH: 7,5  8,5, T0C: > 240C.
Thời gian nuôi: 3  4 tháng trước mùa cá đẻ.
Nuôi vỗ cá cái: Trộn Progesteron hoặc vitamin E với lượng 450mg/kg thức ăn,
ngày cho ăn 3  5% trọng lượng thân vào lúc 7  8 giờ sáng và 4  5 giờ chiều. Duy trì
điều kiện mơi trường như môi trường nuôi vỗ cá đực.
Nuôi hợp đàn : Trước mùa cá đẻ 10  15 ngày tiến hành ni hợp đàn 2 đàn cá
trên để kích thích chúng hưng phấn chóng thành thục.
Tỷ lệ ghép đực/cái là 1/1, mật độ 1  2 con/m3.
Thời gian này cho cá ăn thức ăn là tôm, cá tươi không bổ sung hoormone.
Điều kiện môi trường : Độ muối: 30  320/00, pH: 7,5  8,5, T0C: 28  300C.
Kích thích nước liên tục, hàng ngày thay 50  80% nước mới. Đối với cá song chuột
yêu cầu độ muối cao hơn (34  250/00) trong suốt thời kỳ nuôi vỗ cá bố mẹ.
 Phương pháp nuôi chung đực cái.
Tại Viện Nghiên cứu Goldol Indinexia nuôi vỗ cá song chuột bố mẹ theo hình
thức ni lẫn đực cái. Cá đực được bắn số dánh dấu nuôi lẫn với cá cái. Chế độ bổ sung

vitamin, axit béo không no vào con mồi ở cá đực và cá cái như nhau, riêng hoormone
17-MT chỉ bổ sung vào cá đực bằng cách tiêm với lượng 75mg/kg cá đực 1 tháng 1lần,
trước mùa thành thục 3  4 tháng.
1.2.2. Kỹ thuật cho đẻ
1.2.2.1. Chuẩn bị bể đẻ
Bể cho cá đẻ tốt nhất là hình trịn, thể tích từ 50  150 m3, chiều cao 2,5m. Bể có 1 ống
cấp nước vào nằm trên rìa đáy bể để khi cấp nước sẽ chảy thành dịng xốy. Đáy bể dốc
về tâm, chính giữa tâm là ống thốt nước, trước khi cho cá đẻ phải cấp đầy nước vào bể
đẻ, lắp mỗi bể từ 6  10 vòi sục khí mạnh.
1.2.2.2. Chọn cá cho đẻ
Cá đực : Vuốt thấy sẹ đặc, màu trắng sữa chảy ra, dễ bị tan trong nước biển.
10


Cá cái : Dùng ống thăm trứng để hút trứng kiểm tra nếu thấy đường kính trứng đạt 0,55
 0,7mm, trứng tròn đều, màng trứng rõ ràng, nhân hơi lệch về phía cực động vật thì có
thể chọn cho cá đẻ.
1.2.2.3. Tiêm kích dục tố
Cá sau khi đạt cá tiêu chuẩn lựa chọn thì tiến hành thả vào bể đẻ, có thể tiêm hoặc
khơng tiêm cá vẫn đẻ.
Trường hợp khơng tiêm nên cho cá đẻ vào tuần trăng như quy luật tự nhiên của chúng.
ở Cát Bà hoặc Indonexia nhìn chung khơng tiêm kích thích nhưng nhiều trại sản xuất cá
song giống ở Đài Loan có tiêm 1 trong 2 loại thuốc sau: LHRH-a với lượng 20mg/kg
đối với cá cái và 10 mg/kg cá đực hoặc HCG với lượng 500  1.000IU/kg cá cái,
200IU/kg cá đực. Cả 2 loại đều chia làm 2 lần tiêm cách nhau 24 giờ.
Cá song thường đẻ vào ban đêm lúc 20  24 giờ.
1.2.2.4. Thu trứng, tách trứng và ấp trứng
Cá đẻ xong tiến hành vớt trứng. Trứng cá khi trương nước có đường kính 0,8 
0,9mm vì vậy giai và vợt vớt trứng có cỡ mắt 0,4  0,5mm là thích hợp. Trứng vớt ra
đưa vào bể tách trứng. Đối với các loài cá cho đẻ ở độ muối 30  320/00 cần phải tăng

độ muối trong bể tách trứng lên 35  360/00 những trứng tốt nổi lên sát mặt nước để việc
tách trứng dễ dàng hơn. Trường hợp nước trong bể đẻ đã đạt 350/00 (như cho đẻ cá song
chuột) chúng ta không cần nâng độ muối trong bể tách trứng.
Sau khi tách trứng lần cuối tiến hành tắm trứng bằng dung dịch Iodine nồng độ
20ppm trong thời gian 15 phút để phòng trừ vi sinh gây bệnh nhiễm từ vỏ trứng sang ấu
trùng cá trước khi đưa trứng vào bể ấp. Trong quá trình tắm trứng những trứng yếu
cũng sẽ chết và lắng xuống đáy bể , chúng ta cần loại bỏ trước khi chúng bị phân huỷ.
Mật độ ấp: 10 trứng/ml. Cá song vừa mới nở rất khó thu gom và vận chuyển, vì
vậy người ta thường chuyển trứng sắp nở vào bể ương. Những trứng này cũng thường
nổi hoặc lơ lửng, những trứng chìm, màu trắng đục là trứng chết cần loại bỏ trước khi
đưa vào bể ương.
1.2.3. Ương nuôi ấu trùng
1.2.3.1. Những điều cần chú ý trong ương cá song
ấu trùng cá song có sự biến thái rất nhiều từ khi mới nở đến khi vượt qua hậu biến thái
(Metamorphosis) để trở thành Juvenile. Chúng rất nhạy cảm với điều kiện môi trường
thay đổi và dễ bị chết do stress. Do vậy việc quản lý bể ương phải hết sức cẩn thận. ở
nhiệt độ nước 28- 300C thời gian cá song phát triển từ mới nở đến Juvanile hết khoảng
45 ngày. Việc ương cá song thành công hay thất bại trước hết phụ thuộc vào sự tránh
được hay không bệnh virut VNN (Viral Nervous Necrosis). Một khi VNN phát triển, tỷ
lệ chết cao của ấu trùng cá song là không tránh khỏi, hầu hết ấu trùng chết trong vịng
1- 2 ngày. Vì vậy để giảm thiểu tối đa sự nhiễmVNN vào trong bể ương, hạn chế gây
stress tới ấu trùng, duy trì chất lượng nước tốt.
Mật độ ương không quá dày.
11


ấu trùng chết nổi: ấu trùng từ 0- 5 ngày tuổi dễ bị mắc khô trên mặt nước rồi bị Stress
tiết nhiều chất nhầy khơng thể chìm được và sẽ bị chết. Để hạnh chế vấn đề này cần
phải:
Đặt vị trí và cường độ sục khí ổn định một chỗ.

