Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Tong Duy Tan va khoi nghia Hung Linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.13 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tống Duy Tân và khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892) </b>


<b>Khởi nghĩa Hùng Lĩnh là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần </b>
<b>Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.</b>


<b>Công cuộc này khởi phát năm 1887 (có sách ghi 1886) tại Hùng Lĩnh </b>
<b>(Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), ngay sau khi căn cứ Ba Đình và Mã Cao lần </b>
<b>lượt thất thủ. Lãnh đạo chính là Chánh sứ sơn phịng Thanh Hóa Tống </b>
<b>Duy Tân cùng hai cộng sự đắc lực là Đề đốc Cao Điển (hay Cao Điền) và</b>
<b>tù trưởng người Thái Cầm Bá Thước. Tháng 10 năm 1892, cuộc khởi </b>
<b>nghĩa kết thúc, sau khi thủ lĩnh là Tống Duy Tân bị đối phương bắt </b>
<b>sống rồi xử chết.</b>


*


<b>1. Khởi cuộc:</b>


Năm 1886, Tống Duy Tân và Cao Điển nhận lệnh của thủ lĩnh Đinh Công
Tráng đến Phi Lai (Hà Trung, Thanh Hóa) lập căn cứ, nhằm hỗ trợ cho căn
cứ chính là Ba Đình. Ngồi căn cứ Phi Lai trong sự nghiệp chung, Tống Duy
Tân còn chuẩn bị lực lượng và căn cứ kháng Pháp ngay tại quê hương mình,
đó là vùng thượng nguồn sơng Mã thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.


Đầu năm 1887, đơng đảo qn Pháp kéo đến đàn áp dữ dội phong trào Cần
Vương ở tỉnh này. Căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất
thủ... Sau đó, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh (Đinh Cơng Tráng, Nguyễn Khế,
Hồng Bật Đạt), tự sát (Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại), hoặc đi tìm
phương kế khác (Trần Xuân Soạn)...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đầu năm 1889, Tống Duy Tân về đến quê nhà. Sau khi tập hợp lại lực
lượng, ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại


Hùng Lĩnh. Từ nơi đó, ơng cùng hai cộng sự chính là Cao Điển và Cầm Bá
Thước, cho quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả
ngạn sông Mã; đến hợp đồng chiến đấu với Đề Kiều-Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu
sơng Đà, với Phan Đình Phùng ở vùng rừng núi Nghệ An-Hà Tĩnh, với Hà
Văn Nho (thủ lĩnh Mường) tại châu Quan Hóa, và với Tơn Thất Hàn ở Nông
Cống, v.v...


Ngày 8 tháng 10 năm 1889, được tin Tống Duy Tân hoạt động mạnh ở Hùng
Lĩnh, trưởng đồn ở Nơng Cống là thiếu úy Morfond liền đem 4 lính Pháp và
20 lính khố xanh đến dị xét. Gần tới nơi, thì qn đối phương vấp phải cơng
sự của quân Hùng Lĩnh. Sau một hồi đọ súng, quân đồn Nông Cống rút lui,
sau khi thiếu úy Morfond, 4 lính Pháp và 4 lính khố xanh đều tử trận.


Ba hôm sau, khoảng 180 quân Pháp ở tỉnh Thanh rầm rộ kéo đến tấn công.
Sau cuộc va chạm này, bên đối phương thiệt mất hàng chục lính nữa, mà
không triệt hạ được cứ điểm.


Ngày 22 tháng 10, cũng từ tỉnh Thanh, Đại tá Barbaret dẫn 185 quân có
trang bị đại bác tiến lên Hùng Lĩnh, nhưng lần này Tống Duy Tân đã kịp cho
quân rút hết về Đa Bút (Vĩnh Lộc), một cứ điểm hiểm yếu hơn. Đại tá


Barbaret liền cho quân truy đuổi, đến ngày 2 tháng 11 thì đụng độ. Đơi bên
đã kịch chiến suốt 2 ngày và đều bị thiệt nặng. Thế nhưng, trước sức mạnh
của đại bác, Tống Duy Tân phải cho quân lui về phía Bắc Phố Cát (Thạch
Thành) rồi sang Vạn Lại (Vạn Ninh, Thọ Xuân).


