Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.32 KB, 20 trang )

Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đà phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đất
nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng với các nước khác trong khu vực và
trên thế giới thì điều đó phụ thuộc vào chúng ta và các thế hệ con em của chúng
ta. Tất cả những ai trong ngành giáo dục và những ai quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục của con em mình đều mong mỏi cho con em mình tiếp nhận những kiến
thức sâu rộng của nền văn minh nhân loại và trở thành những con người có trình
độ học thức, có đức, có tài để phục vụ đất nước.
Bậc học đầu tiên các em được cắp sách đến tồn trường đó là bậc Tiểu
học. Bậc Tiểu học là bậc học tạo nền tảng vững chắc cho các em vào đời. Sau khi
học xong tiểu học, các em được lĩnh hội những kiến thức, kĩ năng mà 8 môn học
đã trang bị cho các em để các em tiếp tục học lên lớp trên.
Toán học là một mảng kiến thức xuyên suốt quá trình học tốn của học
sinh. Nó khơng chỉ truyền thụ và rèn luyện kỹ năng kỹ xảo tính tốn để giúp các
em học tốt mơn khác mà cịn giúp các em rèn luyện trí thơng minh, óc tư duy
sáng tạo, khả năng tư duy lô gic, làm việc khoa học.
Trong chương trình tốn ở Tiểu học cũng như chương trình toán lớp 3 gồm 4
mạch kiến thức cơ bản: Trong đó giải các bài tốn có lời văn có vị trí đặc biệt
quan trọng. Việc dạy học giải tốn giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát
triển năng lực tư duy, phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của
con người mới.
Ngày nay, trong quá trình dạy học chương trình sách giáo khoa mới địi hỏi
người giáo viên cần vận dụng những phương pháp dạy học mới (Phương pháp
dạy học tích cực). Xuất phát từ định hướng đổi mới phương pháp dạy học phù
1


hợp đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh.


Tuy nhiên trong quá trình dạy học, người giáo viên còn vận dụng phương
pháp dạy học truyền thống dẫn đến kết quả giảng dạy chưa đạt yêu cầu làm giảm
hứng thú học tập của học sinh. Đây là một khó khăn khơng nhỏ đối với giáo viên
và học sinh trong quá trình dạy học hiện nay. Đặc biệt là việc giải các bài tốn có
lời văn của giáo viên còn lúng túng về nhiều mặt, một phần khơng nhỏ học sinh
gặp khó khăn khi giải bài tốn cịn nhầm lẫn sai sót, trình bày bài giải chưa chính
xác, việc hình thành kỹ năng cịn chậm, khả năng suy luận kém. Ngồi ra, cịn do
điều kiện gia đình càng ảnh hưởng khơng nhỏ tới kết quả học tập của các em.
Vậy làm như thế nào để nâng cao chất lượng dạy học mơn tốn ở trường Tiểu
học ? Làm thế nào để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh ?…. Hàng loạt câu
hỏi đặt ra và nó đã làm cho bao nhiêu thế hệ thầy cô phải trăn trở suy nghĩ. Là
một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy nhiều năm tơi nhận thấy mình phải có trách
nhiệm trong việc giúp đỡ học sinh có được kết quả học tập cao.
Xuất phát từ yêu cầu quan trọng của mơn học và tình hình thực tế việc dạy và
học Tốn như trên, tơi đã đi nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giúp đỡ học
sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài tốn điển hình ở lớp 3”
2. Điểm mới của đề tài
Qua nghiên cứu tôi đã đưa ra một số biện pháp và đúc kết được một số kinh
nghiệm để giúp học sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài tốn điển
hình ở lớp 3.
3. Phạm vi áp dụng đề tài
Nội dung giải toán được sắp xếp hợp lý, đan xen phù hợp với các mạch
kiến thức khác song vì điều kiện và thời gian có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên
2


cứu về nội dung và phương pháp dạy học giải tốn có lời văn có nội dung hình
học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 từ đó có biện pháp giúp đỡ
học sinh yếu kém khắc phục khó khăn.


