Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

trung thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.15 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Kinh tế thời nhà Nguyễn</b>


<b>Thương mại</b>


<i><b>Nội thương </b></i>


Việc thống nhất đất nước vào đầu thế kỷ 19 là một điều kiện thuận lợi cho thương mại phục hồi
và tái phát triển sau một thời gian dài suy thối. Tuy nhiên, thương mại Việt Nam vẫn khơng
phát triển, tổ chức thương mại của người Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội
bn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi
chia tiền ngay, không liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam
dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay
công nghệ.


Việc buôn bán ở các chợ quy mô lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối, dù những người này chỉ
là thiểu số. Các mặt hàng tiêu dùng họ kinh doanh gồm có: mua thổ sản như gạo, lúa, bắp,


đường, hạt tiêu... và bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy....


Trong vùng nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ
cơng ở các chợ. Ở đó, ngồi những cửa hàng tạp hóa quy mơ nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc
Bắc, cịn có những nơng dân bán thổ sản và nông sản địa phương và một số thương nhân nhỏ bán
vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ này sang chợ khác.


Theo sử gia Trần Trọng Kim, người Việt Nam chỉ quanh quẩn trong nước, buôn bán những hàng
hóa lặt vặt, nên bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất.


Ở Kẻ Chợ trong thế kỷ XIX các thương khu (phường) đã thay đổi bản chất, đã thốt ly khỏi trạng
thái chợ phiên có kỳ hạn và đã có thương gia cùng thợ thuyền cư trú thường xuyên. Thanh Hoá


được bắt đầu xây dựng đầu thời Gia Long và tới năm 1885 đã là 1 trung tâm thương mại. Ở kinh
đô Huế, năm 1837, triều đình đã cho lập chợ Gia Hội có tất cả 399 gian, dài suốt hơn 319 trượng


Những trung tâm thương mại từ cuối thế kỷ XVIII cũng vẫn tiếp tục hoạt động trong thế kỷ XIX.


Hội An tương tự 1 Bazar lớn của Ấn Độ với khoảng 60.000 dân mà 1/3 là Hoa kiều. Hàng năm
có những thuyền buồm Trung Hoa lường đến 600 tấn tới buôn bán.


Ở Huế, người Tàu và người Việt buôn bán rất lớn. Thuyền bn Trung Quốc chở đến vải vóc, đồ


sứ, trà, thuốc Bắc, đồ chơi... và chở về thổ sản như cau khơ, tơ sống, gỗ, sơn, sừngtê và ngàvoi.
Ngồi các tổ chức buôn bán đại quy mô ra, Hoa kiều trong các đơ thị lớn cịn kinh doanh sịng
bạc, đánh đề hay đút lót cho các quan để được đúc tiền, trưng thầu thuế đò, thuế chợ hay độc
quyền rượu. Có những Hoa thương có thế lực cịn chiếm độc quyền cung cấp hàng cho triều
đình. Dù vậy, guồng máy triều đình cản trở nhiều sự trao đổi hàng hoá bởi sự nhiêu khê của các
thủ tục hành chính ở các cửa ải và sở thuế.


Cải cách tiền tệ giúp cho thương mại phát triển hơn so với thế kỷ trước. Vua Gia Long và Minh
Mạng đã cho đúc những nén vàng, nén bạc, nhờ đó thương mại đã có bước tiến hơn trước. Tuy
nhiên, tiền ít được đầu tư và được dân chúng đem cất trữ bởi tâm lý dân chúng còn mang nặng
tính nơng nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Cho tới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương Tây khá cẩn trọng
nhưng thương mại với họ vẫn được khuyến khích. Hoạt động thương mại của Việt Nam với các
nước láng giềng không thể phát triển tự do khi các quan chức đánh thuế nặng lên thương mại,
cịn thủ tục thì rất phiền phức. Ngồi ra, triều đình cịn cấm đốn một số mặt hàng, muốn bán
phải có giấy phép riêng. Guồng máy hành chính của nhà Nguyễn cản trở rất nhiều các hoạt động
của thương nhân trong thế kỷ XIX mà cũng không có một tầng lớp trung lưu làm giàu bằng
thương mại để thúc đẩy triều đình mở rộng giao dịch quốc tế.


Về các thành thị cơng thương thì trung tâm vẫn là Thăng Long, Bến Nghé, Đà Nẵng, Gia Định,
còn Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà do nhiều nguyên nhân trở nên suy tàn và không thể phục hồi
như xưa. Xuất hiện thêm vài hiệu buôn người Hoa, một số phường thủ công cũng ổn định mặt


hàng nhưng khơng thay đổi nhiều.


Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến đi công cán đến các nước trong khu vực để thực hiện giao
dịch buôn bán. Năm 1824, Minh Mạng đã sai người đi công cán ở Hạ Châu (Singapore) và
Giang Lưu Ba (Indonesia). Năm 1825, vua Minh Mạng phái người sang Hạ Châu mua vải và đồ
thủy tinh. Sau đó, mỗi năm đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của người
Âu ở khắp Đông Nam Á. Từ 1831-1832 trở đi, các chuyến công cán càng lúc càng nhiều, điểm
đến cũng khá đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống (Luzon - Philippines), đảo Borneo, Quảng Đông,
Giang Lưu Ba,... Trong khoảng 1835-1840 đã có 21 chiếc được cử đi.Hàng bán ra chủ yếu là


gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là lendạ và vũ khí, đạn dược. Các hoạt động này gần
như là độc quyền của triều đình dù tư nhân khơng bị cấm. Dù vậy, nhiều thương nhân cũng lợi
dụng các chuyến buôn bán này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng Châu.
Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt Nam và Singapore. Thương nhân
người Hoa thường lén chở gạo đi và đem thuốc phiện về. Trong những năm 1820-1830, giao
dịch với Singapore rất hạn chế. Nguyên nhân do hàng hóa của Việt Nam phù hợp với thị trường


Trung Hoa hơn. Khi người Pháp sắp chiếm hết Nam Kỳ, các bản lược kê tài chính cho thấy quan
thuế hàng năm tương đương 3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000 mà các quan
viên đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền chuyển về triều
đình rất nhiều.


Từ thời Thiệu Trị, do xung đột với phương Tây từ nguyên nhân tôn giáo, quan hệ buôn bán với
các nước này bị tổn hại. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa. Triều
đình cũng tìm cách cản trở dân thường buôn bán với người Tây nên cuối cùng, thương gia ngoại
quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai, trong đó người Hoa chiếm tỷ lệ lớn nhất.


<b>Thủ công nghiệp</b>


Giống các triều đại trước, thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chiếm một vị trí rất quan


trọng: nó chế tạo tất cả những đồ dùng cho hồng gia, tham gia đóng thuyền cho qn đội, đúc
vũ khí, đúc tiền,... Chính vì vậy, nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ
công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng
<i>đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long</i> Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ
<i>công, như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, </i>
làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện
<i>đồng,... Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loài thuyền cơng và thuyền chiến, gồm 235 sở trên </i>
<i>tồn quốc. Ngồi ra cịn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

trừng phạt nặng nề để ngăn chặn. Họ chỉ dám làm những thứ nhỏ để bán cho dễ, những người
nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý. Đầu Thế kỷ
XIX có người chế được men sứ tốt hơn của Trung Quốc nhưng phải bỏ trốn vì sợ bị trưng dụng


làm cho triều đình; một số khác phải giả làm đồ Trung Quốc để không bị các quan mua rẻ hay
lấy khơng.


<i>Trong nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ John White đã nhận xét:" Người Việt Nam quả</i>


<i>là những người đóng tàu thành thạo. Họ hồn thành cơng trình của họ với một kỹ thuật hết sức </i>
<i>chính xác." Ngồi các thuyền gỗ, người thợ thủ cơng VN cịn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng. </i>


Ngồi ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc tiên tiến và có chất lượng vào thời đó, ví dụ các
máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng,... và cả máy hơi nước.


Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có
3.122 nhân cơng trong các mỏ Nhà nước. Tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém
phát triển so với thế giới.


<b>Nông nghiệp</b>



<i><b>Vấn đề ruộng đất</b></i>


Ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ
việc cầm cố loại công điền công thổ này để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân. Đạo dụ
<i>năm Gia Long thứ 2 (1803) có ghi rõ:"Phàm xã dân có cơng điền cơng thổ đều khơng được mua </i>


<i>bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền..."</i>


Trải qua nội chiến, nhân dân điêu đứng rất nhiều. Hết chiến hoạ lại gặp mất mùa liên tiếp. Triều
đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Thời Minh Mạng định lại phép quân cấp
ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, cơng tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng dân đinh,
không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng 1 phần khẩu phân nhưng quan lại, cường hào cũng
giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cơ nhi, quả phụ
được 1/3.


