Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tìm hiểu nghệ thuật quân sự của nguyễn trãi thông qua tác phẩm “quân trung từ mệnh tập”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.8 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG – 2009

TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
CỦA NGUYỄN TRÃI THÔNG QUA TÁC PHẨM
“QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP”

Chủ nhiệm đề tài:
PHAN THANH LONG
SV. ngành: Lịch Sử Việt Nam
Khóa: 2005 - 2009
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN THỊ MAI

Tp. HỒ CHÍ MINH – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG – 2009

TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ


CỦA NGUYỄN TRÃI THÔNG QUA TÁC PHẨM
“QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP”

Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN THỊ MAI
Chủ nhiệm đề tài:
PHAN THANH LONG
SV. ngành: Lịch Sử Việt Nam
Khóa: 2005 - 2009

Tp. HỒ CHÍ MINH – 2009


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ .............................................. 6
NGUYỄN TRÃI.............................................................................................................................. 6
1.

Khái quát về Nguyễn Trãi. ............................................................................................................... 6

2.

Những nhân tố góp phần hình thành nên nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi. ..................... 12

CHƯƠNG II. TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT QN SỰ CỦA NGUYỄN TRÃI THƠNG QUA
TÁC PHẨM “QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP”....................................................................... 25
1.

Chiến lược quân sự của Nguyễn Trãi trong Quân trung từ mệnh tập. ....................................... 25


2.

Chiến thuật quân sự của Nguyễn Trãi trong “Quân trung từ mệnh tập”................................... 58

CHƯƠNG III. VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG VIỆC
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ................................................................... 73
1. Vận dụng nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. ............................................................................................................................................... 73
2. Vận dụng nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi trong việc xây dựng quân đội nhân dân Việt
Nam trong thời đại mới.......................................................................................................................... 77

KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 86


1

MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là danh nhân văn hóa thế giới đã được tổ chức giáo dục,

khoa học và văn hóa của Liên hợp Quốc (UNESCO) vinh danh vào năm 1980 nhân kỷ
niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Nguyễn Trãi đã được nghiên cứu sâu sắc trên nhiều bình diện, lịch sử nghiên cứu về
Nguyễn Trãi cũng rất phong phú. Tuy nhiên như nhiều danh nhân khác, Nguyễn Trãi vẫn
là đối tượng luôn ẩn chứa nhiều điều mới mẻ, do vậy khó có đươc những cơng trình thật

trẹn vẹn và có tiếng nói cuối cùng về ông. Việc tiếp tục nghiên cứu về Nguyễn Trãi để
góp phần làm rõ thêm những đóng góp của ông đối với dân tộc là một việc làm có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn rất to lớn.
Nghiên cứu về Nguyễn Trãi cịn góp phần tìm hiểu thêm về thời đại đã sản sinh ra
ông, một thời đại đầy biến động và có những chuyển biến lớn lao về lịch sử và xã hội
trong quá trình nhà nước Đại Việt xây dựng và phát triển đến đỉnh cao của nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền.
Mặt khác, thực hiện đề tài này cũng chính là sự thể hiện lịng ngưỡng mộ của bản
thân tơi đối với Nguyễn Trãi, một nhân cách lớn của dân tộc.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn vấn đề “Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi thông
qua tác phẩm “Quân Trung từ mệnh tập” để làm bài nghiên cứu khoa học cấp trường của
mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại ở thế kỷ XV trên nhiều phương diện. Vì vậy, từ

trước đến nay, nghiên cứu về cuộc đời và tư tưởng của ông đã thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học dưới nhiều góc độ khác nhau.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu đánh giá về công lao của Nguyễn Trãi ở nước ta đã có từ
thế kỷ XV. Năm 1464, Vua Lê Thánh Tơng đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi,


2

khẳng định sự nghiệp của ông, ca ngợi nhân cách của ơng: “Ức Trai tâm thượng quang
kh tảo” (Tấm lịng Ức Trai sáng như sao khuê). Đến năm 1467, Lê Thánh Tơng lại
xuống chiếu sai Trần Khắc Kiệm tìm lại các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Sau gần 13 năm
sưu tầm cơng phu, cơng trình biên khảo tóm tắt tiêu sử Nguyễn Trãi do Trần Khắc Kiệm
biên soạn đã hoàn thành vào năm 1480 (về sau lại bị thất tán) và đã được in ở đầu cuốn

“Ức Trai thi tập”. Phải đợi khoảng 4 thế kỷ sau, một học giả đời Nguyễn là Dương Bá
Cung dốc sức sưu tầm di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi và được nhà Phúc Khê khắc in vào
năm 1868 có tên chung là Ức Trai thi tập gồm 7 quyển. Đây là di sản thơ văn của
Nguyễn Trãi còn được giữ đến ngày nay.
Vào thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn (1726 - 1784) cũng đã giành một phần trong sự
nghiệp nghiên cứu của mình vào việc khảo cứu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi.
Trong phần khảo cứu này, Lê Quý Đôn đã viết: “Nguyễn Trãi… viết thư gửi tướng soái
nhà Minh, thảo hoạch truyền đi các lộ, đứng vào bậc nhất trong một đời”1.
Đến thế kỷ XIX, Phan Huy Chú (1782 - 1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí
khi tìm hiểu tiểu sử của Nguyễn Trãi đã khẳng định: “ơng có văn chương mưu lược, gặp
được vua, kinh bang tế thế, làm bậc công thần mở nước thứ nhất. Về già muốn an nhàn,
khơng có ý tham luyến quyền vị”2.
Cũng thời gian này, Nguyễn Năng Tĩnh (thế kỷ XVIII - XIX) trong các bài tựa Ức
Trai thi tập đã nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và nhận định: ở
nước ta từ Đinh, Lê, Lý, Trần… đời nào cũng có hững bậc anh hùng mở nước và giữ
nước “nhưng tìm được người tồn tài, tồn đức như Ức Trai tiên sinh thì thật hiếm
lắm”3. Ơng cịn đánh giá cao công lao to lớn của Nguễn Trãi trong cuộc kháng chiến
chống giặc Minh rằng: “tiên sinh đầu tiên hiến kế sách lớn,khơng kể đến việc đánh thành
trì mà bàn thiết tha đến việc thu phục lòng dân. Cuối cùng khiến cho 15 đạo quân, đất
nước đứng dậy, quay đầu về ta, công tiên sinh rõ rệt sán lạn”4.
1

Chương Thâu, Trên bước đường tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi (tuyển), NXB Văn học, Hà Nội,
1980, tr 261.
2
Chương Thâu, sdd, tr 263.
3
Chương Thâu, sdd, tr 265.
4
Nguyễn Minh Tường, Nguyễn Trãi, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, NXB Văn hóa

thơng tin, Hà Nội, 2003, tr 24 – 25.