Cuối tháng ấy, đội quân của tướng Trần Xuân Soạn (lúc này đã sang Trung
Quốc) tìm đến gia nhập, nhờ vậy mà quân Hùng Lĩnh chóng phục hồi được
khả năng chiến đấu.



Thấy cơng cuộc bình định bị cản trở, mà đánh mãi vẫn chưa tiêu diệt được;
bộ chỉ huy quân đội Pháp liền đưa Trung tá Lefèvre đến thay Barbaret, và
còn chi viện thêm một đội kỵ binh cùng một số súng cối 80 ly.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

làm bốn cánh đi tấn công đồn Yên Lược. Đêm ngày 1 tháng 12 năm 1889,
một đánh giáp lá cà đã diễn ra hơn hai giờ đồng hồ, mãi đến khi nghĩa quân
đốt cháy được đồn mới chịu rút lui.


Liên tiếp bị tổn thất nặng, bộ chỉ huy quân đội Pháp bèn điều thêm 500 lính
cùng hai khẩu đại bác đến chi viện, và cử Trung tá Jorne de Lacale thay
Lefèvre. Ngay sau đó, viên sĩ quan này cho người đi thám thính rồi mở cuộc
truy quét quân Hùng Lĩnh. Đến trưa ngày 1 tháng 1 năm 1890, quân Pháp
bắt gặp nghĩa quân đang ở làng Kẽm. Lập tức, các họng đại bác Pháp thi
nhau nổ suốt 45 phút thì phá được chiến lũy, mở đường cho bộ binh xung
phong. Từ trong chiến hào, quân Hùng Lĩnh đánh trả quyết liệt cho đến tối
mới rút lui. Kết thúc trận, ngồi số lính đơi bên bị thương vong, phía Pháp
cịn thiệt mất một viên đại úy tên là Christophe.


Vài hôm sau, được tin là Tống Duy Tân sẽ cho quân đánh đồn Nông Cống,
viên trưởng đồn này là Thiếu úy Jolly vội cáo cấp về tỉnh. Công sứ Lebrun
liền phái Thiếu úy Savereux mang viện binh đến nhưng không thấy động
tĩnh gì. Trên đường về, nghe mật thám báo tin có khoảng 200 quân Hùng
Lĩnh do Cao Điển chỉ huy đang có mặt bên một làng lân cận. Nhận được tin
Savereux báo về, Công sứ Lebrun liền dẫn quân đến vây đánh nhưng lại bị
đánh bạt về Nông Cống. Sau trận thắng này, Đề đốc Cao Điển dẫn quân về
Yên Lãng (Xuân Yên, Thọ Xuân).


Ngày 29 tháng 3, quân Pháp từ hai ngã là Nông Cống và thành tỉnh Thanh
Hóa kéo đại bác đến vây đánh Yên Lãng. Trận này, quân Hùng Lĩnh bị thua,
ngồi số thương vong, cịn mất đi viên chánh tổng Yên Lãng.