<i><b>Việc khai hoang và phục hóa</b></i>


Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục một số công việc từ thời các chúa Nguyễn để lại như
việc khẩn hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ở Nam Kỳ, người dân đã tự do đến khẩn
hoang với tư cách cá nhân hoặc tập thể dưới sự giúp đỡ của triều đình. Sử sách cũng ghi lại tên
tuổi nhiều người đã có cơng trong việc đào kênh, vỡ đất như Thoại Ngọc Hầu.


Triều đình nhà Nguyễn dành cho việc khai hoang, phục hóa rất nhiều sự quan tâm, họ đã cho tiến
hành nhiều chính sách khai khẩn hoang khác nhau và đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Diện tích
ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều: năm 1847 đã là 4.273.013 mẫu


Hai vị quan tổ chức khẩn hoang nổi tiếng nhất là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương;
trong đó Nguyễn Cơng Trứ nổi lên vì là tác giả của ba chính sách khẩn hoang lớn: đồn điền,
doanh điền và khai khẩn ruộng hoang. Cụ thể như sau:



<i><b>Đồn điền </b></i>


Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm để thực hiện việc khai
khẩn đất hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được quản lý theo cung cách đồn điền


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

sống ổn định thì sẽ chuyển sang hình thức bình thường. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng
Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào
năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả 6 tỉnh.


<i><b>Doanh điền </b></i>


Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều đình và nhân dân, thực hiện di dân
để lập ấp mới. Hình thức này bắt đầu được thực hiện từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng theo
đề nghị của Tham tán quân vụ Bắc thành Nguyễn Cơng Trứ. Theo đó, triều đình sẽ bỏ vốn ban
đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ và chỉ đạo dân chúng đưa đi khai hoang


Trong 6 tháng đầu, triều đình sẽ cấp cho dân chúng đi khai hoang đầy đủ lương thực và phương
tiện sản xuất. Từ tháng thứ 7 thì dân phải tự lo. Triều đình sẽ miễn thuế cho các ấp và lý mới này
3 năm.Tổng Giao Thủy thuộc Nam Định cũng được thành lập theo hình thức này. Về sau, các
quan ở Gia Định gồm Trương Minh Giảng, Cao Hữu Dực, Trần Hoàn, Phạm Hữu Chỉnh và


Nguyễn Tri Phương cũng bắt chước thực thi chính sách này trên vùng Gia Định, đồng thời với
chính sách đồn điền trên một quy mô rất lớn và thu được nhiều thành cơng, diện tích ruộng đất
đã tăng lên rất nhiều.


Chính sách đồn điền và doanh điền được triều đình kèm theo một loạt luật lệ thưởng phạt phân
minh để khai thác triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn tình trạng bỏ đất nhưng cũng khơng dứt hẳn
được hiện tượng ruộng hoang.


Ngồi ra, triều đình Nguyễn cịn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa.


Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt thời vua
Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 suất
và 4.063.892 mẫu ruộng đất.


Tuy nói trên tồn diện, đất cơng điền khơng q 1/5 diện tích canh tác, nhưng phần đất còn lại
được phân phối giữa các nông dân mà đa số chỉ làm chủ tới 5 mẫu là nhiều. Hạng người có 100
mẫu trở lên thì rất ít, mỗi tỉnh có nhiều nhất là 5, 3 người.


Quan điểm của các sử gia Việt Nam cũng đã thay đổi khi nhìn nhận về vấn đề này. Theo nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu thì việc xuất hiện của các đại điền chủ ở phía Nam sản xuất lúa
gạo đại trà, bứt phá khỏi cảnh sản xuất manh mún nhỏ lẻ thì đó là mặt đổi mới rất tích cực và rất
đáng ngợi khen.


<i><b>Việc trị thủy</b></i>


Tại một quốc gia dựa trên căn bản là nông nghiệp như Việt Nam, vấn đề trị thủy càng hệ trọng
hơn nữa do các con sông lớn không có thủy chế điều hịa. Đối với nạn nướclụt và nạn triều biển
cần phải đắp đê.