3

Nghiên cứu về Nguyễn Trãi cuối thế kỷ XIX còn phải kể đến vai trò của Dương Bá
Cung, người dày cơng sưu tầm các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Ơng đã đánh giá Nguyễn
Trãi như sau: “Ức Trai tướng công là bậc đại nho, một đấng công thần, sự nghiệp dày
khắp thiên hạ, văn chương vang đến muôn đời”1.
Như vậy từ thế kỷ XIX trở về trước, các bậc vua chúa, các sử gia đã đánh giá về
Nguyễn Trãi rất cao. Nhưng do những hạn chế về điều kiện lịch sử, về quan điểm giai
cấp nên chưa có một cơng trình nghiên cứu một cách thấu đáo và hệ thống về Nguyễn
Trãi. Vì thế những cơng trình nghiên cứu về ông chỉ mới dừng lại ở mức độ những lời
bình tổng quát.
Từ sau cách mạng tháng Tám đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chúng ta đã có nhiều điều kiện thận lợi để nghiên cứu về Nguyễn Trãi. Đó là cuộc
sống độc lập tự do với niềm tự hào dân tộc và quan trọng hơn là các nhà nghiên cứu đã
được trang bị một phương pháp nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu
về Nguyễn Trãi nói chung và nghệ thuật quân sự của ơng nói riêng đã đạt được nhiều kết
quả rất quan trọng.
Trước hết phải kể đến cơng trình “Nguyễn Trãi – cuộc đời và sự nghiệp” của Trần
Huy Liệu. Tác giả đã khái quát nên được những nét chính trong cuộc đời cũng như trong
sự nghiệp của Nguyễn Trãi. Trong đó, tác giả đã chú ý tập trung phân tích những nét khái
quát về nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi từ khi tham gia vào cuộc kháng chiến chống
Minh.
Nguyễn Lương Bích với tác phẩm “Nguyễn Trãi – đánh giặc cứu nước” cũng đã
làm sáng rõ được phần nào các nhân tố ảnh hưởng đến nghệ thuật quân sự của Nguyễn
Trãi và những điểm nổi bật trong quan điểm qn sự của ơng.
Nói về nghệ thuật qn sự của Nguyễn Trãi chúng ta không thể không nhắc đến luận
án của GS Võ Xuân Đàn “Cống hiến của Nguyễn Trãi trong lịch sử tư tưởng Việt Nam”.

Trong tác phẩm này, tác giả đã đi sâu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tư tưởng của
Nguyễn Trãi. Đề cập một cách có hệ thống các tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Trãi từ đạo
đức, mỹ học, quân sự…
1

Chương Thâu, sdd, tr 264.


4

Ngồi ra, nghệ thuật qn sự của Nguyễn Trãi cịn được đề cập trong rất nhiều tác
phẩm khác như “Tổ tiên ta đánh giặc” của Mặt trận dân tộc Tây Ninh, “Nghệ thuật quân
sự Việt Nam cổ trung đại” của Nguyễn Anh Dũng, Phan Huy Thiệp. hay các bài trên các
tạp chí chun ngành như: “Sách lược “tâm cơng”, cống hiến chủ yếu của Nguyễn Trãi
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc” của Đào Duy Anh, “Cống hiến của Nguyễn Trãi
trong chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV” của Tiến Sơn. Văn Tân với
các bài “Đường lối địch vận của Nguyễn Trãi đã đem lại những kết quả gì cho nghĩa
quân Lam Sơn” và “Cống hiến của Lê Lợi, Nguyễn Trãi vào khoa học quân sự chính
trị”. củng rất nhiều những bài báo, tạp chí khác có liên quan cũng đề cấp đến nghệ thuật
quân sự của Nguyễn Trãi.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích của luận văn: tìm hiểu một cách có hệ thống những tư tưởng quân sự của

Nguyễn Trãi được thể hiện thông qua tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập”. Từ đó nêu lên
ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần phải giải quyết những nhiệm vụ sau
đây:
- Trình bày những nhân tố góp phần hình thành nên nghệ thuật qn sự của Nguyễn

Trãi.
- Trình bày những quan điểm của Nguyễn Trãi về nghệ thuật quân sự trên hai
phương diện chiến lược và chiến thuật quân sự.
- Phân tích, đánh giá những đóng góp của nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi
trong khoa học quân sự Việt Nam nói chung.
- Rút ra được những bai học cho công cuộc xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh.
4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ trên, tôi đã dựa trên thế giới quan và

phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để
nghiên cứu và trình bày luận văn của mình. Đồng thời, tác phẩm sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như phương pháp so sánh, phương pháp logíc, phương pháp đồng đại và


5

lịch đại, phương pháp đối chiếu so sánh... Trong đó, phương pháp lịch sử và phương pháp
logíc là hai phương pháp chủ đạo giúp tơi hồn thành đề tài này.
5. Giới hạn của đề tài.
Đề tài này chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu về nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi
được áp dụng trong cuộc kháng chiến chống Minh dựa trên việc tìm hiểu tác phẩm “Quân
trung từ mệnh tập” của ơng.
6. Đóng góp của đề tài.
Đề tài này góp phần làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản của Nguyễn Trãi về nghệ
thuật quân sự. Làm nổi bật lên một nhân cách lớn trong thời đại phong kiến Việt Nam,
một con người văn võ song tồn hiếm có trong lịch sử.
Ngồi ra đề tài này cịn là nguồn tư liệu tham khảo cho những ai yêu thích Nguyễn

Trãi, đam mê lịch sử quân sự và lịch sử cổ trung đại Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
Về mặt khoa học: luận văn bước đầu nghiên cứu một cách có hệ thống nghệ thuật
quân sự của Nguyễn Trãi và đóng góp của ơng vào khoa học nghệ thuật quân sự Việt
Nam.
Về mặt thực tiễn: đề tài này góp thêm một góc nhìn trong việc tìm hiểu, nghiên cứu
Nguyễn Trãi. Ngồi ra, luận văn cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu về Nguyễn Trãi trên một số phương diện hữu quan.
8. Kết cấu của đề tài.
Đề tài này được hoàn thành ngồi phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi.
Chương II: Tìm hiểu nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi qua tác phẩm “Quân
trung từ mệnh tập”.
Chương III: Vận dụng nghệ thuật quân sự của Nguyễn Trãi trong việc xây dựng
quân đội nhân dân Việt Nam.


6

CHƯƠNG I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
NGUYỄN TRÃI

1.

Khái quát về Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) hiệu là Ức Trai. Theo “Nhị khê Nguyễn tộc thế phả” thì

tổ tiên của Nguyễn Trãi vốn quê ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (tức Phượng Nhãn,
trấn Kinh Bắc) nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Vào thời Trần, họ Nguyễn
chuyển đến làng Nhị Khê vốn là một làng nổi tiếng, nằm trong một vùng phủ huyện danh

tiếng. Cha ông là Nguyễn Ứng Long, một người học rộng hiểu nhiều, còn mẹ là Trần Thị
Thái, con gái của Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi nhà vua. Nguyễn Ứng Long lấy bà
Trần Thị Thái sinh được 7 người con, năm trai và hai gái. Nguyễn Trãi là con trai đầu,
sinh năm 1380 tại quê nhà làng Nhị Khê (theo Phan Huy Chú) sau đó cùng mẹ về ở với
ơng ngoại tại Thăng Long trong dinh quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Năm 1385, bà Trần
Thị Thái thân mẫu Nguyễn Trãi qua đời và mùa thu năm đó Trần Nguyên Đán cáo quan
về nghỉ hưu ở động Thanh Hư trên núi Cơn Sơn (nay thuộc núi Chí Linh, tỉnh Hải Hưng).
Đến năm 1390, đời vua Trần Thuận Tông, Trần Nguyên Đán cũng mất, Nguyễn Trãi trở
về làng sống với cha là Nguyễn Ứng Long. Tại đây, Nguyễn Trãi đã được người cha
Nguyễn Ứng Long ra sức kèm cặp.
Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lật đổ ngôi nhà Trần và dựng
lên nhà nước Đại Ngu. Tháng 8 – 1400, nhà Hồ mở khoa thi Thái học sinh đầu tiên ở
kinh thành Tây Đô, Nguyễn Trãi đã ra thi và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Lúc đó ơng trịn
hai mươi tuổi và được bổ làm quan trong Ngự Sử Đài với chức Chánh Chưởng.
Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh. Ông được Hồ Quý Ly
mời ra làm quan và cử giữ chức Đại lý tự khanh kiêm trung thư đại thị lang, Hàn lâm
viện học sĩ kiêm lãnh chức tư nghiệp Quốc Tử Giám. Hai cha con Nguyễn Trãi đều làm
quan với triều nhà Hồ được sáu năm thì bùng nổ cuộc chiến tranh xâm lược của nhà
Minh. Cuộc kháng chiến chống Minh của Hồ Qúy Ly thất bại, cha con Hồ Quý Ly và


7

một số triều thần tướng lãnh trong đó có Nguyễn Phi Khanh đều bị giặc bắt đưa về Trung
Quốc.
Được tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng đến chỗ quân Minh
giam giữ tù binh để tiễn cha và hai anh em đã theo đoàn xe tù lên ải Nam Quan với ý
định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị tù đày. Đến ải Nam Quan,
Nguyễn Phi Khanh đã khuyên Nguyễn Trãi trở về và giao trách nhiệm rửa nhục cho
nước, trả thù cho cha.