3


Phần II: NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Những thuận lợi, khó khăn
*Thuận lợi
- Cơ sở vật chất nhà trường đảm bảo và phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Nhìn chung các em ngoan, tham gia tích cực các hoạt động của trường của lớp.
- So với trước đây, phụ huynh đã có sự quan tâm hơn đối với việc học
tập của con em mình.
- Về phía giáo viên: Hầu hết các thầy cô đều yêu nghề mến trẻ, tâm
huyết với nghề nghiệp, có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao, 100% giáo viên
đã đạt chuẩn và trên chuẩn.
* Khó khăn
- Khả năng giao tiếp giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với học
sinh còn nhiều hạn chế, chỉ có một số học sinh khá giỏi mạnh dạn tham gia cịn
học sinh nhút nhát thì thu mình ngại tham gia.
- Nhiều em chưa được bố mẹ quan tâm, ít chú ý đến việc học tập. Hơn
nữa trình độ học vấn của các bậc phụ huynh chưa tiếp cận được với phương pháp
học tập theo chương trình đổi mới.
Thực trạng của học sinh hiện nay có thể khẳng định rằng học sinh tiểu
học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng cịn yếu về khả năng phân tích, tư duy
để giải bài tốn có lời văn.
2. Thực trạng việc dạy học giải tốn có lời văn của giáo viên
- Muốn học sinh học tập đạt kết quả thì vấn đề đặt ra cần phải đề cập đến là
phương pháp giảng dạy, là cách thức tổ chức hoạt động học tập cho học sinh và
quan trọng hơn cả là người giáo viên có trình độ kiến thức, chuyên môn, nghiệp
vụ và kinh nghiệm giảng dạy…
4



Để nghiên cứu sáng kiến này tôi đã khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu
năm học có kết quả như sau:
Lớp TSHS

Điểm giỏi
TS

Tỉ lệ

Điểm khá
TS

Tỉ lệ

%
3B

13

2

15,4

Điểm TB
TS

%
6


46,2

Tỉ lệ

Điểm yếu
TS

%
3

23,1

Tỉ lệ
%

2

15,4

- Qua điều tra thực tế dạy học môn Toán của giáo viên trường Tiểu học số 2 Sen
Thuỷ, tơi nhận thấy một thực trạng như sau:
+ Về trình độ giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Trong q trình giảng
dạy có nhiều cố gắng đạt mục tiêu bài dạy, có ý thức nâng cao tay nghề.
+ Xong việc vận dụng những kiến thức đã có vào việc giảng dạy cịn có
nhiều hạn chế, lúng túng, vụng về, thiếu linh hoạt.
+ Năng khiếu sư phạm còn hạn chế dẫn đến việc hướng dẫn học sinh giải bài
tốn đơi khi cịn thiếu chính xác. Kiến thức cơ bản nhiều khi cịn bị lãng qn, sự
đầu tư vào chun mơn chưa nhiều dẫn đến chất lượng giờ dạy chưa cao.
VD: Khi hướng dẫn học sinh giải toán, giáo viên chưa khuyến khích học sinh

tìm nhiều cách giải khác nhau, chưa cho học sinh thấy được ý nghĩa thực tiễn của
nó trong cuộc sống.
3. Thực trạng việc học giải toán điển hình của học sinh lớp 3
Trong khi nghiên cứu đề tài này tôi đã điều tra đối chứng hai lớp 3 của
trường Tiểu học số 2 Sen Thuỷ. Tôi nhận thấy học sinh yếu, kém giải tốn có lời
văn có nội dung hình học và bài tốn liên quan đến rút về đơn vị hay mắc phải
sai lầm như sau:
a. Bài tốn có lời văn có nội dung hình học
5


- Học sinh chưa đọc kỹ đề bài, xác định u cầu bài tốn chưa đúng,
khơng biết bài tốn thuộc loại tốn nào dẫn đến việc áp dụng cơng thức, quy tắc
nhầm, lẫn lộn với nhau, kết quả giải toán bị sai.
+ Khi bài tốn u cầu tính chu vi hình chữ nhật thì lại áp dụng quy tắc
tính chu vi hình vng và ngược lại khi bài tốn u cầu tính chu vi hình vng
thì lại áp dụng quy tắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật.
+ Khi bài tốn u cầu tính chu vi hình vng và chu vi hình chữ nhật thì
học sinh yếu, kém khơng nắm chắc quy tắc để vận dụng quy tắc tính, nhầm giữa
tính chu vi hình vng sang tính diện tích hình vng, nhầm giữa tính chu vi
hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật.
+ Trong bài giải bài tốn về chu vi, diện tích các hình (Bài 3 trang 155Toán 3) khi viết tên đơn vị đo, các em cịn bỏ sót, nhầm lẫn. Thơng thường kích
các cùng đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì
đơn vị đo lại khác. Chẳng hạn: Với hình chữ nhật có chiều dài 9 cm, chiều rộng 6
cm thì đơn vị đo của chu vi là cm, nhưng đơn vị đo của diện tích là cm 2. Cụ thể
là:
Chu vi hình chữ nhật là:
(9 + 6 ) x 2 = 30 (cm)
Diện tích hình chữ nhật là:
9 x 6 = 54 (cm2)