Duy trì tảo trong nước bể ương ở mật độ thích hợp.
Hiện tượng gai chúng đâm vào nhau: ấu trùng sau 10 ngày tuổi xuất hiện 1 gai lưng và
2 gai chậu rất dài sắc và nhọn, khi tập trung thành đám đông chúng thường bị đâm bởi
những chiếc gai này. Để hạn chế hiện tượng này cần phải:
Tăng cường sục khí mạnh. Đặt một số đá sục khí sát thành bể nơi ấu trùng hay
tập trung vào.
Điều chỉnh ánh sáng đều và cường độ hợp lý.
Duy trì mật độ tảo tạo màu sắc bể ương 1 cách hợp lý.
Hiện tượng suy dinh dưỡng:
Cường hoá luân trùng và artemia.
Cho cá ăn thức ăn hỗn hợp càng sớm càng tốt ở mức có thể thay thể dần
Artemia. Những Artemia để lâu trong bể ương cần loại bỏ để thay bằng Artemia mới
nở vừa được cường hoá.
1.2.3.2. Kỹ thuật ương
a. Chuẩn bị bể ương
Bể ương cỡ thích hợp 3  10m3 có hệ thống cấp thốt nước, hệ thống khí, hệ
thống tuần hồn và hệ thống chiếu sáng. Bể tốt nhất là hình trụ trịn đáy dốc về tâm,
nếu bể hình chữ nhật phải lượn trịn các góc bể. Độ sâu bể 1,2m là thích hợp.
Màu sắc thành bể tốt nhất là màu tối, phải có mái che để tránh ánh sáng mặt trời
chiếu trực tiếp vào bể.
Bể trước khi sử dụng phải cọ rửa sạch sẽ, khử trùng bằng clorin, thuốc tím rồi
rửa lại bằng nước ngọt, sau đó phơi khơ trước khi cho nước biển lọc vào bể ương.
Khi đã chuẩn bị xong bể có thể san trứng từ bể ấp sang bể ương.
b. Thả trứng sắp nở vào bể ương
Mật độ thả: 4.000  5.000 trứng/m3, mật độ cao thường gây hiện tượng cá tập
trung thành đám rồi chết, mặc khác còn dễ mắc bệnh virut VNN (Viral Nervous
Necrosis)ở giai đoạn sau.
c. ánh sáng trong bể ương
- 2 ngày đầu : Cường độ ánh sáng 1.000 lux, mỗi ngày chiếu sáng khoảng 10 
12 giờ (từ 8  20 giờ). Sử dụng 4 đèn neon 40w đặt cách mặt nước 50cm.

- Ngày thứ 3  6 : Chiếu sáng từ 6 giờ đến 22 giờ.
- Ngày thứ 7  10 : Chiếu sáng từ 6 giờ đến 20 giờ.
- Ngày thứ 11 trở đi : Chiếu sáng từ 6 giờ đến 19 giờ (Sau khi mặt trời lặn 30
phút).
12


d. Điều chỉnh sục khí bể ương
Dùng nhiều đá khí để ở cường độ nhẹ sẽ tốt hơn ít đá khí ở cường độ sục khí
mạnh. 1 bể 10m3 trong 10 ngày đầu đặt 9 đá khí là vừa đủ. Từ ngày thứ 10  25 tăng
13- 14 cục, những đá khí đặt thêm đều để sát thành bể. Từ ngày 25 trở đi cho đến khi
xuất, tăng cường thêm đá khí có thể lên đến 20- 25 cục. Về cường độ sục khí từ ngày
đầu đến ngày thứ 2 sục khí mạnh hơn để tách ấu trùng lắng hoặc tập trung từng đám;
Từ ngày thứ 3  10 : Giảm cường độ sục khí để cá bắt luân trùng tốt hơn; Từ ngày 11 
25 sục khí mạnh để hạn chế ấu trùng tập trung thành đám trên bề mặt; Sau ngày thứ 25
cá bắt đầu bơi thành đàn vòng quanh bể cần sục mạnh hơn để cung cấp đủ ơxy cho
nưóc ưong.
e. Cho ăn
Ln trùng sử dụng 2 dòng : Luân trùng siêu nhỏ SS Rotife cỡ 120  140mm.
Luân trùng dòng nhỏ S Rotife cỡ 180  200mm.
Luân trùng được đưa vào bể ương từ ngày thứ 3 khi ấu trùng mở miệng đến ngày thứ
30. Lúc đầu cho luân trùng siêu nhỏ sau đó cho luân trùng nhỏ, mỗi ngày 2 lần định
lượng, luôn giữ mật độ luân trùng ở mức trên dưới 5 con/ml. Những luân trùng ở lâu
trong bể không cho cá ăn phải loại bỏ hoàn toàn bằng thay nước tuần hoàn.
Luân trùng trước khi đưa vào phải được cường hoá bằng tảo Nanochloropsis rất giầu
EPA (Eicosapentaenoic acid) nhưng nghèo DHA (Docasohexenoic acid) vì vậy khi
cường hố ln trùng ngồi tảo cần phải có dầu cường hố. Các dầu này có thể là Selco
sản xuất tại Bỉ, Packboot sản xuất tại Đài Loan hoặc Aquran sản xuất tại Nhật Bản.
Thức ăn nhân tạo : Để giảm tỷ lệ chết trong quá trình ương cá song cần cho cá ăn thêm
thức ăn nhân tạo càng sớm càng tốt. Cho ăn từ ngày thứ 17 trở đi khi ấu trùng đủ khoẻ,