Về thành Đông Quan, Nguyễn Trãi đã bị qn Minh giam lỏng hịng thu phục ơng
để thực hiện những mưu đồ nham hiểm của chúng. Nguyễn Trãi là người am hiểu thời
thế, bết rõ bản chất của kẻ thù và không thể chịu sống cảnh cá chậu chim lồng trong khi
thù nước, hận nhà chưa trả. Lợi dụng sự canh giữ của quân Minh lỏng lẻo, ông thốt khỏi
sự giam lỏng của kẻ thù để tìm phương cứu nước, cứu nhà.
Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của kẻ thù, Nguyễn Trãi đã có mười năm phiêu dạt
trong nhân dân để tránh sự truy đuổi của quân Minh và cũng để tìm đường cứu nước
thốt khỏi ách đô hộ của giặc. Khoảng 1416, Nguyễn Trãi đến Lỗi Giang tìm gặp Lê Lợi,
thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và dâng cho Lê lợi “Bình Ngơ sách”. Đây là kết tinh
nghệ thuật đánh giặc của Ngyễn Trãi. Đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã
vận dụng hết tài năng, trí tuệ và tam lực của mình phục vụ cho cuộc khởi nghĩa cho đến
ngày thắng lợi.
Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Nguyễn Trãi lại đem hết tài năng của mình
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Xây dựng một đất nước mà như ơng hằng
mong muốn là “trong thơn cùng xóm vắng khơng cịn nghe thấy tiếng ốn hờn”. Trên
cương vị nào, ông cũng một lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, kiên quyết đấu
tranh chống lại bọn quan lại xu nịnh, cường quyền. Nhưng đức tính liêm khiết của ông
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự ganh gét của đám quyền thần và cái chết oan khuất
của ông. Nhân cái chết đột ngột của Lê Thái Tông, chúng đổ tội cho Nguyễn Trãi và
Nguyễn Thị Lộ đã âm mưu giết vua, phải mang cái án “chu di tam tộc”. Ngày 16 tháng 8
năm Nhâm Tuất, tức ngày 19 tháng 9 năm 1442, Nguyễn Trãi cùng tất cả gia đình thân


8

thuộc đều bị giết. Đó là nỗi đau lớn của lịch sử dân tộc và cũng là một vết nhơ lớn của
chế độ phong kiến Việt Nam. Mặc dù Nguyễn Trãi chết đi nhưng tinh thần, khí phách
cũng như những tư tưởng vĩ đại của ông sẽ sống mãi cùng non sơng đất nước.
Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế một sự nghiệp đồ
sộ trên rất nhiều các lĩnh vực từ quân sự, văn chương, nhạc kịch…

Trước hết, sự nghiệp của Nguyễn Trãi thể hiện ở lĩnh vực quân sự, chống lại ách
xâm lược nhà Minh. Dưới sự hoạch định chiến lược, chiến thuật của mình, Nguyễn Trãi
đã đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ vị trí một phong trào địa phương đã phát triển thành
phong trào cả nước, từ chiến thuật quân sự chỉ cố thủ trong rừng, phong trào đã bùng lên
khắp nơi, đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, binh vận và ngoại giao.
Cuộc kháng chiến chống Minh do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo nhờ có đường lối
đúng đắn mà liên tiếp giành được thắng lợi. Nguyễn Trãi đã đem hết tài năng và trí tuệ
của mình đóng góp vào cuộc kháng chiến. Ngồi việc cùng Lê Lợi bàn bạc, hoạch định
chiến lược chến thuật đánh quân Minh, Nguyễn Trãi còn là người chỉ huy, người lính
xung kích trên mặt trận đấu tranh chính trị, ngoại giao, binh vận với quân Minh.
Cuộc kháng chiến mười năm chống quân xâm lược nhà Minh đã giành được được
thắng lợi rực rỡ vào năm 1428. Trong chiến thắng lịch sử này, Nguyễn Trãi đã góp phần
cơng lao to lớn, tiêu biểu là những cống hiến quý giá về tư tưởng và đường lối quân sự,
về đấu tranh chính trị và binh vận. Nguyễn Trãi đã đem tất cả tài năng, tất cả tâm hồn và
nghị lực cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong sự nghiệp dựng nước thời Lê Sơ, Nguyễn Trãi đã có những cống hiến mà giá
trị của nó vượt khỏi thời đại và giai cấp của ông thời bấy giờ. Sau ngày đất nước được
thanh bình cho đến ngày ơng bị hãm hại. Nguyễn Trãi mơ ước và ln hành động tích
cực để thực hiện hoài bão xây dựng một “xã hội Đường Ngu”, trên có vua hiền, dưới có
tơi giỏi, trong đó nhân dân sống ấm no, thanh bình bằng sức lao động sáng tạo của mình,
một xã hội “trong thơn cùng xóm vắng, khơng có một tiếng hờn giận, ốn sầu”1.
1

Quốc sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV. NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1968, tr 113.


9

Với tấm lịng vì nước, vì dân, với những tri thức của mình thơng qua việc chế định
các chế, chiếu, biểu, Nguyễn Trãi nêu lên tiêu chuẩn của một bậc vua hiền: “Hịa thuận

tơn thân, nhớ giữ một lịng ưu ái, thương yêu dân chúng, nghĩ những việc khoan nhân.
Chớ thưởng bậy vì tư ân, chớ phạt bừa vì tư nộ. Đừng thích của tiền mà bng xuồng xa
xỉ, đừng gần thanh sắc mà bừa bãi hoang dâm. Cho đến những việc dùng nhân tài, nghe
can gián, ra một chính sách, một mệnh lệnh, phát một lời nói, một việc làm, đều giữ
chính trung làm theo thường điển ngõ hầu trên có thể đáp thiên tâm, dưới có thể thỏa
nhân vọng, thì quốc gia mới được yên vững lâu dài”1.
Trong cuộc đời tận tụy vì dân vì nước, Nguyễn Trãi đã đảm trách 17 chức vụ khác
nhau. Ông đã coi đây là phương tiện để thực hiện hoài bão giúp dân, giúp nước của mình.
Tuy nhiên khơng phải là những chức vụ cao nhất trong triều đình, nhưng là những chức
vụ khá quan trọng để Nguyễn Trãi tiến hành những cơng việc ích nước lợi dân. Theo sự
khảo xét trong “lịch triều hiến chươn loại chí” của Phan Huy Chú thì những chức vụ
chính mà Nguyễn Trãi nắm giữ chun trách những công việc như sau:
“Thượng thư Bộ Lại chuyên giữ công việc quan tước, chọn bổ, xét hạch, thăng
giáng, và các việc điều bổ, cấp cho…
Chức Nhập nội hành khiển là chức quan chuyên việc ban định về pháp lệnh trị
quân, trị dân, kiêm coi công việc Viện khu mật tham gia bàn bạc cơng việc triều chính,
duy trì pháp điển.
Chức Ngự sử thuộc Ngự sử đài là chức quan chun trách việc giữ gìn phong hóa,
pháp độ, sữa chữa điều lỗi, bẻ hoặc điều lầm, ngăn ngừa kẻ dở, cất nhắc người hay, bẻ
bọt thói xấu của các quan và xét ẩn tình của dân chúng.
Chức thừa chỉ học sĩ Viện hàn lâm là chức quan chức quan chuyên giữ việc soạn
các bài chế cáo.
Tả gián nghị đại phu là chức quan chuyên trách việc khuyên can nhà vua.