Sang ngày 26 tháng 4, tiền đồn của Cao Điển ở Na Lung bị quân Pháp tấn
công. Xét không thể giữ được đồn, Cao Điển cho quân rút qua Thanh Khối.
Đến ngày 29 thì hai bên kịch chiến tại Mỹ Hịa, sau đó là tại Thanh Khối.
Tuy gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại (thiếu úy Bonnet và 6 lính cơ tử trận,
nhiều lính bị thương trong đó có viên sĩ quan tên Viola), nhưng trước sức
mạnh của đối phương, Cao Điền phải cho quân lui đến Cửa Đạt (châu lỵ
Thường Xuân).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Ngày 21 tháng 2 năm 1891, Tống Duy Tân và Cao Điển lại chuyển lực
lượng từ An Lẫm lên Lang Vinh, cũng thuộc thuộc châu Thường Xuân, để
lấy núi cao làm thế hiểm. Hay được, Giám binh Soler bèn dẫn quân tìm đến.
Đợi cho quân Pháp chỉ còn cách đồn Lang Vinh chừng 60m, quân Hùng
Lĩnh từ trong các chỗ ẩn nấp đồng loạt bắn ra, tiêu diệt được một số. Nhưng
sau một hồi ác chiến, quân Hùng Lĩnh phải bỏ hết các công sự đang xây
dựng dở dang, chạy tháo thân về Hòn Mông. Bị đối phương truy đuổi, Tống
Duy Tân và Cao Điển phải cho quân chia thành nhiều toán nhỏ, bí mật rút về
Trịnh Vạn, tức căn cứ của Cầm Bá Thước.


<b>2. Tàn cuộc:</b>


Kể từ tháng 4 năm 1892 trở đi, bên cạnh Tống Duy Tân và Cao Điển không
còn quá 100 quân và 50 súng, bởi nhân dân bị khủng bố quá dữ nên không
dám theo và cung ứng đầy đủ các thứ nữa.


Tháng 3 năm 1892, từ sông Đà, Đốc Ngữ dẫn quân vượt sông Mã vào Thanh
Hóa. Sau khi bàn bạc, Tống Duy Tân và Đốc Ngữ cùng hợp quân đi tấn
công quân Pháp ở Niên Kỷ (Bá Thước, Thanh Hóa). Mặc dù thu được một
số thắng lợi, nhưng rồi cũng không sao cứu vãn được tình thế.



Hoạt động ở đây một thời gian ngắn, thì Đốc Ngữ dẫn quân trở lại mạn sơng
Đà [1], cịn Tống Duy Tân, thì ở lại cầm cự một thời gian nữa. Nhưng trước
cuộc bao vây và càn quét ngày càng ác liệt của đối phương, khoảng tháng 9
năm 1892, ông tuyên bố giải tán lực lượng để tránh thêm thương vong.
Sau đó, Tống Duy Tân đến ẩn náu ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống,
huyện Bá Thước), còn Cao Điển cùng một số thuộc hạ quyết chí theo thì
đóng trên một ngọn đồi gần bên. Chẳng lâu sau, Cao Ngọc Lễ (vừa là học
trò cũ, vừa là cháu kêu Tống Duy Tân bằng cậu) đi mật báo cho Pháp đến
bủa vây và bắt được Tống Duy Tân vào ngày 4 tháng 10 năm 1892. [2]
Trước hơm đó một ngày (ngày 3 tháng 10), một toán quân Pháp khác gồm
30 người đi vây bắt Cao Điển. Hai bên đụng độ ác liệt. Nghĩa quân bị bắt 2,
chết 6; nhưng Cao Điền đã kịp chạy thoát cùng bốn năm người với hai
khẩu...Ẩn nấp ở đất Bắc được mấy năm, thì Cao Điển bị bắt tại Bắc Giang
khi đang tìm đến với nghĩa quân Yên Thế do Hồng Hoa Thám làm thủ lĩnh.
Hơm ấy là ngày 16 tháng giêng năm 1896.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Số phận của Cao Điển về sau không rõ. Phần Cầm Bá Thước, mặc dù bị tổn
thất lớn như vừa kể, ông vẫn kiên trì hoạt động cho đến tháng 5 năm 1895
thì bị mới qn Pháp được tại Thường Xn. Khơng chịu qui hàng, ơng bị
đối phương bí mật thủ tiêu vào khoảng cuối tháng 5 năm Ất Dậu (1895). lúc
37 tuổi.


Tuy nhiên, theo các nhà sử học Việt Nam thì năm 1892, là thời điểm kết
thúc cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh, tức sau khi thủ lĩnh Tống Duy Tân bị xử
chết.