loại thức ăn thích hợp để ương cá song là Love larva sản xuất tại Nhật Bản.
Artemia : Cho ăn từ ngày thứ 20  30, cho ăn 1 lần/ngày vào buổi chiều muộn. Trước
khi cho ăn Artemia phải được cường hoá để tăng hàm lượng dinh dưỡng.
g. Quản lý bể ương
Thay nước: Khi mới đưa ấu trùng vào bể ương mức nước trong bể chỉ lấy
3
7/10m , lượng nước này hàng ngày không thay mà chỉ thêm vào ngày thứ 7, thứ 8
lượng nước lên tới 9m3. Từ ngày thứ 9  13 mỗi ngày thay 20% nước mới. Khi thay
nước phải nhẹ nhàng, từ từ không làm xao động đến bể dễ gây Stress cho cá. Sau ngày
thứ 13 tỷ lệ nước thay tăng dần lên, tuỳ thuộc vào chất lượng nước và tình trạng sức
khoẻ, độ nhạy cảm của cá.
Duy trì nhiệt độ nước trong bể nằm trong khoảng 26  300C, dao động nhiệt độ
ngày đêm không quá 10C. Độ muối ổn định ở 34  350/00 đối với cá song chuột, 31 
320/00 đối với các loài cá song khác.
Cung cấp nước tảo Nanochloropsis mật độ 10  15 Triệu tb/ml bổ sung vào
trong bể ở mức 0,2  0,5m3/10m3 bể ương hàng ngày. Tảo vừa có tác dụng làm thức ăn
13


cho luân trùng, giữ chất lượng luân trùng không bị giảm ngồi ra cịn hấp thụ các chất
bẩn và tạo màu sắc nước bể ương phù hợp với cá.
Siphon vệ sinh đáy bể tiến hành từ ngày thứ 9  11 trở đi, nhằm hạn chế VNN
phát triển.
Từ ngày thứ 1  5 hàng ngày cho 1 ít dầu mực với lượng 0,1ml/1m3 mặt nước bể
ương vào các thời điểm 8 giờ, 15 giờ 30' và 22 giờ để hạn chế cá chết nổi trên mặt
nước.
Khi thấy nhiều chất bẩn hoặc xác cá chết nổi trên bề mặt nước, phải cho thu váng
để làm sạch nước, hạn chế ô nhiễm nước và hạn chế VNN phát triển.
h. Thu hoạch Juvenile
Đến ngày thứ 40 ấu trùng đã trải qua hậu biến thái để thành cá con (Juvenile) và

bơi dọc theo tường bể, tiến hành thu hoạch chuyển sang bể Nursery. Bằng cách dùng
ống nhựa có đường kính 40cm, dài 15cm bịt kín 1 đầu đặt cạnh tường để hứng cá tự
động bơi vào rồi nhấc lên để chuyển vào bể Nursery. Với phương pháp này có thể thu
được 90% số cá trong bể, số còn lại tiến hành rút nước bể để thu tiếp.
i. Ương cá song từ Juvenile lên cỡ giống
Juvenile 40 ngày tuổi có chiều dài khoảng 2,5cm, ni thêm khoảng 1 tháng nữa
đạt cỡ 4  5 cm hoặc lớn hơn.
* Bể ương: hình trịn hoặc hình chữ nhật, có kích thước 5  10m3. Bể có hệ thống cấp
nước và cấp khí, có mái che để tránh ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp xuống bể và
ngăn ngừa tảo phát triển. Mật độ ương : 500  600 juvenile/m3 bể là thích hợp. Cho ăn
thức ăn tổng hợp ( thức ăn sản xuất tại Đài Loan, Nhật Bản hoặc thức tự chế biến )
theo công thức sau:
Bảng 1: Thành phần và tỷ lệ phối trộn thức ăn tự chế biến
Tên nguyên liệu

Tỷ lệ ( % )

Thịt cá xay
Thịt tơm xay
Mực xay
Bột gạo
Casein
Premix khống
Premix vitamin
Dầu mực
Chất kết dính
Hương vị hấp dãn cá

30,0
20,0

10,0
13,4
13,0
2,5
2,0
6,0
3,0
0,1

Tổng số :

100,0
14


* Quản lý khác
Thay nước hàng ngày ở mứ 400- 500% đẻ giữ chất lượng nước trong sạch.
Nhiệt độ ổn định trong khoảng 27- 280C, độ mặn 30- 320/00 , riêng cá song chuột
34- 350/00 .
Siphon đáy bể thường xuyên vào buổi chiều muộn. Khi Juvenile chìm xuống đáy và ở
đó qua đêm để ngủ.
Khống chế VNN trong bể Nursery
Mật độ ni thích hợp
Cho ăn thức ăn chất lượng cao
Duy trì chất lượng nước tốt
Các cá chết và cá yếu phải được phát hiện sớm và đưa ra khỏi bể .
* Thu hoạch và vận chuyển cá giống cỡ 4 – 5 cm dùng lưới và vợt rồi đóng túi vận
chuyển đến địa điểm nuôi thương phẩm.
1.3. Kỹ thuật nuôi cá song thương phẩm
Cá song thích hợp ở cả hai hình thức ni lồng bè và ni trong ao đầm nước mặn.

Tuy nhiên hình thức ni phổ biến ở nươvs ta hiện nay vẫn là nuôi trong lồng bè.
1.3.1. Kỹ thuật nuôi cá song thương phẩm bằng lồng
1.31.1. Thiét kế lồng bè
Lồng nổi hoặc lồng cố định được sử dụng ở Đông Nam á. Loại lônhg cố định được neo
cố định ở đáy biển.
Kích thước lồng 6 x 6 x 3m hoặc 3 x 3 x 3m.
Kích thước mắt lưới ban đầu khi thả cá giống 2a = 8 mm cho loại cá 2- 10 cm và mắt
lưới 25 mm cho cỡ cá lớn hơn 10 cm.
1.3.1.2. Vị trí neo bè
Nơi khuất gió và hạn chế được ảnh hưởng khi có sóng lớn (trên cấp 3): vịnh, eo
biển, hồ nước mặn. Gần những nơi có thể neo đậu an tồn khi có bão, xa các vùng cửa
sơng.
Biên độ giao động của thuỷ triều khơng lớn ( 3m).
Dịng chảy nhẹ (0,2  0,7m/giây).
Nguồn nước không bị ô nhiễm do các nguồn nước: Sinh hoạt, công nghiệp và
cách xa nơi tàu thuyền neo đậu.
Khơng có hoặc có ít sinh vật làm hại nhơ: hà, sun, rong, rêu...
Độ trong của nước từ 0,5  4m.
Nơi có độ sâu tối thiểu là 5  6m (khi thuỷ triều thấp nhất), đáy là cát sỏi.
Các yếu tố môi trường: Độ muối: 20  320/00; Nhiệt độ: 25  320C; pH: 7,5  8,5;
DO: 4- 8 mg/l.
15