1

Viện sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, 1976, tr 203.


10


Ngũ kinh bác sĩ thuộc Quốc Tử Giám là chức quan trông coi văn miếu, rèn rập sĩ tử
để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước.
Kiêm tri tam quán sự là chức quan quản lý công việc của ba quán (Nho lâm quán,
Sùng văn quán, Tú lâm cục) chuyên về giảng giải các sách kinh điển của Nho gia”1.
Trên những cương vị đó, Nguyễn Trãi đã đề xuất, soạn thảo, tham gia bàn luận với
các vua, quan trong triều về những vấn đề quốc kế dân sinh, dân chủ, hòa hợp, mở rộng
nhằm thực hiện những đường lối trị nước bằng “nhân nghĩa”, bằng “an dân”, đó là lý
tưởng, là hồi bão của cả cuộc đời ơng. Một tư tưởng chính trị cách mạng trong thời đại
phong kiến ở nước ta mà trước đó và sau đó hàng bao thế kỷ cũng không thể so sánh
được.
Song, Nguyễn Trãi khơng có cơ hội để thực hiện lý tưởng dựng nước cao đẹp của
mình. Vì chế độ phong kiến đang trên con đường chuyên chế, quan liêu ngày càng nặng
nề. Lý tưởng của Nguyễn Trãi đã trở thành chướng ngại của bánh xe chuyên chế đang
lăn. Mâu thuẫn giữa ông và tập đoàn phong kiến thống trị nhà Lê hay nói khác đi mâu
thuẫn giữa tư tưởng nhân nghĩa khai phóng của Nguyễn Trãi với tư tưởng Tống Nho
phản động, giữa phẩm cách thanh liêm, trung thực, tài trí uyên thâm với đầu óc thủ cựu,
tư lợi, vị kỷ trong tập đoàn thống trị nhà Lê. Mâu thuẫn trên đây là nguyên nhân sâu xa
và cũng là nguyên nhân trực tiếp để ông bị gièm pha, ganh ghét, bao lần bị thăng giáng,
có lần bị giam trong ngục và cuối cùng bị tru di ba họ vào ngày 19-9-1442.
Trong sự nghiệp dựng nước, Nguyễn trãi có những đóng góp trong lĩnh vực văn hóa
vơ cùng phong phú, bao gồm nhiều mặt thuộc các lĩnh vực văn học, thơ ca, lịch sử, địa lý,
giáo dục, pháp luật, nghệ thuật.
Nguyễn trãi là nhà bác học, có tư duy “kinh bang tế thế”, có chiến lược xây dựng
cho đất nước một nền văn hóa độc lập, tự cường trên cơ sở kế thừa, tổng kết, phát triển
nền văn hóa Đại Việt từ những thế kỷ trước đến thời đại ông.

1

Huỳnh Lứa, Nguyễn Trãi với sự nghiệp dựng nước thời Lê Sơ, trong tập “kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi”,

Viện khoa học xã hội Tp. Hồ Chí Minh, 1980, tr 73.


11

Với lập trường dân tộc, chống Hán hóa một cách kiên quyết và với một tư duy bác
học ở một trình độ khái qt và hệ thống hóa cao, Nguyễn Trãi đã tổng kết, phát hiện
được những chân lý của thời đại. Ở Nguyễn Trãi những giá trị tư tưởng, khoa học, tình
cảm đã kết tinh thành một thực thể thống nhất, một sức hội tụ lớn lao của cả nền văn hóa
Đại Việt thế kỷ XV.
Tồn bộ sự nghiệp văn hóa của Nguyễn Trãi là xây dựng một nền văn hóa dân tộc,
một nền văn hóa tiến bộ, có tính dân tộc sâu sắc, có giá trị hiện thực lớn, có tính chiến
đấu rất cao, thể hiện một nhân cách đầy đủ nhất chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thế kỷ
XV.
Nguyễn Trãi đã để lại cho dân tộc ta những thành tựu văn hóa to lớn bao gồm nhiều
cơng trình nghiên cứu, biên soạn, sáng tác đậm đà tính dân tộc, nồng nhiệt lịng u nước
và sức mạnh vơ địch của nhân dân. Tiêu biểu là những cơng trình:
“Qn trung từ mệnh tập” và các chiếu biểu viết dưới thời Lê bao gồm 77 bài viết,
là những văn kiện chính trị được viết dưới dạng lệnh, dụ, chiếu, biểu, tấu thể hiện chiến
lược và sách lược trong kháng chiến chống Minh và trong hịa bình xây dựng đất nước:
“Mưu phạt tâm cơng”, trị nước bằng lịng nhân nghĩa “nhân nghĩa mới duy trì được thế
nước n”.
“Dư địa chí”, Nguyễn Trãi viết năm 1435 là tác phẩm địa lý Việt Nam xưa nhất.
Bằng 54 đoạn văn ngắn gọn, xúc tích, Nguyễn Trãi đã tổng kết, khái quát về địa lý, kinh
tế, tài ngun khống sản, ngành nghề thủ cơng nghiệp. Nó có giá trị như một cơng trình
điều tra cơ bản để từ đó đặt cơ sở cho việc xây dựng đất nước thời Lê Sơ.
Những tác phẩm có tính chất lịch sử như “Bình Ngơ đại cáo”, “Chí Linh sơn phú”,
“Lam Sơn thực lục”, “Bia vĩnh lăng”, “chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh” là những áng
văn lịch sử tuyệt tác, là những bản anh hùng ca hay nhất trong lịch sử Việt Nam thời
phong kiến. Đặc biệt tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi khơng chỉ là bản

anh hùng ca, một áng “Thiên cổ hùng văn” mà cịn là một bản tun ngơn bất hủ, tiêu


12

biểu cho ý thức dân tộc và cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và sự bình đẳng nhân
ái giữa các dân tộc trên thế giới.
Nguyễn trãi còn để lại cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại một kho tàng văn học
đồ sộ với hai tập thơ “Quốc âm thi tập” gồm 254 bài thơ viết bằng chữ Nôm và “Ức Trai
thi tập” gồm 105 bài thơ viết bằng chữ Hán. Hai tập thơ trên đã khẳng định Nguyễn trãi
là nhà thơ trữ tình lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam thời phong kiến. Thơ Nguyễn
Trãi có tiếng nói tình cảm tốt đẹp của dân tộc, là sự thể hiện giá trị tinh thần cá nhân của
con người Việt Nam thời đó một cách phong phú, đa dạng với những triết lý nhân sinh,
đạo đức, phong tục tập quán, những lẽ sống và cách ứng xử. Và với “Quốc âm thi tập”,
Nguyễn Trãi đã trở thành nhà thơ Nôm lớn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi có vị trí đặc biệt và có tác dụng hết sức lớn lao
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, trong việc củng cố ý thức dân tộc,
lòng tự hào về truyền thống dân tộc, tin tưởng và hướng tới tương lai. Toàn bộ sự nghiệp
của Nguyễn Trãi là sự nghiệp “kinh bang tế thế”. Ông có thiên tài trong nhiều lĩnh vực:
chính trị, qn sự, giáo dục, địa lý, lịch sự, ngoại giao... Sự nghiệp của Nguyễn Trãi là sự
phấn đấu hy sinh cho dân giàu nước mạnh, đây là lý tưởng của cả cuộc đời ơng.
2.