- Học sinh yếu cịn nhầm khi bài tốn cho chu vi hình vng đi tìm cạnh,
học sinh khơng hiểu bài tốn ngược lại áp dụng cơng thức cạnh hình vng bằng
chu vi chia cho 4.
- Ngồi ra cịn một số bài tốn địi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công
6


thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tồng hợp kiến thức
của các em cịn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài tốn bị
sai.
VD: Bài tốn
+ Cho cạnh hình vng tính chu vi và diện tích, học sinh nhầm giữa hai
cách tính nên kết quả bị sai.
+ Cho chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật. Tính chu vi, diện tích. Học sinh lại
nhầm hai cơng thức tính dẫn đến kết quả sai.
b. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Dạng 1
+ Bước 1: Rút về đơn vị, tìm giá trị một phần
- Học sinh nhầm khi trả lời chưa rõ ràng
- Sau khi thực hiện phép tính chia ghi danh số sai với câu trả lời
VD: Bài 2 trang 128
“Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao có bao nhiêu ki-lơ-gam gạo?”
Học sinh trả lời sai:
Danh số kết quả sau: 28 : 7 = 4 (bao)
Học sinh phải làm đúng là: 28 : 7 = 4 (kg)
Bước 2: Tìm 5 bao có số ki-lơ-gam gạo là:
4 x 5 = 20 (kg)
Học sinh hay đặt ngược phép tính là:
5 x 4 = 20 (bao)
7



Như vậy:
Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay trả lời sai hoặc sai danh số, phép
tính sai vì đặt ngược.
Dạng 2:
Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia
Bước 2: Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu
hỏi của bài toán.
- Học sinh thường sai: Trả lời sai, ghi danh số nhầm
VD: Bài tốn 2 trang 166
Bước 1: Tìm giá trị một phần
- Học sinh trả lời sai
III. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Việc dạy học gải toán ở tiểu học là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan
hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mơ tả quan hệ đó bằng cấu trúc ghép tính cụ
thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài tốn. Giáo viên cần phải tổ chức
cho học sinh nắm vững khái niệm tốn học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ…
Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải tốn. Vậy qua q trình nghiên cứu
thực hiện đề tài tôi xin đưa ra một số biện pháp sau đây.
1. Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải tốn
Đây là vấn đề vơ cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học
sinh, thay thế cho việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh
phải thuộc lịng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền
thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tịi khám phá
kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo
8


viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học sinh muốn giải được các bài tốn

thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc giải toán
mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết.
Học sinh cần nắm chắc quy tắc, cơng thức tính, các bước tính của một phép
tính từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính tốn.
Đối với loại tốn có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc điểm
cảu một hình vẽ là rất quan trọng.
Ví dụ: Khi dạy về “Diện tích hình chữ nhật” giáo viên cần cho học sinh
nhắc lại đặc điểm của hình chữ nhật thơng qua hình vẽ.
+ Khả năng cắt ghép hình tam giác thành hình chữ nhật.
+ Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ.
Chẳng hạn, đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của
hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực
tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính.
Bài tập VD: Cho hình chữ nhật có cạnh dài là 8cm, cạnh ngắn là 5cm. Tính
diện tích hình chữ nhật đó ?
Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã được
trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài tốn địi hỏi học sinh phải có khả
năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, GV cần rèn cho các em kỹ năng này.
VD: Bài tốn: Cho hình chữ nhật có nửa chu vi là 22cm, cạnh ngắn là 9 cm.
Tính diện tích hình chữ nhật đó ?
- Khi giải bài tốn khơng có cùng đơn vị đo thì phải biết đổi ra cùng một đơn
vị đo.
VD: Số đo cạnh theo mm, số đo diện tích theo cm 2. Vậy phải đổi số đo cạnh
9


ra cm.
- Giáo viên cần lưu ý cho học sinh:
+ Với hình chữ nhật có số đo chu vi là cm, thì đơn vị đo của diện tích là cm2
+ Với hình vng có số đo chu vi là cm thì đơn vị đo của diện tích hình