Giao thông vận chuyển cá giống, thức ăn, sản phẩm và các nguyên nhiên vật liệu
khác thuận tiện.
1.3.1.3. Lựa chọn giống và thả giống
a. Chọn giống
Chọn những cá khoẻ mạnh, không sây sát, không rách đuôi, vây vẩy nguyên vẹn.
Trước khi thả vào lồng nên thuần hố để cá thích nghi dần với môi trường mới như :

Độ sâu, độ muối, và nhiệt độ. Tắm cho cá bằng loại thuốc có khả năng diệt mầm bệnh
(vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng ...).
b. Thuần hoá cá
Khi thả cá cần tuân thủ các thao tác sau: Ngâm túi cá trong lồng chuẩn bị nuôi
khoảng 15  20 phút để cân bằng nhiệt độ trong túi với mơi trường, sau đó mở miệng
túi cho nước tràn vào từ từ, nghiêng túi cho cá bơi dần ra ngồi. Khơng mở túi đổ cá
ngay ra lồng, cá sẽ bị sốc.
Khi thả cá cần thao tác nhẹ nhàng, trường hợp cá yếu do vận chuyển, nên nhốt
riêng cá trong thùng có sục khí cho đều đến khi cá hoạt động bình thường mới thả .
Thả cá giống vào lúc trời mát, chọn cá cùng cỡ thả trong một lồng để tránh cạnh
tranh mồi và ăn thịt lẫn nhau.
c. Mật độ thả
Cỡ giống 8 12 cm (TB 50g/con), thả 40  60 con/m3.
Cỡ giống 100  150g/con, thả 20  30 con/m3.
1.3.1.4. Chăm sóc và quản lý
a. Cho ăn
* Thức ăn:
Cá tạp tươi: được xay hoặt cắt cho phù hợp với kích cỡ miệng cá. Thức ăn được trộn
với vitamin C (2g/kg thức ăn) trước khi cho ăn.
Thức ăn viên: với đường kính viên phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cá.
* Cho ăn:
Cho ăn hàng ngày với với cá tạp tươi băm nhỏ bằng 10% trọng lượng trung bình của
thân hoặc thức ăn viên cho ăn 3% trọng lượng thân. Cho ăn 2 lần/ngày vào buổi sáng
và buổi chiều
khi cá có trọng lượng 200g, cho ăn mỗi ngày 1 lần vào buổi chiều với cá tạp tươi bằng
5% trọng lượng trung bình cá ni và thức ăn viên cho ăn 2% trọng lượng thân. Nên
cho ăn lúc cá bơi lội gần mặt nước.
b. Quản lý lồng nuôi
- Thường xuyên theo dõi lồng, nếu lồng bị hư , hại phải sửa chữa hoặc thay mới.
- Vệ sinh lồng bè định kỳ 2 3 tháng 1 lần như: Giặt lưới, thay lưới, tẩy sinh vật bám ...

- Thả 15- 30 con cá dìa (số lượng tuỳ thuộc vào kích thước lồng) vào lồng ni cá. Mục
đích để cá ăn các loài rong, tảo bám vào lưới lồng.
16


- Chú ý thời gian nước tĩnh, dòng chảy yếu và mùa mưa ảnh hưởng nguồn nước đổ ra
từ cửa sông.
- Hàng tháng tiến hành phân lọc cá thể theo từng nhóm kích thước. Ni riêng để tránh
cá lớn tranh cá bé.
- Nếu thấy môi trường xấu, cá kém ăn, hoặc xuất hiện dịch bệnh cần có biện pháp xử lý
- Khi có bão, hoặc khu vực ni mơi trường bị nhiễm bẩn cần di chuyển bè tới nơi khác
để đảm bảo an toàn.
1.3.1.5. Thu hoạch
Cá song được thu hoạch khi chúng đạt 400g hoặc hơn tùy thuộc vào nhu cầu. Thường
thu hoạch sau 12- 15 tháng nuôi khi cá đạt trọng lượng 1000 - 1500kg/con. Cá được
bán còn sống cho các nhà hàng hoặc xuất khẩu.
Không cho cá ăn 1-2 ngày trước bán. Kiểm tra lưới lồng trước khi thu hoạch xem có bị
rách hoặc hư hại, phịng cá thốt ra ngồi.
Nâng lưới chầm chậm lên dồn cá về một góc, dùng vợt có lưới mềm để bắt cá.
1.3.2. Kỹ thuật nuôi cá song thương phẩm trong ao đất
Đây là giai đoạn nuôi từ cá giống lên cá thương phẩm. Yêu cầu kích thước cá thương
phẩm tuỳ theo nhu cầu của thị trường. Hiện nay, việc nuôi cá song trong ao đất ở một
số nước cho thấy tiềm năng lớn về thị trường và khả năng lợi nhuận cao. Tuy nhiên,
khả năng chỉ đạt được khi đáp ứng được nhu cầu về khả năng cung cấp giống. Có 2
phương pháp được áp dụng nuôi cá song trong ao đất là: Nuôi đơn và nuôi ghép với cá
rô phi.
1.3.2.1. Chọn địa điểm
Nguồn nước cấp: Có nguồn nước tốt cung cấp quanh năm, trong sạch không bị ô
nhiễm, xa nguồn nước thải, các yếu tố môi trường ổn định, đảm bảo các thơng số thủy
lý, thủy hóa:

Thơng số

Phạm vi cho phép

pH

7.5- 8.3

Oxy hồ tan

4  8 mg/l

Nơng độ muối

20- 320/00

Nhiệt độ nước

25  32oC

NO2-N (Nitrite nitrogen)

0- 0,05 ppm

Unionized ammonia (NH3-N)

0,02ppm

Chất đáy: Đất sét, sét có mùn hoặc cát pha sét...
Biên độ thuỷ triều: Nên chọn vùng có biên độ thuỷ triều vừa phải từ 2  3m.