Những nhân tố góp phần hình thành nên nghệ thuật quân sự của Nguyễn

Trãi.
2.1 Nhân tố truyền thống dân tộc.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng. Ngay từ khi mới dựng nước, dân tộc
Việt Nam đã thường xuyên phải đương đầu với những cuộc xâm lược của các thế lực
ngoại bang hùng mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Từ thế kỷ thứ III TCN đến thế kỷ thứ

XV, dân tộc ta đã có gần 18 thế kỷ kiên cường, tài trí trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Dân tộc ta đã tồn tại sau hàng ngàn năm bị phong kiến phương bắc đô hộ, đã chiến
thắng oanh liệt nhiều kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp bội lần. Thế kỷ thứ III TCN, tổ tiên
ta đã đánh tan 50 vạn quân xâm lược Tần. Hơn 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô
hộ là hơn 1000 năm đấu tranh kiên cường bất khuất để tồn tại và phát triển. Sau khi giành


13

được độc lập từ thế kỷ thứ X, nhân dân ta lại phải hai lần kháng chiến chống Tống, ba lần
kháng chiến chống Nguyên – Mông để bảo vệ tổ quốc. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam ngày càng được phát triển vững chắc.
Truyền thống anh hùng của dân tộc bắt nguồn từ tinh thần yêu nước nồng nàn, từ
lịng u dân vơ hạn, từ khí phách anh hùng bất khuất, từ ý chí dũng cảm hy sinh qun
mình vì nghĩa lớn của cả dân tộc và đã thể hiện ở hàng ngàn năm xưa, trong muôn vàn
hành động kiên cường chiến đấu chống quân xâm lược của nhân dân ta.
Truyền thống anh hùng của dân tộc ta rất rực rỡ, sự nghiệp anh hùng của dân tộc ta
rất vẻ vang, mà khí phách anh hùng của dân tộc ta cũng cao đẹp lạ thường. Ba yếu tố đó
của dân tộc Việt Nam quyện chặt với nhau như hình với bóng. Khơng có khí phách anh
hùng thì khơng có sự nghiệp anh hùng, khơng có sự nghiệp anh hùng nối tiếp từ đời này
qua đời nọ và được phát huy lên thì cũng khơng thể tạo nên truyền thống anh hùng của cả
dân tộc được.
Lời của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn nói với vua Trần: “Bệ hạ hãy chém đầu
thần trước rồi hãy hàng” khi thấy vua Trần hoang mang lo ngại trước cuộc xâm lăng tàn
bạo của giặc Nguyên, cũng như lời của Trần Bình Trọng thét vào mặt giặc “ta thà làm ma
nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” khi ông bị giặc bắt và dụ hàng chính là sự thể
hiện rực rỡ khí phách anh hùng của dân tộc ta.
Nhưng khí phách anh hùng của dân tộc ta không chỉ thể hiện ở những tướng lĩnh
cầm qn mà nó đã thể hiện mn màu mn vẻ trong lời nói, việc làm của tất cả các
tầng lớp nhân dân. Lịch sử của dân tộc ta đã ghi lại không biết bao nhiêu hành động anh

hùng, bao lời nói tràn đầy khí phách, tự hào, dũng cảm của người phụ nữ, của cụ già, của
những em nhỏ Việt Nam.
Từ hơn 1000 năm trước Nguyễn Trãi, lời Bà Triệu “Tơi quyết cưỡi lên gió mạnh,
đạp lên sóng dữ, đánh đuổi giặc Ngô, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ
chứ không thể làm tỳ thiếp người”, một lời nói tiêu biểu cho khí phách anh hùng của


14

người phụ nữ Việt Nam, cịn vọng mãi tới mn đời sau và đã cổ vũ khích lệ người Việt
Nam ở các thế hệ nối tiếp làm nên biết bao sự nghiệp anh hùng khác.
Lời hô “quyết đánh” của các cụ già đầu bạc răng long thay mặt cho nhân dân ta thời
Trần họp tại điện Diên Hồng để bàn việc nước là một tiếng kêu hùng tráng thôi thúc mọi
người đồng tâm nhất trí, dũng cảm xơng lên đánh tan quân Nguyên xâm lược.
Hình ảnh em bé Phù Đổng trong truyền thuyết từ mấy nghìn năm xưa, nghe theo
tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, vươn vai đứng dậy, xung phong ra đánh giặc, cứu
nước là một hình ảnh tươi đẹp rực rỡ như thiên thần của thanh thiếu niên Việt Nam đã có
ngay từ những ngày mở đầu của lịch sử dân tộc. Hình ảnh thiên thần Phù Đổng cùng với
hình ảnh người thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản thời Trần, căm giặc cướp nước,
nghiến răng bóp nát quả cam trên tay, cương quyết dương ngọn cờ “phá cường địch, báo
hồng ân”, tình nguyện đem người nhà, bà con thân thuộc, xông pha trận tuyến đánh giặc
lập cơng đã là những tấm gương phản chiếu khí phách anh hùng và tinh thân dũng cảm
tuyệt vời của thanh thiếu niên Việt Nam, một lực lượng tiền phong xung kích và hùng
mạnh nhất của dân tộc ở tất cả các thời đại, lúc nào cũng sẵn lòng hiến thân mình cho tổ
quốc, để cứu nước nhà, bảo vệ non sơng gấm vóc từ ngàn xưa để lại.
Truyền thống anh hùng đó là sự thể hiện ra thành hành động ý chí, ý thức dân tộc và
tinh thần làm chủ đất nước của nhân dân ta, trở thành một truyền thống lâu đời của dân
tộc, truyền thống anh dũng, bất khuất kiên cường chiến đấu cho độc lập, thống nhất tổ
quốc.
Dân tộc ta hình thành rất sớm, dựng nước rất sớm và ý thức dân tộc cũng nảy nở rất

sớm. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, ý thức dân tộc của nhân dân ta
ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc. Ý thức đó đã có ở tất cả các tầng lớp nhân dân, tất cả các
lứa tuổi và ở tất cả các thời đại. Tinh thần anh dũng bất khuất của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý
Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn cho đến các cụ già trong điện Diên Hồng hay các em nhỏ
Thánh Gióng, Trần Quốc Toản... Đã là tượng trưng rực rỡ cho ý thức dân tộc kiên cường
của nhân dân ta qua các thời đại. Ý thức dân tộc đã tạo nên khí phách anh hùng và những
phẩm chất cao quý của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Ý thức dân tộc, khí


