Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

tich luy thang 102010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.24 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Học thuyết về “đạo” trong triết học Lão Tử</b>



Lão Tử là nhà triết học lớn về “đạo” của Trung Quốc cổ đại. Ông được xem là người sáng lập ra trường phái
triết học Đạo gia. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam, còn gọi là
Lão Đam. Người huyện Khổ, Hưng Lệ, làng Khúc Nhân, nước Sở (thời Xuân Thu- Chiến Quốc). Ông làm
quan sử, giữ kho sách, tàng trữ thất sử nhà Chu, là tác giả của cuốn Đạo đức kinh gồm 81 chương, chia làm
hai thiên: thượng và hạ. Bằng lối diễn đạt đầy chất thơ, Lão Tử đã trình bày các vấn đề: học thuyết về “đạo”,
<b>tư tưởng về phép biện chứng và học thuyết “vô vi”. Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu học</b>
<b>thuyết về “đạo” trong triết học Lão Tử. </b>


Xét về mặt bản thể luận, “đạo” được Lão Tử trình bày theo ba mặt: thể, tướng, và dụng.
<b>a. Thể:</b>


Thể của “đạo” là nguồn gốc tối sơ, nguyên thủy của vũ trụ vạn vật. Nó chi phối sự sinh thành và biến hóa của
trời đất. Lão Tử viết: “Có vật gì hỗn độn mà nên, sinh ra trước trời đất, vừa trống khơng, vừa lặng n, đứng
một mình khơng thay đổi, lưu hành khắp mọi nơi mà không mỏi, là mẹ của thiên hạ.” ( Đạo đức kinh, chương
25) “Đạo” là cái gốc ban đầu của toàn vũ trụ, tuyệt đối vĩnh hằng , có trước trời đất. Nó chỉ là “một”, uyên
nguyên, chứa đựng và viên đồng hết thảy cái hữu và vô, cái tĩnh lặng và biến đổi, cái siêu hình và hữu hình.
Ơng viết: “Trời được một mà trong. Đất được một mà yên. Thần được một mà linh.” Như vậy, theo Lão Tử,
<b>đạo là cái vô cực và chứa đựng trong nó là thái cực. “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn</b>
vật.” (Đạo đức kinh- chương 42)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đề cao tính thuần phát, tự nhiên của “đạo”, Lão Tử không thừa nhận sự biến hóa của thế giới tn theo mục
đích định sẵn của thế lực siêu tự nhiên nào đó. Ơng cho rằng con người phải hành động theo quy luật tự
nhiên, đứng trước tự nhiên, con người khơng làm gì cả.


Thuộc tính thứ hai của “đạo” được Lão Tử nói đến nhiều trong Đạo đức kinh là tính chất lặng yên và trống
khơng. Ơng viết: “ Hết sức trống rỗng cùng cực. Giữ lặng dốc một lòng”. Lão Tử thường dùng từ “cốc thấn” để
chỉ tính chất trống rỗng của “đạo”. “Cốc thấn”chỉ khoảng cách trống khơng giữa lịng hang sâu, khơng hình,
khơng ảnh, khơng trái, khơng ngược , ở thấp khơng hèn không động, giữ lặng yên không suy…”(Đạo đức
kinh- chương 6). Sự trống rỗng này vô cùng vô tận, chứa đựng vạn vật, mn lồi mà chẳng bao giờ đầy, biến


hóa khơn lường mà chẳng bao giờ kiệt. Cái lặng yên trống rỗng của “đạo” còn được Lão Tử diễn đạt bằng từ
“vi diệu”, “huyền thơng”. Ơng dùng chữ “huyền”với nghĩa sâu kín, mầu nhiệm, khơng danh tính, khơng hình
thể, khơng thể nói ra bằng lời để chỉ đạo biến hóa. Ơng viết : “Vơ danh là đầu trời đất, hữu danh là mẹ mn
vật…Cả hai cái đó cùng xuất phát một chỗ mà khác tên, cùng gọi là huyền , huyền tới mức huyền nhất, đó là
cái của của mọi thứ diệu kỳ- huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn.”(Đạo đức kinh- chương 1).