vng là cm2.
*Với bài toán liên quan đến rút về đơn vị:
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết đề bài yêu càu tính cái gì? Bài
tốn thuộc dạng 1 hay dạng 2 để giải bài tốn.
Ví dụ:
+ Bài tốn ở dạng 1 thì phải tìm giá trị của một phần là thực hiện phép chia
rồi mới tìm được giá trị của nhiruf phần (thực hiện phép tính nhân).
+ Bài tốn chia ở dạng 2 thì: Bước 1 cũng phải tìm giá trị một phần (thực
hiện phép tính chia) nhưng ở bước 2 thì lại khác với bước 2 ở dạng 1 đó là biết
giá trị một phần rồi lại tiếp tục thực hiện phép chia để tìm kết quả theo yêu cầu
của bài toán.
*Điều quan trọng chủ yếu khi dạy giải toán là dạy học sinh biết cách giải bài
toán (phương pháp giải tốn). Giáo viên khơng được làm thay, khơng được áp
đặt cách giải cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài tốn tập trung vào
3 bước:
+ Tính tốn để biết bài tốn cho gì, hỏi gì, u cầu gì?
+ Tìm cách giải thơng qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của
bài toán (giả thiết) với yêu cầu của bài (kết luận) để tìm ra phép tính tương ứng.
+ Trình bày bài giải, viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số.
10


2. Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải tốn điển hình
Trong q trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình, tơi nhận thấy rèn
kĩ năng giải tốn cho học sinh là một biện pháp khơng thể thiếu trong qua trình
dạy học.
Do đặc điểm của mơn tốn ở tiểu học được cấu tạo theo kiểu đồng tâm các
nội dung được củng cố thường xuyên và được phát triển dần từ đơn giản đến
phức tạp, từ dễ đến khó. Sau khi đã lĩnh hội kiến thức, kĩ năng tốn học, để định
hình vững chắc kiến thức ấy, học sinh cần rèn luyện vận dụng qua các dạng bài

tập khác nhau, có yêu cầu cao hơn. Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần
hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc
suy luận, phán đốn và kỹ năng.
- Phân tích đề bài tốn: Là một kỹ năng quan trọng nhất
Ví dụ: Bài tốn 1
“Một tờ giấy hình chữ nhật có chiều dài 72cm, chiều rộng bằng 1/8 chiều
dài. Tính diện tích tờ giấy đó”.
Để giải được bài tốn này học sinh cần phải phân tích đề và dựa vào những
yếu tố đã biết để giải.
+ Bài toán đã biết chiều dài chưa?
+ Bài toán đã biết chiều rộng chưa?
Vậy để tính được diện tích tờ giấy thì ta phải tính gì trước?
Qua hàng loạt câu hỏi đặt ra để phân tích u cầu bài tốn, trả lời được các
câu hỏi đó, học sinh sẽ làm được bài tập dễ dàng.
Với các kỹ năng đã có của học sinh, giáo viên là người giúp học sinh rèn
luyện và phát huy những kỹ năng ấy, cần cho học sinh nắm rõ thuật ngữ toán
11


học”chiều rộng bằng 1/8 chiều dài nghĩa là gì?
Biết phân tích và tóm tắt bài tốn bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và câu
hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có thể nêu lại
được bài tốn, từ đó lập kế hoạch giải, do vậy giáo viên cần hướng dẫn:
+ Muốn tính được diện tích tờ giấy ta cần dữ liệu nào? (có chiều dài, có
chiều rộng).
+ Tìm chiều rộng bằng cách nào ? Lấy 72 : 8 = 9 (cm)
Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể
sẽ tìm cách giải bài tốn về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được cơng
thức tính.
*Bài tốn liên quan đến rút về đơn vị

Giáo viên cũng vận dụng cách hướng dẫn trên, yêu cầu học sinh phân tích
kỹ yêu cầu bài toán, xem bài toán thuộc dạng toán 1 hay dạng tốn 2. Vận dụng
cơng thức tính đến việc suy luận cho nên việc xác định dạng toán là rất
quan trọng.
VD: “Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì
xếp được bao nhiều hàng như thế ?”.
Để giải được bài toán này học sinh cần phải đọc kỹ bài tốn phân tích tóm
tắt bài tốn, xem bài tốn cho biết gì ? Bài tốn u cầu những gì ?
Tóm tắt:
24 cúc áo: 4 cái áo
42 cúc áo: …cái áo
Sau đó lập kế hoạch giải
12