15

phách dân tộc và những đạo đức cao quý đó đã tạo cho dân tộc ta một sức mạnh tinh thần
rất lớn để đánh thắng quân xâm lược.
2.2 Nhân tố gia đình.
Trong những nhân tố góp phần hình thành nên nhân cách của Nguyễn Trãi chúng ta
không thể không kể đến tác động của gia đình. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long,
một nho sinh nghèo, còn mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba của quan Tư Đồ Trần
Nguyên Đán, họ vua, cháu bốn đời của Trần Quang Khải, người danh tướng mà tên tuổi
gắn liền với những chiến công oanh liệt ở Chương Dương, Thăng Long, Tây Kết, Hàm
Tử, đánh tan quân Nguyên xâm lược vào cuối thế kỷ XIII. Việc cha mẹ Nguyễn Trãi lấy
nhau đã trở thành một giai thoại trong lịch sử, giai thoại đó biểu dương ý chí chống lễ
giáo phong kiến của người con gái “lá ngọc cành vàng” dòng họ nhà vua, cương quyết
lấy chồng là một nho sĩ nghèo. Và Nguyễn Ứng Long, người danh sĩ đương thời cũng sẵn
sàng với cuộc tình dun đẹp đẽ ấy, khơng ra làm quan, khơng cần “vinh thân phì gia”
mà chỉ làm một thầy đồ dạy trẻ trong hơn hai mươi năm liền, để ghi vào lịch sử chế độ
khắc nghiệt tàn bạo của giai cấp thống trị Việt Nam cuối thời Trần. Sinh ra trong một gia
đình như vậy, nhưng tư tưởng phóng khống cương nghị của cha mẹ Nguyễn Trãi chống
đối lại những ràng buộc của chế độ phong kiến áp bức, khinh dân, không thể không ảnh
hưởng đến tâm hồn của Nguyễn Trãi ngay từ lúc trẻ thơ.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Trãi đã nhận được sự giáo dục ân cần của cha mẹ. Thầy đồ

Nguyễn Ứng Long đã dồn tâm huyết của mình vào việc dạy bảo cho những người con
của mình. Ơng khơng ra làm quan một phần cũng vì thấy xã hội nhiễu nhương lúc bấy
giờ nên chuyên tâm dạy dỗ con cái, cam chịu cảnh “một ông đồ nghèo”. Năm 1383, lúc
Nguyễn Trãi mới ba tuổi thì giặc Chiêm nổi lên, triều đình phải bỏ cả kinh thành chạy
giặc và Nguyễn Ứng Long cũng phải rời bỏ mẹ già, vợ con để đi lánh nạn. Mãi đến năm
1385, Nguyễn Ứng Long mới từ nơi lánh nạn trở về. Vừa lọt lòng mẹ được vài tuổi,
Nguyễn Trãi đã phải chịu cảnh chiến tranh tàn phá, loạn lạc chia ly, sống xa cha mấy
năm, nhưng Nguyễn Trãi vẫn được sự chỉ bảo tận tình của mẹ và cũng rất chịu khó “lục
tuế nhi đồng phả ái thư” (sáu tuổi đã ham đọc sách). Khi hết chiến tranh, cha con chồng


16

vợ gặp nhau, vui cảnh gia đình đồn tụ nhưng gia đình Nguyễn Trãi cũng như bao cảnh
gia đình của quần chúng nhân dân ta lúc đó, vẫn phải sống đói khổ thiếu thốn, vì chiến
tranh tàn phá, vì sự bất lực của bọn vua tôi nhà Trần không khôi phục được tình hình kinh
tế sau loạn lạc, vì giai cấp thống trị vẫn tăng cường bóc lột nhân dân để thỏa mãn đời
sống riêng của chúng. Những cảnh chết chóc đói khổ ấy đã có ấn tượng sâu sắc trong đời
sống Nguyễn Trãi và làm nảy nở trong đầu Nguyễn Trãi những tư tưởng căm thù xâm
lược, oán ghét giai cấp thống trị bóc lột và những tình cảm yêu nước yêu dân, thương
quần chúng nhân dân lao động ngay từ trẻ thơ.
Cũng trong năm 1385, Trần Nguyên Đán – người đã khơng ngần ngại vượt ra ngồi
những lễ giáo phong kiến đã cho phép cha mẹ Nguyễn Trãi lấy nhau cũng đã nghỉ quan,
về hưu dưỡng tại Côn Sơn. Nguyễn Trãi được đón về Cơn Sơn ở với ơng ngoại, có lẽ
cũng vì Trần Ngun Đán muốn cho Nguyễn Trãi đỡ khổ và bớt phần vất vả cho cha mẹ
Nguyễn Trãi. Là một người yêu nước thương dân vô hạn, Trần Nguyên Đán cũng đành
bất lực trước xã hội đương thời:
Năm nay đại hạn thu mưa dầm,
Lúa khô, mạ hỏng hại rất lớn.
Ba vạn quyển sách cũng vô dụng,

Bạc đầu vẫn phụ lịng thương dân.
Về sống với ơng ngoại, Nguyễn Trãi lại được sự dạy dỗ chỉ bảo trực tiếp của ông
ngoại. Những tư tưởng yêu dân, yêu nước từ Trần Nguyên Đán đươc truyền sang người
cháu ngoại Nguyễn Trãi. Nhưng về ở với ông ngoại được vài năm thì mẹ mất và ở với
ơng ngoại được năm năm thì ơng ngoại cũng qua đời. Lúc đó Nguyễn Trãi mới 10 tuổi.
Từ đấy Nguyễn Ứng Long một mình nuôi nấng dạy dỗ bốn con nhỏ: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Báo, Nguyễn Hùng và Nguyễn Ly với nghề thầy đồ dạy trẻ của ông. Kiếm ăn với
nghề thầy đồ dạy trẻ trong một hồn cảnh xã hội thiếu thốn, đói kém như thế, cuộc sống
của 5 cha con Nguyễn Ứng Long chắc chắn là vô cùng chật vật và kéo dài mãi đến khi
triều Trần sụp đổ hẳn.
Mặc dù cuộc sống rất khó khăn nhưng Nguyễn Ứng Long vẫn rất tận tâm truyền thụ
những tư tưởng yêu nước, yêu dân của mình cho con cái. Mười lăm năm được thân phụ


17

kèm cặp trong hồn cảnh vơ cùng khó khăn do chiến tranh tàn phá, xã hội loạn lạc những
Nguyễn Trãi vẫn quyết chí học hành và đến tuổi thanh niên đã nổi tiếng là người tài cao
học rộng “thanh niên phương dự ái nho lâm” (Thuở thanh niên tiếng thơm ngát rừng
nho). Nguyễn Phi Khanh cũng là một người có lịng thương u dân vơ hạn:
An đắc thử nhân như thác thược
Hòa phong xuy biến cửu châu tâm.
(Chỉ ước dân ta làm ống bễ
Thổi làn gió ấm tới mn phương)
Tấm lịng thương dân của Nguyễn Phi Khanh và của ơng ngoại Trần Nguyên Đán
cùng với thực tế cuộc sống đau khổ của nhân dân mà Nguyễn Trãi đã nhìn thấy ngay
trong cuộc sống thường ngày không thể không in sâu vào trong tâm trí của ơng ngay từ
thuở nhỏ.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học, cùng với sự dạy bảo tận tình
của cha mẹ, của ơng ngoại – những con người có nhân cách lớn – đã có ảnh hưởng to lớn

đến Nguyễn Trãi. Những tư tưởng yêu nước, những băn khoăn trăn trở của cha, ông
ngoại từ rất sớm đã trở thành những suy tư trăn trở của Nguyễn Trãi.
2.3 Nhân tố thời đại Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh xã hội hết sức nhiễu nhương.
Triều đại nhà Trần sau một thời kỳ phát triển cực thịnh đã đi dần đến khủng hoảng. Trong
nội bộ giai cấp thống trị diễn ra hàng loạt những vụ chém giết, tranh cướp lẫn nhau và
không biết bao cảnh chơi bời dâm dật của bọn vua chúa vương hầu. Giai cấp thống trị lục
đục, sa đọa thì xã hội khơng ổn định. Gia nơ bị bọn vương hầu q tộc bóc lột, đàn áp
thậm tệ. Nông dân luôn bị cướp đoạt ruộng đất. Nạn mất mùa đói kém trầm trọng diễn ra
hết năm này đến năm khác. Trần Nguyên Đán đã phải than thở về cảnh đói khổ của nhân
dân và sự bất lực của mình trước cảnh đói khổ đó:
“Ba vạn quyển sách cũng vô dụng,
Bạc đầu đành phụ nỗi thương dân”.