Địa hình và chất đất: Nên chọn nơi có địa hình thuận tiện và chất đất giữ được nước
cho ao. Cần tránh những vùng bị nhiễm phèn.
17


Cần chọn nơi có giao thơng thuận tiện.
Ngồi ra, một số yếu tố khác như: Khả năng về giống, lao động, trợ giúp kỹ thuật, khả
năng về thị trường và điều kiện xã hội thích hợp cũng cần được xem xét khi chọn lựa vị
trí.
1.3.2.2. Thiết kế và xây dựng ao
Ao ni thường có dạng hình chữ nhật, diện tích từ 2000m2 đến 10.000 m2, sâu từ
1- 2 m, có cống cấp và cống thoát riêng. Đáy ao bằng phẳng và hơi nghiêng về phía
cống thốt.
1.3.2.3. Chuẩn bị ao
* Đối với ao nuôi đơn tiến hành cải tạo ao theo các bước:
- Tát cạn hoặc tháo cạn nước ao
- Cày, xới lớp đất trên mặt đáy ao, sâu xuống 5 – 10cm.
- San bằng đáy ao và tạo độ nghiêng về phía cống hoặc mương thu hoạch cá.
- Đào một cái hố hoặc mương để dồn cá khi thu hoạch.
- Bón vơi CaCO3 với lượng 1 - 3 tấn/ha hoặc 200 - 300 kg CaO/ha.
- Phơi đáy từ 2 tuần đến 3 tháng tùy theo điều kiện và đáy ao, phơi đến khi mặt ao nứt
chân chim để diệt cá tạp và khoáng hoá đáy ao.
- Cung cấp cho cá chỗ lấp như ống tre, PVC... giúp cho cá con tăng tỷ lệ sống, giảm cá
mắc bệnh, hạn chế tính ăn nhau của cá.
- Lấy nước vào ao, nước phải được lọc qua lưới lọc có kích cỡ mắt lưới 24lỗ/2,5cm để
ngăn sinh vật tạp vào ao nuôi.
* Đối với ni ghép:
- Sau khi bón vơi cần bón phân hữu cơ liều lượng 1 - 2 tấn/ha.
- Cho nước vào ao, sâu 30- 50 cm. Dùng lưới mịn (24 lỗ/inche hoặc 2,5 cm) để ngăn
sinh vật tạp vào ao.

- Tiếp đó nâng dần mực nước ao lên để thức ăn tự nhiên phát triển, khi thức ăn đã
phong phú thì thả cá rô phi bố mẹ, mật độ thả 5.000  10.000con/ha, tỷ lệ đực/cái là
1/3. Cá rô phi nuôi 1  2 tháng xuất hiện nhiều cá rô phi con thì thả cá song giống vào
ni. Nếu khơng ương cá trong cùng một ao, thả 100- 200 cá song con tạm thời trong
một cái lồng (2 x 2 x 1,5 m) đặt trong một chỗ thích hợp trong ao để làm quen với thức
ăn nhân tạo. Thả từ từ cá song con vào các ao ngay sau khi chúng có thích nghi với
thức ăn.
1.3.2.4. Chọn giống và thả giống
- Cỡ giống phải đồng đều, khơng bị dị hình và khơng có dấu hiệu bệnh lý.
- Cỡ cá song giống: ao nuôi đơn cỡ 6  8 cm, ao nuôi ghép cỡ giống 10 - 12 cm.
- Mật độ 20.000  30.000 con/ha (nuôi đơn) và 5.000  10.000 con/ha (ao nuôi ghép).
- Trước khi thả cá giống phải được thuần hố giống với điều kiện mơi trường ao ni.
18


1.3.2.5. Chăm sóc và quản lý
a. Thức ăn và cách cho ăn
Ao nuôi ghép cần điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, thức ăn mang tính chất bổ
sung, khi cá rô phi con trong ao nhiều, cho cá song ăn hàng ngày với 5% trọng lượng
trung bình thân, cho ăn hai lần/ ngày buổi sáng và buổi chiều tối. Nếu cá rơ phi con
khơng có sẵn trong ao, cho cá ăn các loại cá tươi bă nhỏ hàng ngày. Số lượng cho ăn là
15% trọng lượng trung bình thân.
Ao nuôi đơn phải cấp thức ăn hàng ngày là 15% trọng lượng thân, ngày cho ăn hai lần:
sáng sớm và chiều tối. Khi cá đạt 200g cho cá ăn ngày 1 lần và giảm lượng thức ăn còn
5% đối cá tươi, 2% đối với thức ăn viên (thức ăn công nghiệp). Phương pháp cho ăn ở
ao cũng giống nuôi bằng lồng.
b. Quản lý ao nuôi
- Thay nước: sử dụng nước thủy triều hoặc bơm từ ao chứa để thay nước trong ao. Thay
nước ít nhất 2 lần/ tuần, lượng nước thay 20 - 50% lượng nước tùy thuộc chất lượng
nước có trong ao. Ao ni ghép do cần duy trì nguồn thức ăn tự nhiên nên cần hạn chế