<b>3. Lời bàn:</b>


Sử gia Phạm Văn Sơn nêu ý kiến đại để như sau:



Về tổ chức, mỗi huyện đều có một cơ hương binh từ 200 người trở lên, đứng
đầu là Cơ trưởng, lấy tên huyện để gọi như Nông Thanh cơ (tức cơ Nông
Cống ở Thanh Hóa), Tống Thanh cơ (tức cơ Tống Sơn ở Thanh Hóa),...Cịn
về vũ khí, thì hãy cịn khá thô sơ.


Buổi đầu, chiến thuật của Tống Duy Tân giống hệt chiến thuật của Đinh
Cơng Tráng ở Ba Đình (Nga Sơn, Thanh Hóa), tức là chọn một địa điểm
hiểm yếu, xây dựng chiến khu vững chắc rồi nhử quân đối phương đến mà
tiêu diệt. Khi nào họ mạnh quá, các ông mới phải cho quân rút đi nơi khác.
Chiến thuật này nguy ở chỗ địch có đại bác mạnh, nên cứ điểm dù có vững
chắc đến mấy cũng khó mà bảo tồn được lực lượng. Về sau, trong nhiều
năm ròng, Tống Duy Tân dùng thế du kích chiến để đột kích và quấy phá đối
phương. Sau mỗi trận đánh, nghĩa quân lại rút lẹ về các vùng rừng núi để thủ
hiểm. Tuy vậy, nếu có cơ hội ơng cũng cho mở một số trận đánh lớn mà
Pháp còn ghi nhận, như các trận ở Đa Bút, Vạn Lại, Yên Lãng, Nông Cống,
Mỹ Hòa,...


Mặc dù đạt được một số thắng lợi, nhưng lực lượng nghĩa quân ngày một
hao mòn, việc bổ sung quân số chậm chạp, vì nhân dân bị đối phương khủng
bố quá dữ nên không dám đi theo và cung ứng đầy đủ các thứ nữa. Trái lại,
đối phương tuy có hao tổn nhiều nhưng việc tiếp vận điều hịa, và ln có
sẵn những lực lượng hùng hậu để đàn áp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>súng của giặc để về với nghĩa quân, lương-giáo một nhà đừng sát phạt nhau</i>
<i>nữa...đã thể hiện rất rõ chủ trương trên [3].</i>


<b>Bùi Thụy Đào Ngun, soạn.</b>
<b>Chú thích:</b>


[1] Về đến sơng Đà, qn Đốc Ngữ cịn chiến đấu thêm một vài tháng nữa


thì tan rã hẳn, sau khi Đốc Ngữ bị quân Pháp sát hại vào ngày 7 tháng 8 năm
1892.


[2] Phần nhiều các sách đều ghi theo ý này, trong đó có: Lịch sử Việt Nam
[1858-cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1, tr. 128), Đại cương lịch sử Việt
Nam (tập 2. tr. 78) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 848). Tuy nhiên,
Phạm Văn Sơn lại kể khác: Ngày 24 tháng 9, Cơng sứ Thanh Hóa là


Boulloche phái một toán quân đi do thám. Quân Pháp đến nhà một viên thổ
ty trước đây có chứa chấp Cao Điển. Vợ ơng này vì sợ q đã dẫn thiếu úy
Henschell và 20 lính đi bắt Tống Duy Tân ở hang Niên Kỷ vào lúc 6 giờ
chiều ngày 4 tháng 10 năm 1892 (Việt sử tân biên, quyển 5, tập trung, tr.
141).


[3] Lược theo Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 142-143.
<b>Sách tham khảo chính:</b>


-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 5, tập trung). Tác giả tự xuất bản,
Sài Gòn. 1963.


-Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử
<b>Việt Nam (tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2006.</b>


-Hoàng Văn Lân-Ngơ Thị Chính, Lịch sử Việt Nam [1858-cuối XIX],
quyển 3, tập 1, phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.


-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam.
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.


-Nhiều tác giả (Phan Ngọc Liên chủ biên). Lịch sử 11 (nâng cao). Nhà xuât


bản Giáo Dục, 2007.


</div>

<!--links-->

×