18

Cùng với cảnh đói rét, dịch bệnh, chết chóc, tơ thuế lao dịch triền miên, người dân
còn phải chịu nhiều thứ ức hiếp cấm đốn khác. Là gia nơ thì dù có chiến cơng lớn cũng
khơng được nhận quan tước. Là người lính thì suốt đời làm lính, khơng được học, không
được đi thi. Sống trong cảnh bị đè nén, bóc lột đói khổ, chết chóc, người dân khơng thể
cam chịu mãi. Họ đã vùng lên chống lại bọn thống trị. Nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang
của nông dân ta đã liên tiếp nổ ra, nhất là từ giữa thế kỷ XIV trở đi. Xung đột giữa quần
chúng nhân dân và giai cấp thống trị ngày càng thêm gay gắt. Trong khi đó xung đột
tranh chấp nội bộ giai cấp thống trị cũng ngày càng kịch liệt. Giai cấp thống trị nhà Trần
đã không tập hợp được lực lượng cả nước tạo thành một sức mạnh để bảo vệ đất nước.
Chính trong hồn cảnh nước nhà rối loạn và suy yếu, giặc ngoại xâm luôn luôn lăm
le đe dọa. Chiêm Thành đánh phá, xâm lấn Đại Việt vẫn diễn ra liên tiếp từ trước cho đến
sau khi Nguyễn Trãi ra đời. Năm 1383, Chiêm Thành đánh ra tới Quảng Oai (thuộc Hà
Tây ngày nay). Vua tôi nhà Trần phải bỏ Thăng Long lên vùng núi Tiên Du lập triều đình

cung điện tại núi Phật Tích tới gần 5 năm sau (tức đầu năm 1387) mới trở về Thăng
Long. Họa xâm lấn của nước láng giềng ở phương Nam chưa trừ được thì họa xâm lăng
của nước láng giềng phương Bắc đã bắt đầu đe dọa nghiêm trọng. Những hoạch sách ức
hiếp của nhà Minh ngày càng tăng. Từ năm 1384 tới năm 1395 vua tơi nhà Minh ln địi
hỏi nước ta phải nộp người, voi chiến, lương thực, hoa quả cho chúng. Trước tình thế
nước nhà ln bị đe dọa như vậy, bọn vua chúa nhà Trần khơng có cách gì để đối phó.
Nhìn thấy sự bất lực của nhà Trần, một đại thần là Hồ Quý Ly muốn thay thế nhà
Trần, thành lập một triều đại mới, mong cứu vãn tình thế. Năm 1400, Hồ Quý Ly đã lật
đổ nhà Trần, thiết lập nên triều đại nhà Hồ, ông đã có nhiều cố gắng cải tổ lại đất nước để
đương đầu với nguy cơ xâm lược của nhà Minh. Song những cố gắng của Hồ Quý Ly
cũng không thể cải thiện được tình hình mà dường như lại làm cho mâu thuẫn đó ngày
càng gay gắt hơn. Những chính sách cải cách của Hồ Quý Ly đã không phát huy được tác
dụng tích cực của nó mà ngược lại làm cho sự chia rẽ giữa chính quyền và nhân dân ngày
càng sâu sắc hơn. Tháng 11 năm 1406, quân Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước
ta và đến tháng 6 năm 1407 đã hoàn thành việc xâm lược nước ta. Hồ Quý Ly cùng tất
thảy tướng lĩnh tùy tùng đều bị bắt.


19

Tuy nhiên, quân Minh xâm lược chỉ đè bẹp được cuộc kháng chiến của nhà Hồ chứ
không thể đè bẹp được tinh thần quật cường bất khuất và ý chí đánh giặc cứu nước của
nhân dân ta. Tháng 6 năm 1407, quân của Hồ Quý Ly tan rã, cha con của Hồ Quý Ly bị
giặc bắt thì liền ngay sau đó từ Nam chí Bắc, phong trào đấu tranh vũ trang chống giặc
cứu nước của nhân dân ta đã bùng lên mạnh mẽ. Ngay trong sáu tháng cuối năm 1407,
những cuộc đấu tranh chống giặc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra ở các vùng mà ngày
nay thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng
n, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Bên cạnh phong trào của quần chúng
cịn có hai cuộc khởi nghĩa của Trần Nguỗi và Trần Quý Khoáng. Hầu hết các cuộc khởi
nghãi đầu tiên này đều bị giặc dập tắt nhanh chóng. Duy chỉ có cuộc khởi nghĩa của Trần

Nguỗi và Trần Quý Khoáng là lớn mạnh hơn cả và kéo dài trong vòng sáu năm.
Được nhân dân ủng hộ nên từ giữa năm 1408 trở đi, phong trào đã kiểm soát được
một vùng đất đai rộng lớn từ Thanh Hóa, Nghệ An cho tới Tân Bình, Thuận Hóa. Cuối
năm 1408, nghĩa quân tiến ra Bắc, đánh thắng giặc Minh ở Bình Than, Hàm Tử Quan,
thu phục được các miền Từ Liêm, Uy Man, Thạch Thất, Thượng Hồng, khống chế vùng
Tam Giang (miền Vĩnh Phúc) và đánh ngoại vi thành Đông Quan (tức Thăng Long). Thế
giặc nao núng khơng đủ sức đố phó, phải xin viện binh từ nước Minh sang cứu. Danh
tướng Mộc Thạch của giặc Minh mang 4 vạn viện binh sang, phối hợp với quân của
chúng ở nước ta tập trung thành một lực lượng lớn ở Bô Cô để đại phá nghĩa quân. Cuối
tháng 12 năm 1408, nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của Đặng Tất đã phá tan quân giặc,
tiêu diệt 10 vạn quân, hầu hết các tướng lĩnh của giặc đều bị giết chết tại trận. Duy chỉ có
Mộc Thạch chạy thốt về thành Cổ Lộng.
Với đà chiến thắng đó, nghĩa qn có đầy đủ khả năng đánh bại hồn tồn quân xâm
lược, giải phóng đất nước, giành lại độc lập cho tổ quốc. Nhưng liền sau chiến thắng Bô
Cô, Trần Nguỗi vì địa vị, quyền lợi ích kỷ của mình, đã nghe lời gièm pha, lừa giết chết
Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai tướng trụ cột của phong trào. Cũng từ đó phong
trào bắt đầu phân tán, chia rẽ. Con của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là Đặng Dung và
Nguyễn Cảnh Dị đem một bộ phận nghĩa qn đi đón Trần Q Khống, cháu nội Trần


20

Nghệ Tông lập làm vua, xưng là Trùng Quang Đế. Hai phe họ Trần đánh lộn lẫn nhau
dẫn đến phong trào ngày càng yếu dân và đến năm 1414 thì tan rã hẳn.
Trong khi cuộc khởi nghĩa của bọn tôn thất nhà Trần ngày càng suy yếu thì phong
trào đấu tranh của nhân dân vẫn sôi nổi khắp nơi. Năm 1409, Hoàng Cự Liêm nổi dậy ở
miền Hà Tây, Nguyễn Sư Cối và Đỗ Nguyên Thố nổi dậy ở vùng Kiến Thụy – Hải
Phịng, Hồng Thiêm Hữu nổi dậy ở vùng Lạng Sơn. Sang năm 1410 – 1411, phong trào
đấu tranh ngày càng sôi nổi. Đồng Mặc khởi nghĩa ở Thanh Hóa, Đỗ Cối và Nguyễn
Hiêu khởi nghĩa ở Trường n (Ninh Bình), Phạm Tuấn khởi nghĩa ở Khối Châu, Lê