Vua Gia Long vừa lên ngôi đã quan tâm đến vấn đề đê điều và cho người tu bổ đê cũ, đắp thêm
<i>đê mới. Năm 1809, ông lại cho đặt nha Bắc Thành đê chánh và các chức Tổng lý và Tham lý đê </i>
chánh để lo vấn đề đê điều ở các trấn xứ Bắc Kỳ. Tới năm 1828, theo đề nghị của các quan, vua


Minh Mạng cho cho tăng cường thêm nhân sự cho nha môn đê chánh nhưng tới 1833 thì bỏ nha
này đi để chuyên ủy việc đê điều cho các <i>Đốc biện</i> tại các tỉnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Năm 1809, hệ thống đê điều ở Bắc Thành tổng cộng là 239.933 trượng tương đương 960 km.
Đến hết thời Gia Long, hơn 47 cây số đê điều đã được tu sửa. Và sau 21 năm dưới thời nhà
Nguyễn, chiều dài các con đê ở Bắc Kỳ đã tăng lên 303.616 trượng tương đương 1.215 km. Tới
cuối thế kỷ XIX thì hệ thống đê này đã dài tới 2.400 km.



Mặc dù triều đình dành rất nhiều quan tâm nhiều tới việc trị thủy nhưng vấn đề này vẫn không
được giải quyết như mong đợi. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, như thiếu sự phối hợp đồng bộ
và quy hoạch chung giữa các địa phương, do tác động của môi trường, sinh thái,... các đê đắp lên
cứ vỡ liên miên. Đặc biệt là ở sông Hồng, vì đất bồi nên lịng sơng giữa 2 con đê cao hơn mặt
<i>đất, mỗi khi nước lớn thì đê khơng tài nào cản nổi. Triều đình phân vân trong 3 cách: giữ đê, phá</i>


<i>đê và đào thêm sông. Ngay từ thời Minh Mạng</i>, nhà vua đã nhiều lần hội nghị về việc này, khi
thì hỏi quan địa phương, lúc lại hỏi đình thần nhưng người thì bàn phá đê, người lại chủ trương
đào sông mới, ý kiến bất đồng quá nhiều tới nỗi thời 2 vua Thiệu Trị và Tự Đức phải treo bảng
khắp nơi để trưng cầu dân ý. Do việc bất đồng kéo dài nên triều đình vẫn phải giữ đê mà đê vẫn
tiếp tục vỡ.


<b>Việc cứu đói</b>


Mỗi khi mất mùa vì lụt lội hay hạn hán, giá gạo lên cao gây khó khăn về lương thực. Nạn thiếu
ăn thường hoành hành tại các tỉnh nghèo nhất mà lại hay gặp thiên tai như Nghệ An. Người dân
bị đói tràn khắp vùng thôn quê, tụ họp nhau đi cướp và những người chống triều đình lợi dụng sự
bất mãn của những đồn dân đói này để xách động nổi loạn như ở Thanh Hóa và Nghệ An năm
1819.


Triều đình phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu đói, thường là chẩn cấp. Để có
phương tiện thực hiện cứu trợ khẩn cấp, triều đình thiết lập các kho lương trữ lúa cho việc cứu tế
được gọi là <i>Bình Chuẩn Thương</i>, người nghèo túng có thể mua gạo giá rẻ hơn bình thường và
khơng giới hạn, từ 1,2 phương tới cả thưng, đấu, bát.


Ngồi ra triều Nguyễn cịn lập ra <i>Nghĩa Thương</i> là những kho trữ lúa ở các tỉnh và phủ, huyện.
Những khi đói kém thì các kho này được mở ra để phát chẩn cho dân nghèo. Thời Tự Đức tổ
chức <i>Xã Thương</i>, khi gạo đắt thì bán ra, khi gạo rẻ thì đong lại để lưu trữ, có thể cho vay, thu lợi
bao nhiêu dùng để cấp dưỡng binh đinh và giúp người nghèo.



Thời Minh Mạng triều đình cũng bắt quan lại các tỉnh phải xuất lúa giống ở kho cho dân nghèo
vay để làm mùa sau, nhằm làm cho nông nghiệp khơng bị đình trệ và việc mất mùa khơng ảnh
hưởng nhiều sang các năm sau.


Dù cho các biện pháp cứu tế này làm công quỹ hao hụt không ít nhưng chỉ có thể ngăn cản nạn
đói khỏi lan rộng trong 1 thời gian ngắn, ngăn sự tăng giá của lương thực nhưng chỉ là những
liều thuốc cấp thời, khơng thể ngăn chặn một cách dứt khốt sự thiếu hụt lương thực. Ngoài ra,
việc quan lại địa phương tham nhũng cũng làm giảm hiệu năng của các biện pháp này. Triều
đình phải liên tiếp ban hành các đạo dụ để nghiêm trị.


</div>

<!--links-->


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×