“Đạo” là cái đầu tiên, uyên nguyên, lại có trong tất cả vạn vật. Nó “ngỗn ngang rối rít” nhưng “pha trộn vào ánh
sáng” , “hịa chung vào bụi rậm”, lớn vơ cùng và nhỏ vơ cùng, khơng ở đâu khơng có sự tồn tại của “đạo”. Với
quan điểm đó, mặt thể của “đạo” cũng chính là bản chất sâu kín, u huyền, mầu nhiệm của vũ trụ, vạn vật.
<b>b. Tướng:</b>


Về mặt tướng của đạo, Lão Tử cho rằng nó khơng có hình trạng, “khơng nhìn thấy, khơng nghe thấy, nắm
khơng được, đón khơng thấy đầu mà nghe không thấy cuối, ở trên không sáng tỏ, ở dưới không mờ tối” (Đạo
đức kinh, chương 14) Nhưng nó khơng bao giờ mất, nó tồn tại khắp vũ trụ, sâu kín, mập mờ, thấp thống, là
một khối hỗn độn thống nhất, không phân chia sáng và tối, hữu và vơ. Vì thế khơng thể diễn tả nó bằng lời,
khơng thể gọi nó bằng tên thường, nếu gọi bằng tên thì sẽ có sự đối chọi, cân xứng như tốt xấu, thiện ác, đầu
cuối. Nên Lão Tử gọi nó là “đạo vơ danh”. “Đạo” vơ danh nhưng nó vẫn tồn tại. Sự tồn tại của “đạo” được biểu
hiện trong mỗi sự vật, hiện tựợng đang tồn tại biến hóa vơ cùng vơ tận. Do đó, “đạo” vừa duy nhất, vừa thiên
hình vạn trạng, vừa bất biến, lại vừa biến hóa.


Theo Lão Tử, từ trời đất đến mn vật và tất cả những gì có hình tượng, màu sắc, âm thanh đều bắt đầu từ
cái tự nhiên, sâu kín khơng danh tính, khơng hình thể, vơ cùng vơ tận ấy. Vì thế, ơng viết: “Mọi vật trong thiên
hạ đều sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vô, và đạo vô danh như gỗ chưa đẽo, khi làm ra mới có danh”(Đạo đức
kinh, chương 40)


Ơng thường lấy nước để diễn đạt trạng thái của “đạo” vì nước giống “đạo”ở chổ khơng thể chất, khơng hình
trạng. Nước khơng nơi nào là khơng tới. Nó mềm mại song khơng gì mạnh bằng nó, khơng gì linh hoạt như
nó. “ Trong thiên hạ khơng có gì mềm yếu hơn nước mà cơng phá vật rắn mạnh thì khơng có gì hơn được nó,
khơng lấy gì thay thế được nó”. Nên Lão Tử chủ trương lấy mềm thắng cứng, lấy nhu thắng cương. Nước cịn
giống đạo ở thế qn bình, dù ở trong trạng thái nào, nước vẫn mau chóng tìm lại thế quân bình của mình,


sang lấp những chỗ lồi lõm…


<b>c. Dụng:</b>


Dụng tất là công dụng, năng lực của “đạo”. “Đạo” là cái sáng tạo. Nó là khởi nguồn của vũ trụ, vạn vật. Từ
trong sự trống rỗng của “đạo”, khi vận động, vạn vật sinh sôi nảy nở. Lão Tử viết: “ Cái khoảng không giữa trời
đất, giống như ống bể, tuy trống không mà vô tận, càng động lại càng ra hơi.” “Đạo” bao trùm, che chở và ni
dưỡng vạn vật nhưng nó thản nhiên (tự nhiên) như khơng làm gì. Ơng viết: “Đạo thường khơng làm nhưng
khơng gì khơng làm.”(Đạo đức kinh, chương 37). Như vậy năng lực của đạo là ở trạng thái “tĩnh” nhưng khơng
gì là khơng nhờ đến “đạo” để phát sinh, tồn tại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×