Nhị ở Từ Liêm và Thanh Oai... Trong hơn 6 năm liền, kể từ sau cuộc kháng chiến của
nhà Hồ thất bại tới năm 1913, giặc Minh không được một phút nghỉ ngơi trên đất Việt
Nam. Nhưng trước sức đàn áp dã man của giặc, tới đầu năm 1414, phong trào đấu tranh
của nhân dân ta tạm thời lắng xuống.
Nhân lúc phong trào đấu tranh của nhân dân ta lắng xuống, qn Minh đẩy mạnh
chính sách vơ vét bóc lột nhân dân ta. Ruộng đất của nhân dân ta, cứ ba sào ruộng phải
tính một mẫu, và một mẫu như thế phải nộp thuế 5 thăng thóc, một thứ thuế ruộng đất
nặng chưa từng có trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Cùng với thuế ruộng đất
thì các loại thuế khác như thuế bãi dâu, thuế ươm tơ dệt lụa đều rất nặng. Quân Minh còn
nắm độc quyền mua bán muối, lập các mỏ vàng, mỏ bạc, bắt nhân dân ta xuống biển mò
cua, lên rừng săn các loại chim thú quý... Không chịu được cảnh áp bức bóc lột nặng nề
của nhà Minh, nhân dân ta lại liên tiếp nổi dậy.
Với một thời đại đầy rẫy những sự bất công, sự rối loạn nhiễu nhương như vậy
không thể không ảnh hưởng đến tư tưởng của Nguyễn Trãi. Sự thất bại của những phong
trào đấu tranh chống ách thống trị của nhà Minh đã để lại cho Nguyễn Trãi nhiều bài học
q giá, giúp ơng có thể hồn thiện hơn những tư tưởng nghệ thuật đánh giặc của mình.
2.4 Tiếp thu tinh hoa thế giới.
Nguyễn Trãi tiếp nhận tinh hoa thế giới chủ yếu thể hiện ở Nho – Phật – Lão. Do
hoàn cảnh lịch sử của dân tộc Việt Nam, các học thuyết này khi du nhập vào Việt Nam
khơng những khơng phá vỡ sự hồn chỉnh vốn có của thế giới quan người Việt mà đã


21

dung hòa và phát triển được trên cơ sở truyền thống dân tộc và hợp thành thế giới quan
của người Việt.
Thời Lý – Trần, Nho, Phật, Lão đều được quan tâm và cùng tồn tại, các lý thuyết
“tam giáo đồng nguyên” “tam giáo đồng quy”, “tam giáo nhất nguyên”. Quan điểm này
vẫn còn tồn tại ở những triều đại tiếp theo.
Cùng với dân tộc, cùng với lịch sử, Nguyễn Trãi đã biết chọn lọc để tiếp thu những

giá trị tinh hoa của văn hóa, văn minh nhân loại, ở đây là của Trung Quốc để làm phong
phú thêm tư duy của bản thân, tạo thành nguồn gốc, nền tảng tư tưởng của mình với
những sắc thái và giá trị vĩnh cửu đối với dân tộc.
Đạo Phật truyền vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên và đã trở
thành một hệ tư tưởng tơn giáo có sức sống lâu dài, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh
thần của dân tộc ta trong lịch sử. Tiếp thu Phật giáo, tư duy của dân tộc có thêm một số
khái niệm và phạm trù cơ bản thuộc về bản thể luận và nhận thức luận.
Mặt tích cực của Phật giáo là chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người: sinh,
lão, bệnh, tử. Nếu con người nhận thức được nó sẽ khơng sợ hãi trước sự thay đổi của
cuộc đời. Trong quan niệm “Ngũ uẩn” của Phật giáo đã chứa đựng một qúa trình nhận
thức bao gồm các bước hợp lý: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Với các khái niệm “Vô
thường” “Vô ngã”, Phật giáo đã đưa vào tư tưởng người Việt những quan niệm sơ khai
về biện chứng: sự vật luôn vận động và biến đổi liên tục. Trong thuyết nhân duyên và
mối quan hệ “nhân quả” của Phật giáo biểu hiện một sự nhận thức có chứa đựng nhiều
yếu tố hợp lý, biện chứng sơ khai.
Tư tưởng từ bi, bác ái, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn đã gây được sự xúc động trong lòng
người, trở thành một trong những nguồn gốc sâu xa của lòng thương người, của chủ
nghĩa nhân đạo.
Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc và cùng với lịch sử phát triển
của đất nước, Nho giáo đã xâm nhập vào đời sống của nhân dân và phát triển trong mối
quan hệ xoắn xít với Phật giáo và Lão giáo, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý của dân tộc, đã
từng giữ một vị trí đặc biệt, là hệ tư tưởng thống trị của xã hội nước ta thời phong kiến,
góp phần ổn định đời sống xã hội và củng cố trật tự phong kiến. “Trong Nho giáo nguyên


22

thủy có nhiều yếu tố của sự bình đẳng và cơng bằng hơn, Mạnh tử trở về trước có nhân
tố dân chủ, lễ ký với đại đồng”1.
Trung tâm của học thuyết Khổng – Mạnh là “Nhân” và “Nghĩa” và được Khổng Tử,

mạnh Tử đề cao nhằm giúp cho giai cấp thống trị “bình thiên hạ” và xác định được mối
quan hệ giữa kẻ thống trị và người bị trị.
Từ thời Lý Trần, những tác phẩm kinh điển của Nho gia như: Ngũ Kinh, Luận Ngữ,
sách Mạnh Tử được lưu truyền rộng rãi, được đưa vào nhà trường để giáo dục đào tạo
quan lại và được chọn làm nội dung thi cử tuyển chọn nhân tài. Khổng Tử trở thành thần
tượng của giới trí thức Nho học thời phong kiến, với tư cách là một trong những nhà tư
tưởng đầu tiên của nhân loại, nhà nhân văn chủ nghĩa đầu tiên đi vào những vấn đề của
con người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng.
Tư tưởng của Lão Tử được truyền bá ở Trung Quốc từ thời kỳ Tiền Hán (năm 206
TCN). Tư tưởng của Trang Tử được truyền bá ở Trung Quốc từ thời hậu Hán, từ năm 25
đến 220. Nền tảng chung của tư tưởng Lão – Trang là hai quan niệm về Đạo và Đức và
cả hai đều chống tư tưởng truyền thống và chế độ đương thời. Tư tưởng yếm thế, chủ
trương quay về bắt chước giới tự nhiên, sống với tự nhiên, đề xướng thuyết “vô vi”, kẻ
cầm quyền phải lấy đạo để cảm hóa dân chúng, dùng hịa bình, n ổn để thu phục thiên
hạ là nội dung chủ yếu của các học thuyết này.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam trong quá trình phát triển của lịch sử
dân tộc đã tiếp thu và biến đổi các đạo Nho, Phật, Lão. Đến thời Lý Trần coi trọng cả ba
giáo, trên cơ sở truyền thống dân tộc, chủ yếu là truyền thống yêu nước và nhân ái, kết
tinh những mặt tích cực của ba giáo thành một tinh thần rộng mở sáng ngời, trước và sau
ít thấy trong thời đại phong kiến.
Nguyễn Trãi đã kế thừa và tiếp thu tinh thần rộng mở, hòa hợp của dân tộc để tiếp
thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của các giá trị tinh thần từ bên ngồi làm cho tư
tưởng của ơng ngày càng sáng rõ, cao vút vượt cả thời đại và giai cấp của ông.

1

Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào đấu tranh giải phóng đất nước vào đầu thế kỷ
XV, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr 12.



×