việc thay đổi nước cho ao nuôi.
- Sử dụng máy quạt nước khi oxy hòa tan xuống thấp dưới 4 mg/l. Nếu khơng có sục
khí, thay 50% nước hoặc dùng mái chèo đập nước bằng tay.
- Thường xuyên theo dõi các yếu tố mơi trường, duy trì chỉ số của nước trong suốt thời
gian nuôi:
pH: 7.5- 8.3
Nhiệt độ: 25- 320C
Độ mặn: 20 - 320/00
Oxy hòa tan: 4- 8mg/l
1.3.2.6. Thu hoạch
Cá song được thu hoạch khi chúng đạt 400g hoặc hơn tùy thuộc vào nhu cầu. Cá được
bán còn sống cho các nhà hàng hoặc xuất khẩu. Cá thu hoach thường sau 8- 12 tháng
nuôi khi cá đạt cỡ 500 - 1000g/con.
Để thu hoạch, đặt trong ao một cái lồng có kích thước 8 x 2 x 1,5m, kích thước mắt
lưới là 25 mm. Tạm giữ cá tạm thời trong lồng này. Mật độ không quá 20 con/ m3.
Dùng lưới để thu hoạch cá. Lưới có phao nổi ở phía trên và giềng chì ở đáy.
Thu hoạch vào sáng sớm hoặc chiều tối, khuấy nước mạnh 2 giờ trước khi thu hoach để
tránh cơ của cá bị cứng.
1.3.3. Phòng trị bệnh
1.3.3.1. Biện pháp chung trong phịng bệnh
- Giữ chất lượng mơi trường nước tốt, giảm bớt việc làm cá bị sốc môi trương như ơxy
hồ tan thấp, nhiệt độ
- Định kỳ tắm cá bằng hố q cao hay q thấp, sự tích tụ chất thải quá nhiều.
19


- Cung cấp đủ chất dinh dưỡng.chất hoặc trộn kháng sinh vào thức ăn, treo túi vôi sống,
túi dipterex xung quanh bè.
- Chú ý vệ sinh lồng bè sạch giảm thiểu khả năng tích tụ mầm bệnh.
- Cá bị bệnh sau khi chết phải cho vào túi và đưa lên bờ, tuyệt đối không được vứt

xuống biển.
1.3.3.2. Các bệnh thường gặp
a. Các bệnh do virus
Virus là tác nhân gây bệnh có kích thước nhỏ nhất, thơng thường bằng 1/20 kích thước
của vi khuẩn. Chúng xâm nhập vào sinh vật sống, sinh sản bên trong ký chủ và gây
nệnh bằng cách làm tổn hại các mô của ký chủ. ở cá song có hai loại virus được báo
cáo là virus gây bệnh hoại tử thần kinh (VNN) và irido virus.
* Cơ quan bị nhiễm: Não bộ, mắt, mang, lách và các cơ quan nội tạng
* Dấu hiệu: màu của thân tối, bơi kiểu xoay, cá bơi yếu gần mặt nước hoặc đáy ao,
thỉnh thoảng đớp khơng khí ở mặt nước, mang có màu lợt.
* Hậu quả: Bị chết nhiều
* Nguyên nhân:
- Tác nhân truyền bệnh là cá bố mẹ và cá con.
- Do sốc độ mặn và nhiệt độ.
- Trong điều kiện mơi trường xấu như có kim loại nặng.
- Cá bị sốc do dinh dưỡng.
* Biện pháp phòng bệnh
- Chọn cá khơng có virus, bằng cách nhờ phịng thí nghiệm.
- Tiệt trùng các bể và phương tiện khác trước khi sử dụng
- Tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả giống.
- Thực hiện việc nuôi cá tốt như cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cá, loại trừ các con
yếu.
- Qui định việc mua bán cá và cá con để ngăn ngừa bệnh lây nhiễm.
- Kiểm dịch và có giấy chứng nhận cá nhập khẩu.
b. Các bệnh do vi khuẩn
Vi khuẩn là vi sinh vật khơng htể nhìn thấy bằng mắt thường, khơng phải tất cá vi
khuẩn đều có hại. Chúng được xem là các tác nhân gây bệnh cho cá khi sức khoẻ kém
do sự chăm só hoặc do điều kiện môi trường. Hầu hết các vi khuẩn gây bệnh cho cá mú
thuộc nhóm vibrio.
* Cơ quan bị nhiễm bệnh: vây và đuôi, thân, mắt.

* Dấu hiệu bệnh lý: Vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm, mắt đục,
mắt lồi có xuất huyết hoặc không.
* Hậu quả: cá chết ở đáy.
20


* Nguyên nhân:
- Do mật độ cá quá cao, chất lượng dinh dưỡng và nước kém.
- Nhiễm ký sinh trùng và chúng tạo vết thương, đó chính là lối vào cho vi khuẩn xâm
nhập.
- Ơ nhiễm chất hữa cơ vì thức ăn thừa và nước kém lưu chuyển.
- Cá bị thương
* Phịng ngừa:
- Duy trì mật độ cá và sinh khối thích hợp bên trong hệ thống ni.
- Duy trì sự lưu thông nước cho lồng nuôi bằng cách vệ sinh và thay lồng để giảm
thiểu sinh vật bám trên lưới.
- Thức ăn tươi hoặc nhân tạo cho cá phải được bảo quản tốt.
* Biện pháp xử lý:
- Tắm cho cá trong nước ngọt, không kéo dài quá 15 phút.
- Trị bệnh : Dùng các loại thuốc Formol 50  100mml cho vào thùng chứa1000 lít nước
ngọt để hịa tan rồi tắm cho cá (có sục khí), thời gian tắm 2  5 phút tuỳ thuộc vào phản
ứng của cá, tắm liên tục 4  5 ngày (chú ý tắm qua nước ngọt trước khi tắm thuốc). Khi
thấy cá bị bệnh phải lọc chuyển sang nuôi cách ly để xử lý.
c. Các bệnh do nấm
Nấm là vi sinh vật có dạng sợi, tăng trưởng không cần ánh sáng, chúng tạo năng lượng
bằng cách tiêu thụ chất hữu cơ. Ichthyophonus sp là loại nấm gây bệnh cho cá song.
* Cơ quan nhiễm bệnh: Cơ; các cơ quan bên trong.
* Dấu hiệu: Đám màu trắng có đường kính 2 mm ở các cơ quan bị nhiễm.
* Hậu quả: ăn mòn sâu vào mô của ký chủ; ảnh hưởng giá trị của cá.
* Phòng ngừa:

- Tránh làm cá bị thương.
- Chuyển ngay cá có dấu hiệu bị nhiễm nấm khỏi hệ thống ni.
- Không cho cá thức ăn bẩn và hư.
- Bảo quản tốt thức ăn nhân tạo
d. Bệnh do ký sinh trùng
Ký sinh trùng là những sinh vật sống bám trên ký chủ đang sống. Ký sinh trùng được
xem là tác nhân gây nhiều bệnh cho cá song. Những ký sinh trùng chính ở cá song gồm
các loại sau:
* Protozoa: là những sinh vật đơn bào, có cấu tạo đặc biệt để di chuyển, thu thức ăn và
bám vào ký chủ. Chúng có thể ký sinh bên ngồi hoặc bên trong cơ thể của cá. Các loại
Protozoa chính ký sinh trên cá song: Dinoflagellata; Ciliata; Myxosporea
* Giun dẹp: là các loài ký sinh bên ngồi và bên trong cá. Phía trước có cấu tạo đặc biệt
để bám vào ký chủ. Phần lớn giun dẹp có thể thấy bằng mắt thường, một số khác có
21


kích thước hiển vi. Các lồi chính là: Sán lá ở mang (VD: Pseudorhabdosynochus,
Haliotrema, Diplectanum); Sán lá ở da (VD: Benedenia; Neobenedinia)...
* Giun trịn: là ký sinh trùng bên ngồi cá, thân khơng phân dốt. Giun trưởng thành có
thể thấy bằng mắt htường.
* Giáp xác: ký sinh bên ngoài cơ thể cá. Thân phân đốt, có vỏ và các phụ bộ. Một số ký
sinh giáp xác có kích thước hiển vi (copepod), số khác kích thước lớn (isopod).
* Đỉa: Ký sinh bên ngồi, than phân đốt giả và có 2 giác hút để di chuyển và ăn.
Một số bệnh ký sinh trùng thường gặp:
- Dinoflagellata: là một loại nguyên sinh động vật ký sinh, có hình dáng dài giống như
sợi tóc, di chuyển được, kích thước hiển vi. Amloodinium là lồi ký sinh quan trọng
nhất, đường kính thân 120 m, chúng bám vào mang hoặc thân, gây ảnh hưởng cho sức
khoẻ cá song.
+ Cơ quan bị ảnh hưởng: Mang; thân
+ Dấu hiệu: Cá tập trung tại mặt nước hoặc gần nơi sục khí; mang có màu lợt; màu sắc

của thân đậm hơn, trên thân xuất hiện những đốm như nhung.
+ Hậu quả: Da và mang cá bị hoại tử; cá chết nhiều nếu không được điều trị.
+ Điều trị:
Tắm cho cá bằng Sulfat đồng (CuSO4), hàm lượng 0,5 ppm trong 3 - 5 ngày, sục
khí mạnh. Thay nước và hố chất hàng ngày, cách pha hoà 0,5 mg CuSO4 trong 1 lít
nước hoặc 0,5 g trong 1000 lít nước hoặc:
Tắm cá bằng formalin, hàm lượng 200 ppm trong 1 giờ, sục khí mạnh. Cách pha
20 ml trong 1000 lít nước.
Chuyển cá vào bể nước sạch 2 lần trong 3 giờ xử lý cá.
Sau khi xử lý, hút bỏ nước và thay bằng nước sạch.
- Trùng lông tơ (Ciliata): là loại ngun sinh động vật ký sinh có lơng tơ (cilia) được
dùng để di chuyển. Những lồi lơng tơ ký sinh ở cá song là Cryptocaryon, Trichodina,
Brooklynella. Cryptocaryon là loài ký sinh quan trong jnhất trong nghề ni cá song vì
chúng có thể giết sạch đàn cá ni. Chúng có hình quả lê, kích thước 0,5 mm với lớp
lơng tơ trên bề mặt.
+ Cơ quan bị nhiễm: Bề mặt thân; mắt cá.
+ Các dấu hiệu của bệnh: Các chấm trắng trên da cá; cá cọ mình vào các vật cứng khi
bơi; trên thân cá xuất hiện nốt nhày.
+ Hậu quả: ảnh hưởng hô hấp của cá; gây nhiễm trùng thứ cấp; cá chết nhiều nếu
không xử lý.
+Nguyên nhân: Mật độ cá cao; nhiệt độ nước giảm; cá bị sốc
+Điều trị:
Tắm 0,5 ppm CuSO4 (0,5 g CuSO4 trong 1000 lít nước) 5- 7 ngày, sục khí mạnh,
thay nước đã xử lý và hoá chất hàng ngày.
22


Tắm cá bằng nước cá 25 ppm formalin (25 ml formalin trong 1000 lít nước) 5 - 7
ngày, sục khí mạnh, thay nước đã xử lý và hoá chất hàng ngày.
Chuyển cá đã xử lý vào bể nước sạch 2 lần trong vịng 3 ngày.

- Trichoina: có thân hình dĩa, khích thước 100 (đường kính thân), lơng tơ mọc bao
quanh thân.
+Cơ quan bị nhiễm: mang; bề mặt thân.
+Dấu hiệu: mang có màu lợt; cá cọ mình vào vật cứng; tạo nhiều niêm dịch trên mang
và bề, mặt thân; cá yếu trong thời kỳ nhiễm bệnh.
+Hậu quả: ký sinh trùng vận động qua phá huỷ mô của ký chủ; dịch nhầy bám trên
mang gây khó khăn cho hơ hấp của cá.
+Ngun nhân: Hàm lượng chất hữu cơ trong nước cao; ít thay nước, chất lượng nước
kém.
+Điều trị:
Tắm cá với dung dịch formalin 200 ppm (200 ml trong 1000 lít nước) trong 3060 phút, sục khí mạnh.
Tắm cá với dung dịch formalin 25 ppm (25 ml trong 1000 lít nước) trong 1- 2
ngày, sục khí mạnh.
- Sán lá ở da: là lồi sán ký sinh bên ngồi cơ thể, có chiều dài 2- 6 mm. Hầu hết các
loài sán ký sinh trên da cá song là Benedenia và Neobenederia.
+ Cơ quan bị nhiễm: bên ngoài cơ thể; mắt.
+ Dấu hiệu: chết khi đang bơi; cá cọ thân vào vật cứng; mắt đục; da loét.
+ Hậu quả: mù; nhiễm trùng thứ cấp; cá chết nhiều.
+ Ngun nhân:
Mật độ cá ni cao
Có sự truyền bệnh qua các thế hệ của cá nuôi.
+ Điều trị:
Tắm cá trong nước ngọt 10- 30 phút hoặc:
Tắm cá trong dung dịch oxy già 150 ppm (150 ml dung dịch H2O2 trong 1000 lít
nước) trong 10 - 30 phút, sục khí mạnh.
- Sán lá ở mang: là loại sán ký sinh bên ngoài cơ thể cá, dài 0,5- 1 mm. Các lồi sán
thơng thường ký sinh ở mang là Pseudorhabdosynochus, Haliotrema, Diplectanum.
+ Cơ quan bị nhiễm: mang cá.
+ Dấu hiệu: mang có màu lợt; tập tính bơi bị lổi trên mặt nước; thân bị trắng; cá kém
ăn.