+ Bài toán đã cho biết dữ kiện nào ?(4 cái áo thì cần 24 cái cúc).
+ Bài tốn u cầu làm gì ? (42 cái cúc áo thì dùng cho mấy cái áo như
thế)
Vậy muốn biết 42 cúc áo thì dùng cho mấy cái áo thì ta phải đi tính gì
trước? (Mỗi cái áo cần mấy cái cúc ?) 24 : 4 = 6 (cúc)
Khi đã tính được một cái áo cần mấy cái cúc thì học sinh sẽ tìm được 42
cúc dùng cho mấy cái áo ? (lấy 42 : 6 = 7 (áo)
Muốn giải được tốt bài tốn này u cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích
kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài tốn thơng qua tóm tắt) lập được kế
hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào
giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử
dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có
khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải
toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp.
3. Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải

Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài tốn và lập được kế hoạch giải
cho bài tốn thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan
trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài tốn khơng bị sai, phép tính
chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần
hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn
mà đủ ý. Bài tốn hỏi gì thì trả lời nấu nghĩa là biết dựa vào câu hỏi của
bài tốn để trả lời.
*Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều
cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn
gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả lời
13


bài tốn sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài tốn
cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi
câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để đáp
số bài tốn khơng bị sai theo.
*Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng dẫn
và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng cố
những kiến thức có liên quan đến giải tốn điển hình có ý nghĩa thực tiễn. Từ đó
các em sẽ trình bày đúng bài giải. Chẳng hạn bài toán 1 trang 153, học sinh cần
phải nhận xét: Xét 2 cạnh hình chữ nhật khơng cùng số đo nên phải đổi ra cùng
đơn vị đo: 4 dm = 40 cm, sau đó mới trình bày bài giải:
4 dm = 40 cm
Diện tích hình chữ nhật là:
40 x 8 = 320 (cm2)
Chu vi hình chữ nhật là:
(40 + 8 ) x 2 = 96 (cm)
Đáp số: 320 cm2; 96 cm
Khi học giải tốn xong thì giáo viên phải cho học sinh kiểm tra cách giải

và kết quả là u cầu khơng thể thiếu khi giải tốn và trở thành thói quen đối với
học sinh ngay từ thiểu học. Việc này nhằm phân tích (thử lại) cách giải hay đúng
sai Khi đã có những kỹ năng giải tốn tốt giáo viên cần dạy cho học sinh những
thủ thuật giải tốn trong từng khâu, từng bước giải.
*Ngồi ra những biện pháp đã nêu ở trên để có kết quả học tập tốt thì mỗi
giáo viên cần có tâm huyết với nghề, có nghệ thuật sư phạm, có trách nhiệm
trước học sinh. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học
14


tích cực, phải ln tự bồi dưỡng trau dồi nâng cao trình độ nhận thức cho bản
thân.
Giáo viên cần có năng lực tổ chức các hoạt động dạy học phong phú nhằm
thu hút học sinh tham gia tốt vào hoạt động học và rèn luyện cho học sinh năng
lực khái qt hóa trong giải tốn.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Với những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả nhất định, học sinh giải
các bài tốn có nội dung hình học và dạng toán liên quan đến rút về đơn vị ngày
càng tiến bộ. Học sinh có tư duy sáng tạo, tìm hiểu đúng yêu cầu của đề bài,
trình bày bài giải đúng theo yêu cầu của bài toán.
Kết quả đạt được trong năm học 2020 - 2021 là:
Lớp TSHS

Điểm giỏi
TS

Tỉ lệ

Điểm khá
TS


Tỉ lệ

%
3B

13

4

30,8

Điểm TB
TS

%
7

53,8

Tỉ lệ

Điểm yếu
TS

%
2

15,4


Tỉ lệ
%

0

0

Như vậy lớp tơi đã có nhiều tiến bộ trong việc giải các bài tốn điển hình.
Tuy kết quả này chưa thực sự đã là cao song bản thân tôi cũng thấy vui và tự tin
vào việc làm của mình về sáng kiến kinh nghiệm mà mình đã thực hiện.

Phần III. Phần KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến
15


Dạy và học các bài tốn điển hình ở lớp 3 thực sự là "hòn đá thử vàng" của
dạy học toán, là một yêu cầu quan trọng trong yêu cầu chung của mơn tốn, việc
vận dụng, tìm kiếm những biện pháp dạy học các bài tốn điển hình cho học sinh
lớp 3 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung là đòi hỏi cấp thiết và cũng là
mong muốn của học sinh Tiểu học nói chung, là địi hỏi cấp thiết và mong muốn
của những người quan tâm đến giáo dục, đặc biệt là giáo dục Tiểu học.
Từ lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: giúp học sinh giải tốt các bài tốn
điển hình ở lớp 3 có vị trí hết sức quan trọng, là cầu nối logic của mơn tốn từ
lớp đầu cấp đến các lớp cuối cấp với yêu cầu ngày một cao hơn.
2. Kết luận
Qua quá trình thực nghiệm nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giúp đỡ
học sinh yếu, kém khắc phục khó khăn khi dạy và học các bài tốn điển
hình ở lớp 3’. Bản thân tôi nhận thấy rằng: Là người giáo viên nói chung và
Giáo viên dạy tiểu học nói riêng phải ln học hỏi kinh nghiệm, tự học để nâng

cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, tự cập nhật kiến thức thông tin để đáp ứng
kịp thời sự phát triển của ngành Giáo dục và của toàn xã hội. Để hướng dẫn học
sinh có kiến thức và kỹ năng giải tốn, giúp các em tránh sai sót, phát triển tư
duy, óc sáng tạo, tăng hứng thú học tốn cho học sinh đòi hỏi giáo viên thực hiện
tốt các yêu cầu sau:
- Phải nghiên cứu kỹ bài dạy, xác định đúng kiến thức của bài, thiết kế kế
hoạch bài học phù hợp với trình độ của học sinh lớp mình phụ trách. Tổ chức
hoạt động dạy học theo hướng tích cực hóa người học. Sau mỗi bài cần nhấn
mạnh, khắc sâu kiến thức cơ bản trọng tâm và đề ra phương pháp vận dụng thực
hành chung cho từng dạng toán.
- Khi dạy giải toán cần rèn cho học sinh đọc kỹ đề bài, hiểu đề bài, nhận
biết được dữ liệu đã cho và yêu cầu cần tìm trong mỗi bài toán, nhận biết mối
16


quan hệ giữa các đại lượng trong bài. Hiểu và nhận biết được các từ, thuật ngữ,
khái niệm toán học…Biết tóm tắt và giải tốn bằng sơ đồ, hình vẽ.
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát, suy luận để giải bài tốn. Dựa
trên sơ đồ tóm tắt, trên cơ sở đó giáo viên gợi ý để học sinh tự tìm cách giải bằng
việc định hướng, giúp học sinh phát hiện vấn đè và tìm cách giải quyết vấn đề.
- Thường xuyên hệ thống, củng cố lại kiến thức thông qua các tiết ôn tập,
luyện tập để rèn luyện kĩ năng giải tốn cho học sinh. Từ đó giúp các em nhận
dạng dễ dàng và nắm vững phương pháp, cách giải của từng loại tốn có lời văn.
Trên đây chỉ là nhận định của bản thân tôi trong q trình thực hiện đề tài.
Vì vậy những khó khăn sai sót khi dạy học giải tốn có lời văn vẫn còn xảy ra.
Từ thực tế trên, những biện pháp khắc phục mà bản thân tôi đưa ra cũng chỉ từ
thực tế mà tôi đã đúc kết được ở những năm học trước.
3. Kiến nghị, đề xuất.
- Để thực hiện được cơng việc này thì giáo viên chủ nhiệm phải theo dõi, uốn
nắn các em, hướng dẫn các em thực hành thường xuyên nhất là đối với học sinh

yếu.
- Cần chú ý những học sinh cá biệt vì các em chậm chạp hơn so với các bạn
trong lớp, giáo viên nên hướng dẫn cho em nhiều hơn hoặc chỉ định bạn học giỏi
giúp đỡ em nhiều hơn để em thực hiện được như các bạn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi giúp học sinh nắm vững
phương pháp giải một số bài tốn điển hình của lớp 3. Trong q trình thực hiện
chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tơi kính mong được sự giúp đỡ,
đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp cho sáng kiến kinh nghiệm của
tơi được hồn thiện hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn !
17


MỤC LỤC

18


Phần I: MỞ ĐẦU

TRANG

NỘI DUNG

1

STT
1

Lý do chọn đề tài


2

Điểm mới của đề tài

3

Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phần II: NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1

Những thuận lợi, khó khăn

2

Thực trạng việc dạy học giải tốn có lời văn của giáo viên

3

Thực trạng việc học giải tốn điển hình của học sinh lớp 3
II. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

1

Trang bị những cơng thức quy tắc, kỹ năng giải tốn

2


Biện pháp hình thành và rèn luyện kỹ năng giải tốn điển hình

3

Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Phần III: KẾT LUẬN

1

Ý nghĩa của sáng kiến

2

Kết luận sư phạm

3

Kiến nghị, đề xuất

19


20



×