+ Hậu quả: hô hấp khó khăn; cá chét nhiều.
+ Nguyên nhân: Mật độ cá nuôi cao; vệ sinh lồng kém.
+ Điều trị:
23


Tắm cá trong dung dịch oxy già 200 ppm (200 ml H2O2 trong 1000 lít nước)
trong 1 giờ, sục khí mạnh, hoặc:
Tắm cá trong dung dịch formalin 100 - 200 ppm (100 - 200 ml formalin trong
1000
lít nước) 30 - 60 phút, sục khí mạnh.
- Copepod (chân chèo): Caligus hình ovan, kích thước: dài 3mm, ngang 1,6 mm, cá một
cặp giác hút ở trán và 4 cặp chân.
+ Cơ quan bị nhiễm: bề mặt cơ; mang cá.
+ Dấu hiệu: bề mặt thân có u; cá bơi chậm chạp trên mặt nước; cá kém ăn; cá yếu khi
nhiễm nặng.
+ Hậu quả: Da và cơ bị mòn; nhiễm trùng thứ cấp; chết nhiều.
+ Nguyên nhân: chất lượng nước kém, ít thay nước.
+ Điều trị: Tắm cho cá với dung dịch oxy già150 ppm (150 ml H2O2 trong 1000 lít
nước) trong 30 phút, sục khí mạnh, hoặc:
Tắm cá bằng nước ngọt 10 - 15 phút; hoặc:
Tắm cá trong dung dịch formalin 200ppm (200 ml formalin trong 1000 lít nước)
trong 1 giờ, sục khí mạnh.
Chuyển cá đã xử lý vào bể nước sạch, không có ký sinh trùng.
e. Bệnh do dinh dưỡng
- Cơ quan nhiễm: gan
- Dấu hiệu: màu sắc của gan nhạt; cá lờ đờ; mắt đục; cơ thể biến dạng.
- Hậu quả: chậm lớn; tỷ lệ sống thấp.
- Phịng ngừa:
+ Khơng cho cá ăn thức ăn ươn thối.

+ Không cho cá ăn thức ăn bị mốc meo.
f. Các bệnh do môi trường
- Cơ quan nhiễm: bong bóng; mang.
- Dấu hiệu: bụng cá bị căng phồng; cá bơi chúc đầu xuống hoặc hướng về phía bên gần
mặt nước; có bong bóng trong lá mang.
- Hậu quả: cá bị nổi thụ động, bị bỏng nắng; cá chết.
- Nguyên nhân: môi trường nuôi ảnh hưởng tới sức khoẻ của cá. Những trận mưa rào
có thể thúc đẩy là tảo nở hoa. Đối với cá nuôi lồng, sinh vật bám trên lưới làm chậm sự
lưu chuyển của nước và làm đảo lộn các yếu tố môi trường.
- Điều trị: nếu cá lớn thu hoạch và bán ngay; không để nhiễm trùng thứ cấp, dẫn đến cá
chết.

24


bài 2: kỹ thuật ni cá giị

Tên khoa học: (Rachycentron canadum Linnaeus, 1776)
Tên tiếng Anh: Black kingfish, Cobia
Tiếng Việt: Cá giò, cá bớp biển
2.1. Đặc điểm sinh học của cá giò
2.1.1 Phân bố
Cá giò thuộc họ cá bớp (Rachycentridae) nên lồi cá này cịn có tên gọi khác là
cá bớp biển, họ này chỉ có một giống Rachycentron và một lồi là R. canadum.
Cá giị phân bố giộng từ vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới (trừ vùng biển đơng
Thái Bình Dương, tây Đại Tây Dương, vùng Bermuda và Massachusetts, từ Mỹ đến
Argentina bao gồm vịnh Mixco và toàn bộ biển Caribbean). ấn Độ- Tây Thái Bình
Dương: Đơng Châu Phi, Nhật Bản đến Australia. ở Việt Nam: cả vùng nước ven bờ và
xa bờ từ Bắc đến Nam.
Cá thường sống ở tầng giữa hoặc tầng trên của vùng nước, danh từ chun mơn

người ta thường gọi là lồi cá nổi. Cá giò sống ở nhiều dạng khác nhau : Bùn, cát, sỏi,
rạn san hô, rạn đá xa bờ và cả vùng đầm lầy rừng ngập mặn… Cá có khả năng thích
nghi lớn đối với sự biến đổi của độ mặn, khoảng thích hợp nhất là từ 22,4  44,50/00.
2.1.2 Hình thái cấu tạo
Thân hình thoi rất dài, chiều dài thân bằng 5,5- 7,5 lần chiều cao, đầu dẹp và
rộng, mõm hơi hếch, hàm dưới dài hơn hàm trên, răng nhỏ mịn phân đều ở cả hai hàm
và trên vòm miệng. Vây lưng thứ nhất có 6- 9 tia cứng gắn và khoẻ, giữa các tia khơng
có màng liên kết, vây lưng thứ hai dài có màng liên kết giữa các tia mềm , vây hậu môn
tương tự vây lưng thứ hai nhưng ngắn hơn, vây đuôi ở cá con hình trịn khi trưởng
thành lõm vào hình trăng khuyết. Vẩy tấm nhỏ nằm trong lớp da dày. Đoạn dưới của
đường bênhơi giiống đường sóng lượn đoạn sau thẳng.
Màu sắc: lưng và hai bên sườn màu nâu đậm (thẫm) , dọc thân có hai dải hẹp
màu sáng bạc chạy dài từ sau mắt đến cuống đi. Bụng có màu trắng sữa hoặc vàng
nhạt. Chiều dài lớn nhất 200 cm, trung bình 110 cm, cân nặng tối đâ 68kg.

25


×